SKKN Rèn luyện kỹ năng nói trước đám đông qua giờ dạy ngữ văn cho học sinh lớp 6 trường THCS Nga Mỹ

SKKN Rèn luyện kỹ năng nói trước đám đông qua giờ dạy ngữ văn cho học sinh lớp 6 trường THCS Nga Mỹ

Dạy học không chỉ là truyền đạt kiến thức, tri thức mà còn hình thành các kỹ năng, giúp các em phát triển một cách toàn diện, chuẩn bị cho các em hành trang vào đời một cách tự tin. Nhất là trong xu hướng hội nhập, đề cao tính tư duy độc lập, tự tin, sáng tạo của con người trong xã hội ngày nay, thì việc rèn luyện kỹ năng trong giao tiếp cho học sinh là vô cùng cần thiết.

Từ xưa đến nay ngôn ngữ đã góp phần quan trọng trong giao tiếp, trao đổi thông tin, biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lý và là yếu tố quan trọng trong việc thể hiện văn hóa, tính cách con người.Vì thế ông bà ta thường dạy: “học ăn, học nói, học mở” không phải ngẫu nhiên mà “học nói” được xếp vào vị trí thứ hai. Điều này cho thấy nói là một kỹ năng rất quan trọng trong giao tiếp hàng ngày .

Richard Zeoli, một chuyên gia trong lĩnh vực nói trước công chúng có câu: “Năng khiếu nếu có chỉ là một phần, tất cả đều do khổ luyện mà thành!” Nếu như nghe, đọc là hai khái niệm quan trọng của hoạt động tiếp nhận thông tin thì nói và viết là hai khái niệm quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt thông tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường. Nhiều học sinh thường rèn luyện rất tốt việc viết nhưng lại ngại nói. Bởi vậy có trường hợp khi ở một mình với nhóm bạn thân hay khi về nhà thì “nói như khiếu” nhưng cứ đứng trước đám đông cho dù chỉ là trước lớp hay trước toàn trường (cũng “lứu lưỡi” lại nói chẳng đâu vào đâu).

 

doc 33 trang thuychi01 33188
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Rèn luyện kỹ năng nói trước đám đông qua giờ dạy ngữ văn cho học sinh lớp 6 trường THCS Nga Mỹ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
PHÒNG GD&ĐT NGA SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI TRƯỚC ĐÁM ĐÔNG QUA GIỜ DẠY NGỮ VĂN CHO HỌC SINH LỚP 6 TRƯỜNG THCS NGA MỸ
Người thực hiện: Mai Thị Nhớ
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Nga Mỹ
SKKN thuộc môn: Ngữ văn
THANH HOÁ NĂM 2017
MỤC LỤC
STT
Nội dung
Trang
1
MỞ ĐẦU
2
1.1
Lý do chọn đề tài
2
1.2
Mục đích nghiên cứu
3
1.3
Đối tượng nghiên cứu
3
1.4
Phương pháp nghiên cứu
3
2
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
4
2.1
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
4
2.2
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
4
2.3
. Một số giải pháp
6
2.3.1
Luôn tạo tính tự tin, tự chủ qua cách đứng lên trả lời câu hỏi hoặc kiểm tra bài cũ
6
2.3.2
Rèn luyện ngôn ngữ nói qua việc luyện đọc trong giờ học văn bản
9
2.3.3
Rèn luyện tư thế cử chỉ, ánh mắt, nét mặt qua tiết luyện nói
12
2.4
Hiệu quả của sáng kiến kinh 
18
3
KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ
20
3.1
Kết luận
20
3.2
Kiến nghị
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. MỞ ĐẦU
 	1.1 Lí do chọn đề tài:
Dạy học không chỉ là truyền đạt kiến thức, tri thức mà còn hình thành các kỹ năng, giúp các em phát triển một cách toàn diện, chuẩn bị cho các em hành trang vào đời một cách tự tin. Nhất là trong xu hướng hội nhập, đề cao tính tư duy độc lập, tự tin, sáng tạo của con người trong xã hội ngày nay, thì việc rèn luyện kỹ năng trong giao tiếp cho học sinh là vô cùng cần thiết.
Từ xưa đến nay ngôn ngữ đã góp phần quan trọng trong giao tiếp, trao đổi thông tin, biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lý và là yếu tố quan trọng trong việc thể hiện văn hóa, tính cách con người.Vì thế ông bà ta thường dạy: “học ăn, học nói, học mở” không phải ngẫu nhiên mà “học nói” được xếp vào vị trí thứ hai. Điều này cho thấy nói là một kỹ năng rất quan trọng trong giao tiếp hàng ngày .
Richard Zeoli, một chuyên gia trong lĩnh vực nói trước công chúng có câu: “Năng khiếu nếu có chỉ là một phần, tất cả đều do khổ luyện mà thành!” Nếu như nghe, đọc là hai khái niệm quan trọng của hoạt động tiếp nhận thông tin thì nói và viết là hai khái niệm quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt thông tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường. Nhiều học sinh thường rèn luyện rất tốt việc viết nhưng lại ngại nói. Bởi vậy có trường hợp khi ở một mình với nhóm bạn thân hay khi về nhà thì “nói như khiếu” nhưng cứ đứng trước đám đông cho dù chỉ là trước lớp hay trước toàn trường (cũng “lứu lưỡi” lại nói chẳng đâu vào đâu).
Vậy nói trước đám đông là việc không đơn giản. Đó là kỹ năng cần được học tập và rèn luyện thường xuyên.
Thiết nghĩ rèn luyện kỹ năng nói trước đám đông cho học sinh là một việc làm thiết thực và góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn ngữ văn, rèn luyện cho các em mạnh dạn trước tập thể, tự tin, có kĩ năng giao tiếp trong cuộc sống. 
Trong những năm học qua, giáo viên bộ môn ngữ văn dần tiếp cận và nắm vững phương pháp dạy học mới. Người thầy không chỉ đóng vai chỉ đạo, hướng dẫn học sinh chủ động khám phá, chiếm lĩnh tri thức mà còn hình thành cho các em những kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Qua mỗi bài học, mỗi học sinh phải tự mình bộc lộ sự hiểu biết, phát triển tư duy thành lời . Phương pháp dạy học mới đó giúp các em tự tin , giao tiếp mạnh dạn, phát huy được khả năng của bản thân và đặc biệt đó là yếu tố cấu thành nên sự thành công. 
Nhận thức rõ được vai trò của hoạt động nói những năm gần đây, tôi đã áp dụng phương pháp dạy học phát triển kỹ năng nói của học sinh nhằm giúp các em rèn luyện để tự tin khi giao tiếp trước đám đông.Qua đề tài :Rèn luyện kỹ năng nói trước đám đông qua giờ dạy ngữ văn cho học sinh lớp 6 trường THCS Nga Mỹ tôi muốn chia sẻ kinh nghiệm của mình trong việc giúp các em phát triển toàn diện kỹ năng đáp ứng yêu cầu của xã hội.
1.2 Mục đích nghiên cứu: 
Từ trước đến nay có rất nhiều công trình, tài liệu nghiên cứu để giúp học sinh phát triển kỹ năng sống, song chưa có công trình nào đề cập đến rèn kỹ năng nói trước đám đông cho học sinh lớp 6 (một lứa tuổi đang hình thành nhân cách, mới bước vào bậc THCS) qua giờ dạy ngữ văn. Đây là đề tài khá mới mà bản thân tôi muốn tìm hiểu để đưa ra một giải pháp có thể rèn luyện kĩ năng nói trước đám đông cho học sinh. 
Trong quá trình giảng dạy tôi có sự tìm tòi, học hỏi, vận dụng và đã thấy được hiệu quả. Rèn luyện nói trước đám đông giúp học sinh hình thành kĩ năng, cách xác định : Nói với ai? nói vấn đề gì? nói ở đâu? nói khi nào? nói để làm gì? và nói như thế nào? nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục toàn diện học sinh.
1.3 Đối tượng nghiêm cứu: 
Học sinh lớp 6 trường THCS Nga Mỹ năm học 2015-2016 .
1.4 Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp quan sát, điều tra.
Khi hướng dẫn học sinh học, tôi luôn quan sát, chú ý xem các em nói như thế nào, cái gì được, cái gì chưa được để tìm ra biện pháp và phương pháp thích hợp giúp các em có kỹ năng giao tiếp tốt.
-Phương pháp phân tích, tổng hợp.
Với học sinh lớp 6, đầu năm học tất cả đều rất mới lạ. Khi thực hiện các hoạt động giao tiếp như đứng dậy trả lời câu hỏi, lên bảng kiểm tra bài cũ, đọc bài... các em ít chủ động hỏi lại, còn rụt rè mất tự tin khi nói. Bởi vậy qua tìm hiểu và tổng hợp kết quả khảo sát, tôi thấy cần tăng cường chú ý rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh có kết quả tốt hơn.
-Phương pháp thực hành.
Đây là phương pháp chủ đạo của rèn kỹ năng nói trước đám đông cho học sinh. Phương pháp thực hành bao gồm các hoạt động như luyện tập, ôn tập và hoạt động tương trợ, hỗ trợ rồi tới hoạt động độc lập của học sinh. Trong các tiết ngữ văn tôi luôn áp dụng phương pháp này để giúp các em hình thành thói quen nói trong giao tiếp.
 2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Nói trước đám đông là một hình thức giao tiếp đặc biệt, nhằm truyền tải thông tin, chia sẻ kinh nghiệm, hô hào hành động tác động vào tình cảm của người nghe, từ đó có sự định hướng hành động.
Trong xã hội ngày nay, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và xu hướng hội nhập, càng đòi hỏi con người phải có sự phát triển toàn diện. Bởi vậy, nhà trường đóng vai trò nền tảng, là nơi giáo dục học sinh ngay từ những ngày đầu bước chân tới trường. Sự giáo dục ấy với mục tiêu giúp các em phát triển trí tuệ, hoàn thiện nhân cách, phát huy khả năng của các em để trở thành những con người có ích cho xã hội.
Hiện nay các nước trên thế giới rất coi trọng dạy học theo quan điểm giao tiếp. Đây là một trong những tư tưởng quan trọng của chiến lược dạy học các môn ngôn ngữ, lấy hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là năng lực nghe, nói, đọc,viết là trọng tâm.
Trong học tập học sinh phải chăm chỉ làm bài tập, thế nhưng nếu không có kĩ năng giao tiếp, làm sao một học sinh có thể trình bày thắc mắc với thầy cô giáo. Bởi vậy giao tiếp thật là miếng ghép quan trọng nhất trong bức tranh thành công của mọi cuộc đời. 
Lợi ích của kỹ năng giao tiếp rõ ràng ai cũng hiểu nhưng có một kỹ năng nói tốt thật ra lại là điều khó đạt được đặc biệt là đối với học sinh THCS. Và nhất là các em lớp 6, kĩ năng đó cần được học tập và rèn luyện từ từ thường xuyên. 
Đối với học sinh lớp 6 mới chập chững bước từ cấp tiểu học lên, mọi thứ đều mới lạ, đều phải rèn luyện. Nhiều em khi giáo viên hỏi, gọi đọc bài còn đánh vần từng chữ một, run sợ khi đứng dậy đọc bài chứ nói gì đến việc nói lưu loát. Bởi vậy “Rèn luyện kỹ năng nói trước đám đông qua giờ dạy ngữ văn cho học sinh lớp 6 trường THCS Nga Mỹ” là một việc làm cần thiết đối với các em học sinh đặc biệt là học sinh lớp 6.
2.2 Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến:
Hiện nay khả năng giao tiếp tự nhiên của trẻ em ở nông thôn kém hơn trẻ em thành phố. Điều này là do nhiều nguyên nhân trong đó ở môi trường nông thôn phần lớn các em thuộc gia đình làm nông cha mẹ ít có thời gian quan tâm tới việc học của các em, chưa chú trọng đến việc phát triển kỹ năng sống nên nói trước đám đông là vấn đề khó khăn của các em do đó khả năng nói còn kém hơn so với đọc và viết. 
 Những học sinh ít nói, ít được giao tiếp với mọi người thường hay rụt rè ngại ngùng. Điều này thường xảy ra với những học sinh không giữ những trọng trách gì trong lớp học hoặc do có thành tích học tâp không tốt hay không có tài năng khác như ca múa, làm thơ viết văn. Chính vì các em nghĩ mình không có tài, không tốt nên sợ mọi người chê cười, ngại phát biểu trước đám đông vì sợ nói không chính xác hoặc mọi người không đánh giá cao.
Trong học tập còn rất nhiều học sinh vẫn hay ấp úng ngại ngùng, mỗi khi giơ tay phát biểu một điều mình biết rõ. Phần lớn các em ngại việc kiểm tra bài cũ, run sợ khi lên bảng và khi trả lời thì quên hết dù trước đó đã hiểu và nắm bài tốt
Có một thực tế hiện nay là nhiều thế hệ học sinh khi ra trường không biết nói ra điều mình nghĩ, không truyền đạt được chính xác một thông tin hoặc không thực hiện đúng những nguyên tắc giao tiếp.
Nhiều giáo viên có chú ý rèn kỹ năng nói cho học sinh song còn lúng túng trong khâu soạn giảng cũng như qui trình các hoạt động lên lớp. Một phần cũng do sách giáo viên không có hướng dẫn cụ thể.
Với các em lớp 6 do môi trường mới phần lớn các em thường rụt rè, không chú trọng rèn luyện kỹ năng nói sẽ tạo thành “thói quen” nhút nhát ngại giao tiếp sau này của các em.
Thực tế ở trường THCS Nga Mỹ qua các năm dạy, tôi thấy kỹ năng nói của học sinh còn kém. Cụ thể trong năm học 2015-2016 trước khi thực hiện đề tài, tôi chia học sinh theo ba mức độ để đánh giá: Nói tốt, nói ấp úng, nói chưa được và tiến hành khảo sát. Kết quả khảo sát kỹ năng nói như sau: 
Lớp
Sĩ số
Nói tốt
Nói ấp úng
Nói chưa được
SL
%
SL
%
SL
%
6
35
4
11.4
13
37.1
18
51.5
Nhìn vào bảng số liệu chúng ta có thể nhận thấy số lượng học sinh nói chưa được gấp 4.5 lần học sinh nói tốt và số lượng học sinh nói ấp úng gấp 3.3 lần học sinh nói tốt. Từ các con số này, tôi thấy được khả năng nói của các em còn hạn chế, cần có sự uốn nắn, rèn luyện để đáp ứng mục tiêu của dạy học môn Ngữ văn là giúp cho học sinh có được kỹ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt tương đối thành thạo; là hình thành những con người có ý thức, có tư tưởng tình cảm cao đẹp, có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mỹ, giúp học sinh biết bộc lộ tư tưởng, truyền đạt thông tin trong hoàn cảnh giao tiếp khác nhau.
 	Từ kết quả khảo sát tôi đưa ra những giải pháp sau:
2.3 Một số giải pháp:
* Các giải pháp thực hiện trong giờ dạy.
Để giúp học sinh rèn luyện kỹ năng nói và phát triển khả năng diễn đạt ý phong phú, điều trước tiên là tôi phải xác định và nắm rõ mục tiêu cần đạt của tiết dạy để có sự định hướng giúp các em. Sau đó tôi nắm bắt thực tế và khả năng nói của từng em để đưa ra phương pháp, hình thức dạy học phù hợp với các giải pháp sau:
2.3.1: Luôn tạo tính tự tin, tự chủ qua cách đứng lên trả lời câu hỏi hoặc kiểm tra bài cũ.
Dạy văn không chỉ là giúp học sinh tiếp nhận tri thức, là bồi dưỡng đạo đức mà còn giúp các em có sự tự tin vào bản thân. Đặc biệt với các em học sinh lớp 6, khi bước vào môi trường mới, sự làm quen mới thì rất cần một sự dìu dắt để tạo tính tự tin tự chủ. Làm chủ được bản thân trong mọi tình huống các em có thể nói trước đám đông một cách thuyết phục.
Trả lời câu hỏi hay trả lời bài cũ là công việc thường xuyên của các em trong bất cứ giờ học nào. Nhưng một thực tế mà chúng ta đều nhận ra là khi lên bảng kiểm tra bài cũ hay đứng lên trả lời câu hỏi của giáo viên, các em thường hay run, tâm lí lo sợ, có em biểu hiện rõ ở vẻ mặt sợ sệt, tái nhợt, lời nói lắp bắp run run. Có những em hiểu bài nhưng khi giáo viên gọi thường không trả lời được, có em học bài cũ chu đáo khi lên bảng đứng trước cả lớp và giáo viên thì vì run mà quên hết. Những cảm xúc, những biểu hiện mà các em gặp chính là do các em thiếu tính tự tin, tự chủ.
Hiểu được khó khăn đó của các em, ngay từ khi các em mới vào lớp 6, tôi đã chủ động rèn luyện tính tự chủ, tự tin cho các em qua việc trả lời câu hỏi hoặc kiểm tra bài cũ. Đây cũng là một giải pháp quan trọng góp phần giúp các em có thể đứng trước đám đông để tự tin tự chủ giao tiếp tốt.
 Để rèn luyện cho học sinh tôi đặt ra các yêu cầu sau:
- Đối với giáo viên:
+ Nắm bắt được đặc điểm tâm lí của từng em học sinh trong lớp.
+ Tăng cường gần gũi, giao tiếp thường ngày với học sinh
+ Ra câu hỏi và gọi học sinh trả lời theo đúng lực học của các em. Câu hỏi phân theo mức độ: dễ, trung bình, nâng cao.
+ Cần chú ý đến những em học sinh nhút nhát, rụt rè.
+ Có thái độ nhẹ nhàng, cử chỉ ân cần, có sự khen ngợi khích lệ cho điểm.
+ Uốn nắn cách trả lời cho các em.
- Đối với học sinh:
+ Cần chuẩn bị bài ở nhà chu đáo: học bài cũ và soạn bài mới trước khi lên lớp.
+ Cần có tinh thần cầu thị, học hỏi phấn đấu.
+ Tăng cường tham gia các hoạt động tập thể ở trường cũng như ở địa phương
Từ các yêu cầu đó trong mỗi tiết dạy tôi đều chú ý uốn nắn cho các em: 
- Đối với việc kiểm tra bài cũ: Tâm lí của các em luôn ngại, vào đầu tiết dạy các em luôn có biểu hiện “căng thẳng” khi giáo viên kiểm tra bài cũ. Bởi vậy tôi luôn tìm cách để công việc kiểm tra bài cũ không còn là việc “đáng sợ” của các em bằng cách:
Khi vào lớp, tôi luôn có thái độ niềm nở, thân thiện với các em, tạo những tình huống thú vị qua các câu hỏi vừa có tính chất lôi cuốn vừa xóa đi sự căng thẳng cho các em.
Ví dụ: Khi kiểm tra bài cũ văn bản “Mẹ hiền dạy con” (SGK ngữ văn 6 tập1) giáo viên hỏi: Em nào có thể đọc một bài thơ hay hát một bài hát về mẹ?
Sau khi học sinh trình bày xong giáo viên có thể hỏi: Em cảm nhận như thế nào về người mẹ qua bài hát đó?
Học sinh có thể trả lời sơ sài từ khả năng của mình. Giáo viên có thể gọi một số em khác bổ sung.
Sau đó giáo viên hỏi: Người mẹ trong câu chuyện “me hiền dạy con” có những phẩm chất đó không? Ngoài ra người mẹ trong câu chuyện còn có những phẩm chất nào nữa?
Học sinh trả lời, các bạn khác bổ xung để hoàn thiện.
Trong quá trình học sinh trả lời giáo viên cần quan sát luôn có ánh mắt cổ vũ động viên các em, gợi ý và gợi thêm từ để các em diễn đạt.
Sau khi học sinh trả lời xong, giáo viên cần cho điểm theo tinh thần khuyến khích, cần tìm ra điểm khen ngợi cho các em. Ngoài ra giáo viên có thể cho điểm các bạn đã xung phong trả lời hỗ trợ bạn.
Từ bước kiểm tra bài cũ mang tính chất khởi động tạo hứng khởi và sự tự tin giáo viên có thể vào bài dạy với sự tham gia tích cực của các em. Bởi tâm lí của học sinh đặc biệt là các em lớp 6 luôn muốn sự vui vẻ, gần gũi, muốn được khen ngợi, khích lệ. Từ đó dần dần các em cũng sẽ quên mất cảm giác lo sợ khi việc kiểm tra bài cũ được thực hiện.
- Đối với việc gọi học sinh đứng lên trả lời các câu hỏi trong tiết học.
Tiết học sẽ là sự thành công nếu có sự tham gia đầy đủ tích cực của tất cả các em học sinh.
Với các em học sinh lớp 6 khả năng tập trung của các em chưa cao, còn hay làm việc riêng theo ý thích của mình bởi vậy để có sự lôi cuốn các em tập trung trong giờ học là một vấn đề. Đồng thời thường cách trả lời của các em ít được uốn nắn hay nói nhỏ, hay run sợ, hay nói cộc lốc
Trong giờ dạy tôi đã chú trọng đến tất cả các vấn đề đó nhằm giúp các em có thói quen tập trung tham gia tích cực, chủ động, tự tin khi đứng lên trả lời câu hỏi của cô giáo.
Trong giờ học, tôi quan tâm nhiều tới các em nhút nhát, rụt rè, đặt câu hỏi theo đúng khả năng của mỗi em. Tôi tìm câu hỏi dễ để các em trả lời và sau đó cho cả lớp tuyên dương để động viên bạn.
Đối với những học sinh còn nói nhỏ chưa mạnh dạn, tôi kiên trì gợi mở, có khi xuống bàn học tạo sự động viên để các em có thể nói to mà không run sợ. Cần tránh cách đặt câu hỏi quá khó, khó xác định đúng sai, làm cho học sinh ngập ngừng mất tự tin vào bản thân.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Ngôi kể và lời kể trong văn tự sự” (SGK ngữ văn 6 tập1) giáo viên có thể đặt câu hỏi để gợi mở vấn đề như:
? Khi kể chuyện người kể thường dùng những ngôi kể nào?
Giáo viên gọi một học sinh trung bình-yếu đứng lên trả lời.
? Vì sao có khi người kể xưng tôi có khi không?
? Khi xưng tôi, tác giả và người kể có phải là một không?
Giáo viên gọi một học sinh trung bình-khá trả lời.
Đồng thời để rèn luyện cách nói, khi các em phát biểu tôi theo dõi ý kiến của các em một cách chăm chú (tuyệt đối không tranh thủ lúc học sinh nói để xóa bảng hoặc ghi bảng.)
Nghe các em trả lời thiếu chủ ngữ và vị ngữ tôi hỏi nhỏ: Em nói với ai? làm sao? thế nào? Có khi tôi chêm vào câu nói của các em những liên từ, giới thiệu từ để các em chuyển ý và cung cấp những từ mà các em còn lúng túng tìm tòi. Tôi yêu cầu khi các em trả lời phải nhắc lại câu hỏi, khi câu trả lời có nhiều ý, có sự sắp xếp ý 1, ý 2 rõ ràng.
Khi trả lời ánh mắt cần nhìn vào người hỏi (giáo viên). Cách nói phải có sự thuyết phục:
Tôi đưa ra một quy định trong giờ dạy về việc cho điểm như sau:
+ Phát biểu nhiều lần trong một tiết, có nhiều ý đúng và gần đúng. cuối giờ cho điểm 7-8.
+ Cả lớp không ai trả lời được, em nào phát biểu đúng được 9-10 điểm. 
+ Phát biểu đúng to, rõ ràng, phong thái bình tĩnh đàng hoàng, lời lẽ lưu loát được 10 điểm.
+ Khuyến khích cộng điểm cho các bạn có học lực trung bình - yếu. 
2.3.2: Rèn luyện ngôn ngữ nói qua việc luyện đọc trong giờ học văn bản.
Môn ngữ văn được coi là môn học công cụ hướng tới việc hình thành và phát triển các năng lực đọc, nói, viết cho học sinh. Nếu như trước đây chúng ta coi phân tích tác phẩm hay giảng văn là phương pháp đặc thù của dạy văn thì hiện nay đã có sự đổi mới. Cách dạy đọc-hiểu không nhằm truyền thụ một chiều cho học sinh những cảm nhận của GV về văn bản được học, mà hướng tới việc cung cấp cho học sinh cách đọc, cách khám phá vấn đề để từ đó học sinh chủ động, tích cực thể hiện sắc thái cá nhân của mình giúp hình thành các kĩ năng trong đó có kĩ năng nói. Người học càng đọc nhiều thì vốn từ càng phong phú và có khả năng dùng từ chính xác, hiệu quả. Đó chính là “nền móng” hình thành khả năng nói trong giao tiếp của con người. Bởi vậy đọc- hiểu văn bản là một thao tác của nói, có đọc được mới nói được và lẽ hiển nhiên đọc tốt thì nói tốt.
Nhận thức rõ điều đó nên tôi đưa ra giải pháp giúp các em luyện nói tốt qua các giờ đọc hiểu văn bản. Thông qua hệ thống bài đọc – hiểu văn bản với những chủ điểm và những câu hỏi, những bài tập khai thác nội dung bài học, kỹ năng đọc cung cấp cho học sinh những hiểu biết về tự nhiên, xã hội, con người, cung cấp vốn từ, vốn diễn đạt góp phần giúp học sinh tự tin hơn trong giao tiếp hàng ngày. 
Ở cấp THCS không có tiết tập đọc riêng như ở tiểu học nhưng muốn lôi cuốn, truyền cảm và rèn luyện ngôn ngữ nói cho các em thì trong tiết giảng văn phải đảm bảo một thời gian đọc thích hợp cho có chất lượng, tránh lối làm qua loa, đại khái, đọc để mà đọc vì sợ thiếu giờ dạy. Đọc không có mục đích đúng đắn, không thu được kết quả nào thì đọc để làm gì? Có lẽ tất cả mọi GV dạy văn đều biết rằng đọc tốt ảnh hưởng rõ rệt đến nói và viết, làm cho nói và viết dần trở nên tốt. Qua đọc học sinh có thể hiểu phần nào ý nghĩa của bài văn, hỗ trợ một phần nào cho kĩ năng nói của các em. 
Đọc chuẩn một văn bản có nghĩa là phải đọc đúng, đọc rõ, đọc diễn cảm, đọc hay. 
Để đạt được điều đó trước một văn bản người GV cần cung cấp cho các em kĩ thuật đọc một tác phẩm cụ thể trong giờ đọc hiểu. Muốn vậy tôi đề ra yêu cầu và cách đáp ứng yêu cầu như:
- Đọc diễn cảm là một phương pháp đọc sáng tạo. người đọc phải thể hiện được tình cảm, cảm xúc của tác giả, nhân vật thông qua ngữ điệu. Đọc diễn cảm là một phương tiện giáo dục bồi dưỡng đạo đức, thẩm mỹ cho các em, lôi cuốn học sinh nhập hồn vào tác phẩm. Giáo viên có thể đọc mẫu hướng dẫn học sinh đọc cụ thể rồi gọi một học sinh đọc tốt đọc trước. Sau khi học sinh đọc xong, giáo viên phải nhận xét rõ ràng và những nhận xét đó phải mang tính chất khen ngợi hơn chê.
- Đọc phân vai là cho học sinh đóng vai các nhân vật trong truyện để đọc. Cách đọc này phù hợp với chương trình ngữ văn 6 kì I đa phần là các tác phẩm tự sự. Phương pháp này tái hiện lại lời thoại nhân vật một cách cụ thể, làm cho câu chuyện hấp dẫn, sống động hơn. Đồng thời cũng giúp các em đễ dàng xác định các tuyến nhân vật, lời thoại nhân vật, tính cách nhân vật qua giọng điệu. Cách thực hiện phương pháp này:
+ Giáo viên cần phân vai rõ ràng, phù hợp, hướng dẫn cụ thể trước khi đọc để mạ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_ren_luyen_ky_nang_noi_truoc_dam_dong_qua_gio_day_ngu_va.doc