SKKN Rèn luyện kĩ năng vận dụng tri thức LLVH cho học sinh lớp 12 trong bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ

SKKN Rèn luyện kĩ năng vận dụng tri thức LLVH cho học sinh lớp 12 trong bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ

Văn nghị luận là một trong 6 kiểu văn bản được dạy học trong chương trình (CT), sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn bậc phổ thông. Bản chất của văn nghị luận là cách vận dụng lý lẽ, dẫn chứng để thuyết phục người đọc, người nghe về một vấn đề nào đó, trong đó có những vấn đề liên quan đến văn học. Với bài nghị luận văn học, để thuyết phục người đọc, người nghe trước một vấn đề về văn học, điều quan trọng là học sinh (HS) phải có vốn tri thức liên quan đến vấn đề cần nghị luận (tác giả, tác phẩm, một nhận định, đánh giá về tác phẩm hoặc tác giả ) và có kỹ năng lập luận (phân tích, chứng minh, giải thích, bình luận, bác bỏ ).

Bên cạnh vốn tri thức và kĩ năng về Làm văn, tiếng Việt và văn bản Đọc hiểu, đối với bài nghị luận văn học, trong đó có bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ, người viết cần phải có vốn tri thức về lí luận văn học (LLVH). Đó là tri thức về tác giả, về tác phẩm, về thể loại, về phong cách nghệ thuật, về mối quan hệ giữa tác phẩm văn học với người đọc Sự hiểu biết về những tri thức LLVH có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong việc Đọc hiểu văn bản mà còn chi phối đến việc tạo lập văn bản, đó là việc làm bài nghị luận văn học của HS.

 

doc 102 trang thuychi01 9131
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Rèn luyện kĩ năng vận dụng tri thức LLVH cho học sinh lớp 12 trong bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn nghị luận là một trong 6 kiểu văn bản được dạy học trong chương trình (CT), sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn bậc phổ thông. Bản chất của văn nghị luận là cách vận dụng lý lẽ, dẫn chứng để thuyết phục người đọc, người nghe về một vấn đề nào đó, trong đó có những vấn đề liên quan đến văn học. Với bài nghị luận văn học, để thuyết phục người đọc, người nghe trước một vấn đề về văn học, điều quan trọng là học sinh (HS) phải có vốn tri thức liên quan đến vấn đề cần nghị luận (tác giả, tác phẩm, một nhận định, đánh giá về tác phẩm hoặc tác giả) và có kỹ năng lập luận (phân tích, chứng minh, giải thích, bình luận, bác bỏ). 
Bên cạnh vốn tri thức và kĩ năng về Làm văn, tiếng Việt và văn bản Đọc hiểu, đối với bài nghị luận văn học, trong đó có bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ, người viết cần phải có vốn tri thức về lí luận văn học (LLVH). Đó là tri thức về tác giả, về tác phẩm, về thể loại, về phong cách nghệ thuật, về mối quan hệ giữa tác phẩm văn học với người đọcSự hiểu biết về những tri thức LLVH có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong việc Đọc hiểu văn bản mà còn chi phối đến việc tạo lập văn bản, đó là việc làm bài nghị luận văn học của HS. 
Đối với bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ không có những tri thức về nhân vật trữ tình, chủ thể trữ tình, hình tượng thơ, ngôn ngữ thơ,... HS sẽ khó làm tốt những dạng đề văn như: “Hình tượng sóng trong bài thơ cùng tên của nhà thơ Xuân Quỳnh”, “Cảm thức về thời gian trong bài thơ “Vội vàng” - Xuân Diệu”, “Cảm nhận về đoạn thơ sau”... Có thể xem đó là những tri thức có tính “chìa khóa” để HS làm bài văn nghị luận có độ sâu, thể hiện được vốn hiểu biết, khả năng tư duy và kỹ năng diễn đạt trước các tính huống giao tiếp cụ thể trước mỗi bài thơ, đoạn thơ. Đây cũng chính là cách tiếp cận tác phẩm văn học theo loại thể - một xu hướng đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn hiện nay. 
1.2. Tri thức LLVH được giảng dạy trong CT, SGK Ngữ văn THPT được tách thành các tiết dạy riêng, như: “Văn bản văn học”, “Quá trình văn học và phong cách văn học”, ...Tuy nhiên, trong thực tế, việc lĩnh hội tri thức LLVH để giải quyết tốt nhiệm vụ đặt ra trong mỗi tình huống giao tiếp cụ thể. Các đề bài, các bài tập của HS trong các bài làm văn trên lớp, bài làm văn ở nhà, bài thi học kì theo phân phối chương trình và bài thi THPTQG còn đặt ra nhiều vấn đề. Đó là tình trạng non yếu về tri thức LLVH, về kỹ năng vận dụng tri thức LLVH để làm bài tập, về kỹ năng diễn đạt, rồi có cả sự nhầm lẫn về kiến thức là điều mà chúng ta luôn bắt gặp trong bài làm của HS. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân, ở cả hai phía: Giáo viên (GV) và HS; có nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan 
Về phía GV, phần lớn chưa đánh giá đúng bản chất, vai trò của tri thức LLVH được đưa vào giảng dạy trong CT, SGK Ngữ văn; chưa có cách thức, biện pháp để hướng dẫn HS vận dụng loại tri thức này vào bài nghị luận văn học; hoặc, cách tích hợp tri thức LLVH (phần tri thức đọc hiểu - CT Nâng cao) với tạo lập văn bản (Làm văn) còn khiên cưỡng, áp đặt.
Về phía HS, phần lớn các em không chú ý đến những bài dạy LLVH và các bài liên quan đến tri thức LLVH vì cho rằng, không có câu nào trong đề thi chỉ kiểm tra tri thức này; hoặc “ngại học” vì trừu tượng, khó hiểu
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Rèn luyện kĩ năng vận dụng tri thức LLVH cho HS lớp 12 trong bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ” với mong muốn khắc phục một phần những hạn chế trên, góp phần nâng cao hiệu quả của bài văn nghị luận nói riêng và hoạt động dạy học Ngữ văn ở THPT nói chung. 
2. Lịch sử nghiên cứu
LLVH là vấn đề không mới, đã được nghiên cứu công phu, khoa học trong các giáo trình, tài liệu của các tác giả nổi tiếng như: Hà Minh Đức; Phương Lựu, Trần Đình Sử; Lê Lưu Oanh Những tri thức này cũng đã được chọn lọc, đưa vào giảng dạy trong CT, SGK Ngữ văn các cấp học phổ thông. Mặt khác, để định hướng dạy học những tri thức LLVH dưới dạng ngắn gọn, khái quát thì sách giáo viên, các tài liệu tham khảo cũng đã đề cập đến, có tính gợi mở hướng tiếp cận cho GV và HS phổ thông.
Có thể dẫn một số ý kiến sau:
- Trong giáo trình Phương pháp dạy học Văn [27] đã khái quát 3 nguyên tắc dạy học LLVH: thông qua tác giả, tác phẩm để cung cấp những khái niệm cơ bản; củng cố khái niệm qua hệ thống bài tập; tận dụng vốn hiểu biết của HS để hình thành khái niệm. Từ đó, giáo trình cũng đề xuất một số phương pháp dạy học tri thức LLVH như: “hình thành kiến thức bằng con đường diễn dịch”; “phân tích mẫu để hình thành khái niệm”; “lựa chọn các phương pháp phù hợp với đối tượng” [27].
- Trong cuốn giáo trình Phương pháp dạy học tiếng Việt [Lê A, Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán], khi bàn về các tiền đề lý thuyết trong dạy học Làm văn, các tác giả đã khẳng định: “hiện nay trên con đường tìm tòi một lí thuyết làm văn, người ta đã hướng tới những lí thuyết có sức bao quát cho nhiều loại văn bản và coi đó như tiền đề lí thuyết của việc làm văn. Trong số các lí thuyết không thể không nhắc tới: ngôn ngữ học văn bản, lí thuyết giao tiếp bằng ngôn ngữ, Logic học và do nội dung giảng dạy, học tập về làm văn hiện nay trong nhà trường Việt Nam cũng không thể không nhắc tới lí luận văn học” [1, tr.190]. Giáo trình cũng cho thấy sự hiểu biết về nhân vật, cốt truyện, chi tiết, phương pháp sáng tác có ý nghĩa quan trọng chi phối đến sự hình thành một bài văn. Các vấn đề về LLVH và cách vận dụng tri thức LLVH trong bài nghị luận văn học nói chung, bài văn nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ nói riêng không được đề cập tới trong giáo trình. 
- Sách giáo viên Ngữ văn 10, 11, 12 đều ít nhiều gợi mở, hướng dẫn GV tiếp cận một số tri thức về LLVH qua các bài dạy cụ thể: Đọc tiểu thuyết và truyện ngắn, đọc thơ trữ tình, quá trình văn học và phong cách văn học... Ngoài những định hướng để GV giúp HS tiếp xúc với tri thức LLVH, SGK Ngữ văn còn cũng cấp một số tri thức khái quát trong phần Tri thức đọc - hiểu ở một số bài Đọc văn cụ thể trong CT, SGK Ngữ văn Nâng cao. Ví dụ: “Cảm hứng lãng mạn trong thơ”, “Thơ lục bát, tính dân tộc của văn học”, “Vẻ đẹp trí tuệ trong thơ”, “thơ tự do” Đây là những tri thức có ý nghĩa quan trọng giúp cho việc đọc hiểu văn bản có tính khoa học, tính sư phạm ở cả GV và HS.
 Qua việc khảo sát một số tài liệu trên, chúng tôi rút ra một số nhận xét sau:
- Tri thức LLVH đã được đưa vào giảng dạy trong CT, SGK Văn học, SGK Ngữ văn từ nhiều năm trước đây. Những nội dung này cũng đã được các nhà nghiên cứu đề cập đến trong các giáo trình, các tài liệu tham khảo. Tuy nhiên, những nội dung tri thức LLVH trong các tài liệu đã nêu chỉ có tính chất định hướng cho việc dạy học nội dung các bài dạy về LLVH trong CT, SGK Ngữ văn. 
- Các tài liệu hướng dẫn giảng dạy (Sách giáo viên, Sách Bài tập Ngữ văn, Để học tốt môn Ngữ văn), mặc dù đã hướng dẫn tương đối cụ thể để dạy tốt các đơn vị tri thức mang tính độc lập trong từng phân môn (Đọc văn hay Đọc hiểu văn bản, Tiếng Việt, Làm văn) và tính tích hợp các đơn vị tri thức qua từng bài dạy. Tuy nhiên, việc vận dụng tri thức LLVH trong bài nghị luận văn học nói chung, bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ nói riêng vẫn là vấn đề mới mẻ. Vấn đề cần quan tâm là sự vận dụng những tri thức LLVH như thế nào để làm bài văn nghị luận đạt hiệu quả, tức là đứng ở góc độ tích hợp giữa tri thức Đọc hiểu văn bản và Làm văn. Những hiểu biết về thể loại văn học, về phong cách nghệ thuật, về mối quan hệ giữa tác phẩm với độc giả sẽ được HS lĩnh hội ra sao, từ đó vận dụng trong bài nghị luận văn học theo quy trình như thế nào Đây là vấn đề mới, chưa được quan tâm đúng mức trong các tài liệu tham khảo, các bài viết. 
- Việc chọn đề tài “Rèn luyện kỹ năng vận dụng tri thức LLVH cho HS lớp 12 trong bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ” có ý nghĩa khoa học và thực tiễn, góp phần khắc phục một số những tồn tại trong bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ của HS lớp 12 hiện nay.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu, đề xuất các biện pháp, cách thức rèn kĩ năng vận dụng tri thức LLVH trong bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ cho HS lớp 12, góp phần nâng cao chất lượng bài nghị luận văn học cũng như trong quá trình dạy học CT Ngữ văn hiện nay. 
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các biện pháp, cách thức và quy trình vận dụng tri thức LLVH để làm bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ cho HS lớp 12. 
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các nội dung sau:
- Những tri thức LLVH về một bài thơ, đoạn thơ được dạy học trong CT, SGK Ngữ văn lớp 12 THPT (theo chương trình Chuẩn), trong đó tập trung vào một số tác phẩm, tác giả: Tây Tiến - Quang Dũng; Việt Bắc - Tố Hữu; Đất Nước (Trích “Mặt đường khát vọng”) - Nguyễn Khoa Điềm; Sóng - Xuân Quỳnh; Đàn ghi ta của Lorca - Thanh Thảo.
- Các biện pháp, cách thức, quy trình vận dụng tri thức LLVH để làm bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ cho HS lớp 12.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai những nội dung nghiên cứu ở trên, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Phương pháp phân tích - đánh giá
Phương pháp phân tích - đánh giá được sử dụng khi xem xét và lý giải những vấn đề lý thuyết về nội dung tri thức LLVH về một bài thơ, đoạn thơ được dạy học trong chương trình lớp 12. Phương pháp nghiên cứu này cũng là cơ sở để lý giải những vấn đề lý thuyết cũng như các biện pháp nâng cao chất lượng viết văn nghị luận. 
- Phương pháp điều tra - khảo sát
Phương pháp điều tra - khảo sát được áp dụng khi khảo sát CT, SGK; điều tra về cách dạy vận dụng tri thức LLVH trong bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ của GV và cách lĩnh hội, cách làm bài của HS với những yêu cầu cụ thể. 
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm 
Phương pháp thực nghiệm sư phạm được sử dụng nhằm xem xét, xác nhận tính đúng đắn của những biện pháp mà đề tài đưa ra 
6. Đóng góp mới của đề tài
- Về mặt lý luận: 
Đề tài góp một phần nhỏ vào việc khẳng định giá trị, vai trò của tri thức LLVH trong bài nghị luận văn học. Đồng thời, chúng tôi cũng đề xuất các biện pháp, cách thức vận dụng những tri thức LLVH trong bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ cho HS lớp 12.
- Về mặt thực tiễn:
Đề tài giúp GV và HS THPT tài liệu để dạy học tốt nội dung phân môn Làm văn đặc biệt là loại bài nghị luận văn học, trong đó có dạng bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ ở SGK Ngữ văn 12 nói riêng, chương trình Ngữ văn ở phổ thông nói chung.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, đề tài gồm ba chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc rèn luyện kỹ năng vận dụng tri thức LLVH cho HS lớp 12 trong bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ.
Chương 2. Tổ chức rèn luyện kĩ năng vận dụng tri thức LLVH cho học sinh lớp 12 trong bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ.
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm.
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC 
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VẬN DỤNG TRI THỨC LÝ LUẬN 
VĂN HỌC CHO HS LỚP 12 TRONG BÀI NGHỊ LUẬN 
VỀ MỘT BÀI THƠ, ĐOẠN THƠ
Bài làm văn là sự tổng hợp của nhiều tri thức và kỹ năng của HS: tri thức liên quan đến nội dung mà đề bài yêu cầu; tri thức về vốn sống, vốn hiểu biết; tri thức về cách diễn đạt Đối với bài văn nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ, bên cạnh những tri thức trên, HS còn phải có sự hiểu biết về tri thức LLVH. Có thể xem đó chính là nền tảng cơ sở để HS bàn luận, đưa ra ý kiến đánh giá của mình về tác giả, tác phẩm. Việc vận dụng tri thức LLVH cần phải dựa trên những cơ sở khoa học và thực tiễn nhất định. Trong chương 1, đề tài sẽ trực tiếp đề cập đến những nội dung này.
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Khái niệm, yêu cầu và các kỹ năng cần rèn luyện cho HS trong bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ 
1.1.1.1. Khái niệm bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ
* Khái niệm về văn nghị luận
 Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về văn nghị luận 
- “Văn nghị luận là một loại văn trong đó người viết đưa ra những lý lẽ, dẫn chứng về một vấn đề nào đấy và thông qua cách thức bàn luận mà làm cho người đọc hiểu, tin, tán đồng những ý kiến của mình và hành động theo những ý kiến mà mình đề xuất” [2, tr.137].
- “Văn nghị luận là một thể loại nhằm phát biểu tư tưởng, tình cảm, thái độ, quan điểm của người viết một cách trực tiếp về văn học hoặc chính trị, đạo đức, lối sống nhưng lại được trình bày bằng một thứ ngôn ngữ trong sáng hùng hồn, với những lập luận chặt chẽ, mạch lạc, giàu sức thuyết phục” [45; tr.128].
Mặc dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng về cơ bản, văn nghị luận được xác định trên những đặc điểm sau:
- Là một trong 6 kiểu văn bản được dạy học trong CT, SGK Ngữ văn phổ thông nhằm hình thành cho HS phương thức biểu đạt (cách thức biểu đạt) nghị luận, trong đó chủ yếu là cách lập luận chặt chẽ, thuyết phục. 
- Phạm vi, nội dung bàn luận: là những vấn đề liên quan đến văn học hoặc chính trị, đạo đức lối sống
- Mục đích: thuyết phục người đọc, người nghe hiểu, tin, tán đồng và hành động theo mình.
* Khái niệm bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ
Theo CT, SGK Ngữ văn phổ thông, văn nghị luận được phân chia thành hai loại: nghị luận văn học và nghị luận xã hội. Với loại bài nghị luận văn học, dựa trên nội dung và đối tượng cần nghị luận, được tách thành các dạng:
- Nghị luận về ý kiến bàn về văn học
- Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ
- Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi
Như vậy, nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ, mặc dù không có một định nghĩa đầy đủ, chính xác trong các tài liệu, SGK Ngữ văn nhưng có thể nhận diện dựa trên các yếu tố sau:
- Là một trong ba dạng thuộc kiểu bài nghị luận văn học nhằm mục đích rèn luyện cho HS cách thức biểu đạt nghị luận, trong đó chủ yếu là việc sử dụng các thao tác lập luận làm sáng rõ nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ. Nói cách khác, nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ là trình bày cách nhận xét, đánh giá của người viết về nội dung, nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ.
- Nội dung, nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ được thể hiện qua từ ngữ, giọng điệu, hình ảnh Bài văn nghị luận cần phân tích rõ các yếu tố ấy có những nhận xét, đánh giá cụ thể, rõ ràng, thuyết phục. Những nhận xét, đánh giá ấy phải gắn liền với sự bình giá ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, nội dung, cảm xúc của bài thơ, đoạn thơ.
- Bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ có bố cục mạch lạc, có lời văn gợi cảm, thể hiện được rung động chân thành của người viết. Nhìn chung, bài văn nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ được bố cục theo ba phần: đặt vấn đề (giới thiệu về bài thơ, đoạn thơ; nêu nhận xét, đánh giá của mình); giải quyết vấn đề (trình bày những đánh giá của mình về nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ); kết thúc vấn đề (khái quát giá trị, ý nghĩa của bài thơ, đoạn thơ). 
Ví dụ:
Cảm nhận của anh (chị) về đoạn thơ sau trong bài thơ: 
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai chim én gặp mùa 
Như đưa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa
 (Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên) 
Khi nói về con đường thơ của mình, Chế Lan Viên từng khẳng định: “Xưa phù du mà nay đã phù sa / Xưa trôi đi mà nay không bay mất”. Trên hành trình của một hồn thơ đi từ thung lũng đau thương ra cách đồng vui, từ chân trời của một người đến với chân trời của tất cả ấy, hơn ai hết, Chế Lan Viên hiểu được vai trò lớn lao của Đảng và nhân dân, những người mà nhà thơ cho rằng đã “thay đổi đời tôi, thay đổi thơ tôi”. Niềm hạnh phúc rưng rưng của một nhà thơ đã nhận ra giá trị đích thực của cuộc đời mình khi trở về với nhân dân đã được nhà thơ gửi gắm một cách chân thành và xúc động qua những bài thơ Tiếng hát con tàu, trong đó đặc biệt là khổ thơ trên. 
Tiếng hát con tàu là bài thơ được sáng tác từ một sự kiện kinh tế - xã hội: cuộc vận động nhân dân đi xây dựng vùng kinh tế mới vào năm 1960. Tuy nhiên, bài thơ không chỉ dừng lại với ý nghĩa tuyên truyền cho một đường lối, chính sách của Đảng. Với tư cách là một nhà thơ, từ thực tế đời sống với những yêu cầu, đòi hỏi mới về người nghệ sĩ, nhà thơ đã thể hiện đựoc khát vọng trở về với đất nước và nhân dân - cội nguồn của mọi cảm hứng sáng tạo. Khát vọng ấy được diễn đạt khá linh hoạt và sáng tạo. Có khi, khát vọng ấy được gửi gắm qua sự hoá thân kì diệu của nhà thơ qua hình ảnh con tàu và Tây Bắc. Và cũng có khi, khát vọng ấy lại được thể hiện bằng những câu thơ đầy xúc động. Đó là niềm hạnh phúc lớn lao của nhà thơ khi được trở về với nhân dân
Trong hoài niệm của nhà thơ về Tây Bắc, nhân dân không phải là một khái niệm trừu tượng mà được hiện diện qua những cuộc đời, những số phận cụ thể. Đó là người anh du kích với “Chiếc ấo nâu suốt một đời vá rách. Đêm cuối cùng anh gửi lại cho con”, là là thằng em liên lạc: “Mười năm tròn không mất một phong thư”, là bà mế “lửa hồng soi tóc bạc. Năm con đau mế thức một mùa dài”... Họ là những người có cuộc đời nghèo khó nhưng đã hi sinh trọn đời cho Cách mạng đã được nhà thơ nhắc đến bằng tất cả lòng biết ơn chân thành nhất. Từ những con người, những cuộc đời cụ thể ấy, mạch cảm xúc thơ lại hướng đến suy tưởng, khái quát: 
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa 
Như đưa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa
Đoạn thơ gây ấn tượng cho người đọc trước hết bởi lối xưng hô nhằm tạo ra quan hệ ruột thịt: “Con gặp lại nhân dân”. Cách xưng hô giản dị mà chân thành, ấm áp đã cụ thể hoá một lần nữa mối quan hệ giữa nhà thơ và nhân dân. Đây là một nhận thức mới mẻ thể hiện hành trình cuả một quá trình nhận thức; từ cái tôi chật hẹp của chính mình, người nghệ sĩ đã hoà nhập với cuộc sống rộng lớn của nhân dân. Đây cũng là nhận thức của Xuân Diệu khi ý thức về chỗ đứng, về mối quan hệ giữa người nghệ sĩ với nhân dân: 
Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi
Cùng đỏ mồ hôi, cùng sôi giọt máu
Tôi sống với muôn người chiến đấu
Của triệu người yêu dấu gian lao
 (Những đêm hành quân)
Vì vậy, lối xưng hô ân tình ấy sở dĩ gây được xúc động trong lòng người đọc cũng chính là bởi nhà thơ đã nói được tấm lòng của cả một thế hệ mà có lần Chế Lan Viên đã trách cứ với chính mình vì “lỡ nhịp” với cuộc sống của nhân dân:
Có thể nào quên cả một thời thơ ấy
Tổ quốc trong lòng mà có cũng như không
Nhân dân ở quanh ta mà ta chẳng biết
Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng
 (Người thay đổi đời tôi, Người thay đổi thơ tôi)
Trong niềm xúc động chân thành ấy, nhà thơ đã diễn đạt ý nghĩa của cuộc trở về với nhân dân bằng lối so sánh đầy bất ngờ, sáng tạo. Trước hết, đây là một lối so sánh kép. Chỉ có bốn câu thơ mà xuất hiện đến năm lần các biện pháp so sánh. Cảm giác như niềm hạnh phúc được trở về với nhân dân bỗng nở xòe như những cánh hoa rực rỡ và ấm áp sắc màu. Lối so sánh kép này là một đặc trưng thể hiện phong cách nghệ thuật thơ Chế Lan Viên. Trong bốn câu thơ đề từ, nhà thơ đã so sánh Lòng ta, Tâm hồn ta với hai hình ảnh: con tàu và Tây Bắc. Đến phần sau của bài thơ, khi nói về nỗi nhớ, về tình yêu, những câu thơ ấy lại một lần nữa khoe sắc qua lối liên tưởng:
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương
Việc xây dựng hình tượng thơ qua lối so sánh kép có ý nghĩa rất lớn để thể hiện niềm xúc động rưng rưng của nhà thơ, đồng thời tạo được sự liên tưởng nhiều chiều với những quan hệ ngang dọc trong trí tưởng tượng của người đọc.
Những biện pháp so sánh ở đây lại được xây dựng từ những hình ảnh rất bình dị, quen thuộc, đặc biệt với người dân miền núi: nai, suối, cỏ, chim én, mùa xuân, chiếc nôi... Điều này cũng ghi nhận nỗ lực của nhà thơ trên con đường từ bỏ những hình ảnh xa lạ, ma quái ở những tập thơ trước cách mạng để trở về với thế giới bình dị, mang trong đó hơi thở cuộc sống của nhân dân. Nếu trước đây, người đọc luôn bắt gặp những hình ảnh cầu kì, thậm chí điên loạn: bóng ma Hời, những sông vắng lê mình trong bóng tối.... thì đến bài thơ, đoạn thơ này là những hình ảnh đầy ắp vẻ đẹp của hiện thực đời sống.
Cái hay trong đoạn thơ còn là cách sắp xếp những hình ảnh so sánh của nhà thơ. Đó là lối so sánh tăng dần theo cấp độ. Ba vế so sánh đầu hướng về tự nhiên, về ngoại vật. Nhưng đến hai vế so sánh còn l

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_ren_luyen_ki_nang_van_dung_tri_thuc_llvh_cho_hoc_sinh_l.doc