SKKN Nâng cao hiệu quả học tập bằng phương pháp sử dụng bản đồ tư duy cho phân môn Tiếng Việt (Lớp 6), tại trường THCS Minh Khai, TP Thanh Hóa

SKKN Nâng cao hiệu quả học tập bằng phương pháp sử dụng bản đồ tư duy cho phân môn Tiếng Việt (Lớp 6), tại trường THCS Minh Khai, TP Thanh Hóa

Môn Ngữ văn là một bộ môn chính trong nhà trường. Nhà văn hóa lớn của nhân loại đã từng nói: “ Văn học là nhân học”. Vậy mà một thực trạng đáng lo ngại là học sinh bây giờ không còn thích học Văn. Môn Văn đang dần dần mất vị trí là một môn học chính. Các em thờ ơ với môn văn và dồn tâm huyết cho một số môn học khác được coi là thực tế hơn, dễ thi tuyển sinh vào các trường đại học như Toán, Lí, Hóa, Anh Môn Ngữ văn thực tế là một môn học khó bởi dung lượng kiến thức nhiều, tâm lí thực dụng nặng nề nên nhiều em thấy học văn là một công việc mệt mỏi, khó khăn. Đôi khi giờ học Văn đối với các em thật vất vả. Thực tế cho thấy một thời gian dài, hầu hết các trường đều áp dụng phương pháp dạy học truyền thống thụ động, một chiều, vừa quá tải về kiến thức vừa gây nhàm chán cho người học. Chính vì lẽ đó mà khi giao tiếp, nhiều học sinh không biết diễn đạt, sử dụng ngôn ngữ, đặt câu rất tùy tiện và kém hiệu quả. Vậy làm thế nào để vực dậy hứng thú học văn cho học sinh, đó là trăn trở trong nhiều giáo viên chúng ta.

Đất nước đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Để bắt kịp với bước tiến của thời đại, con người phải biết hành động một cách năng động và sáng tạo, thích ứng nhanh với những thay đổi và một khả năng tiếp cận, giải quyết vấn đề mềm dẻo, linh hoạt. Hơn thế nữa, ta cũng biết rằng: tri thức của tuổi trẻ là diện mạo của đất nước trong tương la, vì vậy đòi hỏi ngành giáo dục phải có sự đổi mới kịp thời để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. A. Kômenxki đã nói: "Giáo dục có mục đích là đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán đúng đắn, phát triển nhân cách.Hãy tìm ra phương pháp cho phép giáo viên dạy ít hơn, học sinh học nhiều hơn". Trong việc đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói chung và phân môn Tiếng Việt nói riêng, giáo viên (GV) không chỉ căn cứ trên nền tảng của một số phương pháp dạy học truyền thồng vẫn có hiệu quả mà cần vận dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực để đáp ứng yêu cầu đào tạo con người mới trong xu thế chung của thời đại hiện nay.

 

doc 25 trang thuychi01 8023
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Nâng cao hiệu quả học tập bằng phương pháp sử dụng bản đồ tư duy cho phân môn Tiếng Việt (Lớp 6), tại trường THCS Minh Khai, TP Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2: Mục đích nghiên cứu
1.3: Đối tượng nghiên cứu
1.4: Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung Sáng kiến kinh nghiệm
2.1: Cơ sở lí luận
2.2: Thực trạng vấn đề
2.3: Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân và đồng nghiệp
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
1
1
1
2
2
3
3
5
6
17
19
19
19
 1.MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài
Môn Ngữ văn là một bộ môn chính trong nhà trường. Nhà văn hóa lớn của nhân loại đã từng nói: “ Văn học là nhân học”. Vậy mà một thực trạng đáng lo ngại là học sinh bây giờ không còn thích học Văn. Môn Văn đang dần dần mất vị trí là một môn học chính. Các em thờ ơ với môn văn và dồn tâm huyết cho một số môn học khác được coi là thực tế hơn, dễ thi tuyển sinh vào các trường đại học như Toán, Lí, Hóa, AnhMôn Ngữ văn thực tế là một môn học khó bởi dung lượng kiến thức nhiều, tâm lí thực dụng nặng nề nên nhiều em thấy học văn là một công việc mệt mỏi, khó khăn. Đôi khi giờ học Văn đối với các em thật vất vả. Thực tế cho thấy một thời gian dài, hầu hết các trường đều áp dụng phương pháp dạy học truyền thống thụ động, một chiều, vừa quá tải về kiến thức vừa gây nhàm chán cho người học. Chính vì lẽ đó mà khi giao tiếp, nhiều học sinh không biết diễn đạt, sử dụng ngôn ngữ, đặt câu rất tùy tiện và kém hiệu quả. Vậy làm thế nào để vực dậy hứng thú học văn cho học sinh, đó là trăn trở trong nhiều giáo viên chúng ta.
Đất nước đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Để bắt kịp với bước tiến của thời đại, con người phải biết hành động một cách năng động và sáng tạo, thích ứng nhanh với những thay đổi và một khả năng tiếp cận, giải quyết vấn đề mềm dẻo, linh hoạt. Hơn thế nữa, ta cũng biết rằng: tri thức của tuổi trẻ là diện mạo của đất nước trong tương la, vì vậy đòi hỏi ngành giáo dục phải có sự đổi mới kịp thời để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. A. Kômenxki đã nói: "Giáo dục có mục đích là đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán đúng đắn, phát triển nhân cách...Hãy tìm ra phương pháp cho phép giáo viên dạy ít hơn, học sinh học nhiều hơn". Trong việc đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói chung và phân môn Tiếng Việt nói riêng, giáo viên (GV) không chỉ căn cứ trên nền tảng của một số phương pháp dạy học truyền thồng vẫn có hiệu quả mà cần vận dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực để đáp ứng yêu cầu đào tạo con người mới trong xu thế chung của thời đại hiện nay.
Đó là lí do mà tôi trăn trở, tìm ra một số biện pháp trong phương pháp dạy học để gửi tới các đồng nghiệp của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Năm học 2016-2017, tôi được phân công dạy môn Ngữ văn 6. Tôi nhận thấy trong khi nói và viết, các em còn lẫn lộn trong việc dùng từ, đặt câu, sử dụng chưa thuần thục các từ loại Tiếng Việt trong giao tiếp, bố cục và lời văn hết sức lủng củng. Đặc biệt có những bài văn diễn đạt ngô nghê, tối nghĩa. Bởi thế nhằm đáp ứng những yêu cầu đổi mới về phương pháp, đáp ứng tốt hơn những tiêu chuẩn về kiến thức và kĩ năng mà mục tiêu môn học đã đề ra, tạo không khí hứng thú trong giờ học, giúp học sinh yêu thích say mê môn học kiểu như: “có thích mới nhích tư duy” thì việc làm phong phú, sinh động, khắc sâu vấn đề bằng kỹ thuật dạy - học mới là rất cần thiết. Chương trình Tiếng Việt lớp 6 hiện nay được biên soạn theo hướng tích hợp, đồng tâm là luyện. Muốn tiếp thu bài nhanh học sinh phải có khả năng về tư duy logic, biết khái quát vấn đề một cách hệ thống. Qua nghiên cứu lí luận và thực nghiệm dạy học phân môn Tiếng Việt lớp 6. Bản thân tôi thực sự tâm đắc với phương pháp trực quan Sử dụng bản đồ tư duy trong quá trình dạy học. Bởi vì không chỉ lôi cuốn, hấp dẫn với học sinh mà nó còn là một phương pháp dạy học rất hiệu quả, khoa học, rất dễ sử dụng. Để tiến đến sử dụng sơ đồ tư duy lâu dài và đem lại hiệu quả tối ưu, tôi tiến hành viết đề tài Sáng kiến kinh nghiệm: “Nâng cao hiệu quả học tập bằng phương pháp sử dụng bản đồ tư duy cho phân môn Tiếng Việt ( Lớp 6 ), tại trường THCS Minh Khai, TP Thanh Hóa”. Mong rằng với những kinh nghiệm này có thể giúp quý đồng nghiệp ít nhiều trong việc làm phong phú thêm phương pháp, kĩ thuật dạy học phân môn Tiếng Việt nói riêng, môn Ngữ văn nói chung. Rất mong có sự góp ý chân thành của quý vị để đề tài này được sâu sắc hơn về giá trị khoa học và tính hiệu dụng của nó.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
 - Phương pháp sử dụng bản đồ tư duy trong phân môn Tiếng Việt lớp 6.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
 Để nghiên cứu đề tài này, tôi đã sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp quan sát: Hình thức chủ yếu của phương pháp này là dự giờ đồng nghiệp, từ đó tôi có thể phát hiện ra những ưu, nhược điểm của đồng nghiệp để lấy kinh nghiệm cho bản thân.
- Phương pháp so sánh: Với phương pháp này, tôi có thể phân loại, đối chiếu kết quả nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, thống kê, thăm dò ý kiến của học sinh, trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1.CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Môn Ngữ văn trong trường THCS được xem là môn chủ đạo chiếm thời lượng số tiết trong tuần khá nhiều so với các môn học khác trong cấp học. Môn Ngữ văn gồm ba phân môn là Văn học, Tiếng Việt, Tập làm văn. Ba phân môn này có quan hệ gắn bó mật thiết hữu cơ với nhau: có kiến thức Tiếng Việt học sinh mới khai thác hết được giá trị của các tác phẩm văn chương; Học Tiếng Việt, Văn học để có thể làm tốt bài Tập làm vănTuy nhiên mỗi phân môn lại mang những đặc thù riêng. Đối với phân môn Tiếng Việt, kiến thức phải dựa trên cơ sở khoa học vững chắc chứ không thể tiếp nhận bằng tư tưởng chủ quan duy lí trí. Tiếng Việt đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao năng lực tư duy (tư duy hình tượng và tư duy logic), phát triển ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ khoa học tự nhiên. Dạy-học Tiếng Việt phải hình thành ở học sinh năng lực sử dụng thành thạo tiếng Việt với bốn kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết để qua đó mà rèn luyện tư duy. Giúp cho các em yêu quí Tiếng Việt, có ý thức giữ gìn, bảo vệ, phát triển tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm. Tuy nhiên xu thế hiện nay cho thấy một thực trạng đáng buồn là đa số học sinh, kể cả học sinh có năng khiếu văn chương thường ngại học Tiếng Việt. Các em chưa hiểu thấu đáo giá trị của kiến thức phân môn đối với việc học Văn. Đã thế phân môn Tiếng Việt lại vừa khô vừa khó. Một đơn vị kiến thức Tiếng Việt đưa vào bài học thường ngắn nhưng tiếp thu và hiểu thấu đáo, chuẩn xác về nó thì không đơn giản. Để hiểu một đơn vị kiến thức nhiều khi học sinh phải huy động kiến thức của nhiều bài đã học trước đó. Chẳng hạn khi học một đơn vị kiến thức là Từ và cấu tạo của từ Tiếng Việt trong bài “Từ và cấu tạo từ Tiếng Việt” học sinh phải nắm vững kiến thức về Từ, cấu tạo của từ, phân loại từ. Hay khi xác định thành phần phụ của câu nhiều học sinh sẽ khó phân biệt rõ nếu không nắm vững kiến thức về cụm từ, câu, cách phân tích câu, thành phần câu Đây là vấn đề mà chúng tôi - những người đang trực tiếp đứng lớp, hết sức trăn trở.
Trong thời gian gần đây, chúng ta đã bước đầu được tiếp cận với những phương pháp, kĩ thuật dạy - học mới trong đó có việc sử dụng sơ đồ tư duy. Có thể nói, đây là một bước tiến đáng kể trong việc đổi mới phương pháp dạy - học hiện nay khi mà khoa học công nghệ phát triển như huyền thoại, nhất là sự bùng nổ của ngành Công nghệ thông tin. Để lôi cuốn sự hứng thú, làm “sống lại” niềm đam mê, yêu thích môn Ngữ Văn nói chung, phân môn Tiếng Việt nói riêng, sơ đồ tư duy là một trong những kĩ thuật dạy học tích cực mà chúng ta có thể vận dụng.
Sơ đồ tư duy hay còn gọi là Lược đồ tư duy, Bản đồ tư duy (Mind Map) là phương pháp dạy học chú trọng đến cơ chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,...bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Kỹ thuật tạo ra loại bản đồ này được phát triển bởi Tony Buzan vào những năm 1960. Bản đồ tư duy có cấu tạo như một cái cây có nhiều nhánh lớn, nhỏ mọc xung quanh. “Cái cây” ở giữa bản đồ là một ý tưởng chính hay hình ảnh trung tâm. Nối với nó là các nhánh lớn thể hiện các vấn đề liên quan với ý tưởng chính. Các nhánh lớn sẽ được phân thành nhiều nhánh nhỏ, rồi nhánh nhỏ hơn, nhánh nhỏ hơn nữa nhằm thể hiện chủ đề ở mức độ sâu hơn. Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục và các kiến thức, hình ảnh luôn được nối kết với nhau. Sự liên kết này tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả ý tưởng trung tâm một cách đầy đủ và rõ ràng. Việc sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học giúp học sinh dễ hình dung các đơn vị kiến thức, dễ ghi nhớ những vấn đề phức tạp khi nó được đưa lên sơ đồ từ đó các em hiểu vấn đề một cách có hệ thống. Tạo cho học sinh thói quen nhận thức thế giới bằng lối tư duy quan hệ, tính logic của một vấn đề. Với sản phẩm độc đáo “kiến thức + hội họa” cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh về trí tuệ, hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó để chọn lọc các ý để ghi), đồng thời còn phát triển khiếu thẩm mĩ, óc hội họa, bởi đó là “sản phẩm kiến thức hội họa”do chính các em tự làm ra, lại vừa phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của các em trong học tập, không rập khuôn một cách máy móc, các em dễ dàng vẽ thêm các nhánh để phát triển ý tưởng riêng của mình, vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống. Vì thế,sẽ tạo một không khí sôi nổi, hào hứng, say mê cho học sinh trong học tập. Sử dụng phương tiện dạy học và các thủ thuật dạy học phù hợp sẽ giúp tiết kiệm thời gian để truyền tải hết nội dung cần thiết. Sơ đồ tư duy, một công cụ có tính khả thi cao. Ta có thể vận dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay nói chung. Bởi vì ta có thể thiết kế Sơ đồ tư duy trên giấy, bìa, tờ lịch cũ, bảng phụ bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn màu, tẩy hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm Sơ đồ tư duy (Mind Map). Với những trường đủ điều kiện về cơ sở vật chất như Máy chiếu Projecto, phòng máy vi tính đảm bảo, chúng ta có thể sử dụng phần mềm (Mind Map) để phục vụ cho việc dạy học có ứng dụng Công nghệ thông tin
2.2. Thực trạng vấn đề 
- Về phía giáo viên: thực tế trong nhà trường hiện nay nhiều giáo viên đã tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, có những tìm tòi trong công tác soạn giảng. Tuy vậy về phương diện phương pháp và kĩ thuật vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là cách thức giúp học sinh hiểu vấn đề nhanh, nhớ kiến thức lâu. Giáo viên chưa đổi mới cách ghi chép nội dung kiến thức bài học theo kiểu kích thích tư duy mà chủ yếu là quan tâm đến độ chuẩn của nội dung ghi. Trong một số tiết học, dù vẫn cố gắng thực hiện theo chủ trương giảm tải nhưng cách tổ chức các đơn vị kiến thức vẫn còn rườm rà, kiểu như phải ghi chép thành câu, đoạn hoàn chỉnh, có khi phải nhiều câu dài dòng, trong khi đó chỉ cần một sơ đồ là học sinh có thể hiểu vấn đề thông suốt. Giáo viên chưa thật sự quan tâm trong việc hình hóa kiến thức bài học hoặc nếu có thì chủ yếu mới chỉ dừng lại sử dụng mô hình bảng biểu... trong một số tiết dạy có tính chất tổng kết các chương, các phần, các mảng kiến thức của môn học hay các bài ôn tập mà thôi chứ chúng không được sử dụng đại trà cho tất cả các bài học. Cách làm này có thể nói đã đem lại những hiệu quả thiết thực nhất định trong việc ôn tập, củng cố, hệ thống kiến thức cho học sinh bởi cách trình bày gọn, rõ, lô-gic. Thế nhưng, bên cạnh những ưu điểm ấy, cách làm này vẫn còn những hạn chế nhất định. Cách làm này chưa thật sự phát huy hết được tư duy sáng tạo, chưa thật sự kích thích, lôi cuốn được các em trong việc tích cực, chủ động tìm tòi, phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức của bài học bởi chủ yếu học sinh trình bày giống như cách của giáo viên hoặc của tài liệu, chứ không phải do học sinh tự xây dựng theo cách hiểu của mình. Các bảng biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và đường nét .
- Về phía học sinh: còn nhiều em học tập một cách thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc theo thói quen học vẹt, các em chưa có ý thức hoặc chưa biết rèn luyện kỹ năng tư duy. Học sinh chỉ học bài nào biết bài ấy, nắm kiến thức một cách đơn lẻ, rời rạc, chưa biết tích hợp, liên hệ kiến thức với nhau giữa các bài học, vì vậy mà chưa phát triển được tư duy lô-gic và tư duy hệ thống. Do đó, dù các em học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém. Nhiều em học phần sau đã quên phần trước, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Lại có nhiều học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, hay kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình.
 Bởi vậy, sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Tiếng Việt, rèn luyện cho các em có thói quen và kĩ năng sử dụng thành thạo sơ đồ tư duy trong quá trình dạy học Tiếng Việt sẽ giúp học sinh có được phương pháp học tốt, phát huy tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Các bước thiết kế một SĐTD:
Bước 1: Vẽ trung tâm. Trung tâm bản đồ là nội dung chính chúng ta cần dùng một hình ảnh hay một bức tranh để thể hiện ý tưởng thay vì chỉ có một dòng chữ.
Bước 2: Tạo nhánh: Luôn dùng hình ảnh, màu sắc để nhấn mạnh nội dung quan trọng. Vẽ nhiều đường cong hơn đường thẳng. Vẽ bằng các hình tượng khác nhau mà vẫn thể hiện được các mối quan hệ không nhất thiết theo các đường nối.
Bước 3: Trình bày ý tưởng và nội dung bản đồ tư duy đã vẽ.
2.3.2. Cách thức vận dụng sơ đồ tư duy trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học phân môn Tiếng Việt: 
Trong một giờ dạy học theo tinh thần đổi mới giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn để học sinh thực hiện tốt vai trò của chủ thể hoạt động học: tự chiếm lĩnh tri thức, phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo... Điều này đòi hỏi giáo viên không chỉ vững vàng kiến thức chuyên môn mà còn phải có phương pháp sư phạm. Vẫn biết rằng, vận dụng kĩ thuật vẽ sơ đồ tư duy có rất nhiều ưu điểm nhưng vấn đề là phải vận dụng như thế nào, khi nào, cách thức vận dụng ra sao để đạt hiệu quả tối ưu nhất. 
 2.3.2.1. Vận dụng linh hoạt, hợp lí sơ đồ tư duy khi tổ chức các hoạt động dạy học:
Chúng ta có thể vận dụng sơ đồ tư duy vào khâu kiểm tra bài cũ, đến khâu dạy học kiến thức mới, hay khâu củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, rồi ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương, mỗi học kì, kể cả việc kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15 phút... Tuy nhiên không nên lạm dụng mà cần có sự vận dụng phù hợp tùy theo nội dung yêu cầu của từng tiết học. Có những tiết sử dụng sơ đồ tư duy khi kiểm tra bài cũ, có những tiết là khi dạy bài mới, có những tiết vận dụng sơ đồ tư duy khi học xong nội dung bài học... Không phải ở hoạt động nào trong một bài cũng vận dụng sơ đồ tư duy. Ta hãy từng bước vận dụng hình thức tổ chức kiến thức bằng sơ đồ tư duy để hỗ trợ khi cần thiết và thấy hợp lí nhất, tránh lạm dụng.
- Vận dụng sơ đồ tư duy vào khâu kiểm tra bài cũ đối với những bài mà nội dung kiến thức có sự liên hệ với các bài đã học trước đó, người học phải nhớ được kiến thức bài cũ mới học được bài mới. 
- Vận dụng sơ đồ tư duy vào khâu dạy học kiến thức mới đối với những bài có dung lượng kiến thức dài.
- Vận dụng sơ đồ tư duy vào việc kiểm tra: chủ yếu kiểm tra những kiến thức lí thuyết mang tính hệ thống, xâu chuỗi. Đề bài cũng nên đưa trước từ khóa để học sinh dễ dàng nắm bắt yêu cầu của đề.
- Vận dụng sơ đồ tư duy sau mỗi tiết học, trong tiết ôn tập, tổng kết: nhằm củng cố, khắc sâu, hệ thống kiến thức nhanh nhất.
2.3.2.2. Đối tượng thiết kế sơ đồ tư duy:
- Việc vận dụng sơ đồ tư duy vào khâu nào, vận dụng như thế nào sẽ phản ánh tài năng sư phạm của mỗi giáo viên. Đây là kĩ thuật dạy - học không chỉ đòi hỏi giáo viên phải hiểu kĩ, nắm vững phương pháp mà học sinh cũng phải được làm quen, nắm vững cách thức, phương pháp vẽ sơ đồ tư duy. Đối với giáo viên, để hiểu kĩ, nắm vững phương pháp dạy học bằng sơ đồ tư duy thì ngoài việc tham dự các lớp tập huấn chuyên đề cần đọc thêm tài liệu, tập vẽ, ứng dụng vào quá trình dạy học. Học sinh được làm quen với sơ đồ tư duy trên cơ sở hướng dẫn của giáo viên trong các tiết phụ đạo, buổi học ngoại khóa. Giáo viên có thể chọn vẽ sơ đồ tư duy theo mạch kiến thức bài học để vừa hướng dẫn học sinh cách vẽ sơ đồ tư duy vừa giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách cô đọng, nhanh gọn, sau đó cho các em dựa vào sơ đồ tư duy đã vẽ thuyết trình lại nội dung bài học. Mục đích cuối cùng là học sinh tự vẽ sơ đồ tư duy (tự đặt từ khóa hoặc từ khóa giáo viên cho sẵn).
+ Giáo viên có thể giúp học sinh thiết kế sơ đồ tư duy khi vận dụng vào khâu dạy học bài mới, bài ôn tập tổng kết ngay trên lớp: Qua hệ thống câu hỏi dẫn dắt của giáo viên học sinh rút ra kết luận. Giáo viên lần lượt chốt lại vấn đề bằng sơ đồ tư duy. Sử dụng bản đồ tư duy sẽ giúp học sinh dần dần hình thành cách ghi chép có hiệu quả.
+ Học sinh tự thiết kế sơ đồ tư duy theo ý tưởng của mình để trình bày kiến thức ở khâu kiểm tra bài cũ, củng cố kiến thức sau mỗi bài học hoặc khi làm bài kiểm tra. Sơ đồ tư duy củng cố kiến thức sau mỗi bài học có thể được thực hiện ngay trên lớp hoặc giao cho học sinh về nhà tự vẽ, tiết học sau trình bày khi kiểm tra bài cũ. Học sinh tự làm được điều này có nghĩa là giáo viên đã thực sự đạt mục đích khi áp dụng kĩ thuật dạy học bằng sơ đồ tư duy. Bởi vì, người thiết kế bản đồ tư duy phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp, bố cục, để ghi thông tin cần thiết và lô gic. Học sinh muốn xây dựng một bản đồ tư duy cần phải quan sát, đọc, tư duy và vẽ. Trong khi vẽ, để thể hiện mối liên hệ kiến thức các em còn tưởng tượng sáng tạo ra các cách thể hiện khác nhau, cách phối hợp màu sắc để nhấn mạnh các kiến thức quan trọng. Từ đó khi nhìn vào bản đồ tư duy sẽ có ấn tượng mạnh, khả năng ghi nhớ sẽ nhanh hơn, lâu hơn. Sử dụng bản đồ tư duy còn giúp các em rèn luyện kĩ năng lựa chọn từ ngữ (từ khóa) để chốt vấn đề, kĩ năng diễn đạt, trình bày vấn đề, hiểu bản chất vấn đề. Như thế ta đã giúp học sinh tự rèn luyện bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Tuy nhiên, học sinh cũng cần hình thành thói quen tốt: nên lập sơ đồ tư duy trong quá trình chuẩn bị bài mới ở nhà và lập lại sau khi học xong bài trên lớp để có điều kiện đối chiếu xem mình đã làm được những gì? Những gì mình còn sai sót cần bổ sung, sửa chữa. Bài học nào học sinh cũng nên vẽ một sơ đồ tư duy và lưu các sơ đồ tư duy lại, đóng thành từng tập, có thể chia ra từng mảng nếu cần, để sau này tiện cho việc ôn tập, hệ thống kiến thức. (Có sơ đồ tư duy do học sinh vẽ để minh họa ở phần sau)
	- Sơ đồ tư duy có thể được thiết kế bởi một cá nhân hoặc một nhóm học sinh. Với những bài ôn tập cần hệ thống một lượng kiến thức khá lớn, toàn diện các nội dung đã học hoặc những bài khó, giáo viên nên giao việc cho nhóm. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học nhóm giúp sẽ giúp các em phát huy được tính sáng tạo, tối đa hoá khả năng của mỗi em, đồng thời kết hợp sức mạnh của các cá nhân thành sức mạnh tập thể để có thể giải quyết được các vấn đề một cách hiệu quả. Sơ đồ tư duy tạo cho mỗi thành viên cơ hội được giao lưu học hỏi và phát triển chính mình một cách hoàn thiện hơn. Sau khi thảo luận thống nhất, hình thành ý tưởng chỉ cần nhìn vào Sơ đồ tư duy, bất kỳ thành viên nào của nhóm cũng có thể thuyết trình được nội dung bài học.	
2.3.2.3. Kết hợp kĩ thuật dạy học bằng sơ đồ tư duy với các kĩ thuật, phương pháp dạy học khác	
	Mỗi kĩ thuật, phương pháp dạy học theo tinh thần đổi mới đều có những ưu điểm nhất định. Giáo viên cần vận dụng một cách linh hoạt, chủ động, sáng tạo trong từng tiết học cụ thể. Có thể vận dụng sơ đồ tư duy kết hợp với các kĩ thuật, phương pháp dạy - học tích cực khác như vấn đáp, gợi mở, thuyết trình để giờ học không cứng nhắc, đạt hiệu quả cao.	
2.3.2.4. Một vài yêu cầu cần lưu ý khi sử dụng sơ đồ tư duy
- Chú ý dùng màu sắc, đường nét, hình ảnh hợp lý để vừa làm rõ các ý trong sơ đồ đồng thời tạo sự cân đối, hài hòa, cuốn hút cho sơ đồ.
- Không ghi quá dài dòng, hoặc ghi những ý rời rạc, không cần thiết. Nếu viết dài dòng sẽ dễ làm rối sơ đồ, hơn nữa sẽ dập tắt khả năng gợi mở, liên tưởng 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_nang_cao_hieu_qua_hoc_tap_bang_phuong_phap_su_dung_ban.doc