SKKN Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn học Ngữ văn lớp 8

SKKN Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn học Ngữ văn lớp 8

 Xã hội ngày càng phát triển, con người cũng đòi hỏi ngày càng phải tiến bộ, phát triển toàn diện để theo kịp thời đại. Bên cạnh việc am hiểu khoa học kĩ thuật hiện đại tiên tiến, con người phải cảm nhận được cái hay, cái đẹp của cuộc sống. Để đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nhấn mạnh đến nhiệm vụ của giáo dục trong giai đoạn hiện nay là phải đổi mới căn bản và toàn diện diện giáo dục. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các nhà trường là phải quan tâm đến việc bồi dưỡng học sinh giỏi nhằm đào tạo được những học sinh có đủ khả năng, điều kiện tiếp thu những tiến bộ khoa học kĩ thuật tiên tiến, đồng thời nắm bắt tốt những thay đổi, biến chuyển của xã hội .

 Môn Ngữ văn là một trong những môn học quan trọng trong nhà trường phổ thông, giúp học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của cuộc sống xã hội con người và thế giới khách quan, hình thành cho học sinh kĩ năng nghe, nói, đọc viết và kĩ năng giao tiếp trong cuộc sống. Môn học mang tính nghệ thuật cao nên khi giảng dạy về văn học đòi hỏi người dạy phải phải có vốn kiến thức, vốn sống, sự nhạy cảm và quá trình làm việc nghiêm túc, công phu. Giảng dạy và bồi dưỡng những kiến thức văn học vừa mang tính qui luật, vừa mang tính xã hội nhưng cũng luôn luôn phải cập nhật thực tiễn phục vụ cuộc sống để cuộc sống kiểm nghiệm và khẳng định. [1]

 Cũng như các môn học khác để đào tạo một học sinh giỏi văn không phải là vấn đề đơn giản. Muốn bồi dưỡng được một học sinh giỏi môn Ngữ văn đòi hỏi người học phải có một tâm hồn nhạy cảm, có năng khiếu văn học và phải có một quá trình học tập miệt mài, kiên nhẫn, có phương pháp học tập đúng đắn dưới sự dìu dắt, hướng dẫn nhiệt tình và phương pháp giảng dạy hiệu quả của người thầy.

Tôi thiết nghĩ muốn có được kết quả cao trong kì thi học sinh giỏi môn Ngữ Văn cấp tỉnh thì việc bồi dưỡng học sinh giỏi ở cấp cơ sở là nền tảng. Chính vì vậy, là một giáo viên tâm huyết với nghề, với công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, tôi rất băn khoăn trăn trở về vấn đề này. Sau nhiều năm suy nghĩ, vận dụng và đã đạt được kết quả bước đầu, tôi mạnh dạn đưa ra: “Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 8” với mong muốn trao đổi, đúc rút kinh nghiệm, nhận được sự góp ý của đồng nghiệp để công tác bồi dưỡng học sinh giỏi của bản thân được tốt hơn.

 

doc 19 trang thuychi01 15135
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn học Ngữ văn lớp 8", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 MỤC LỤC 
Đề mục
Nội dung
Trang
MỤC LỤC
1
I
MỞ ĐẦU...
2
1
Lí do chọn đề tài
2
2
Mục đích nghiên cứu.
2
3
Đối tượng nghiên cứu
2
4
Phương pháp nghiên cứu...
2
5
Những điểm mới của SKKN.
3
II.
NỘI DUNG...
3
1
Cơ sở lí luận..
3
2
Thực trạng của vấn đề...
4
3
 3.1
3.2
3.3
3.3.1
3.3.2
3.3.3 
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Tìm và lựa chọn học sinh vào đội tuyển văn.
Lập kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi..
Xây dựng nội dung chương trình bồi dường học sinh giỏi...
Phần Tiếng Việt.
Phần Văn...
Phần Tập làm văn.
5 
5
5
5
6
11
12
4
Hiệu quả của sáng kiến..
17
III.
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
18
1
Kết luận.
18
2
Kiến nghị...
18
I. MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài. 
 Xã hội ngày càng phát triển, con người cũng đòi hỏi ngày càng phải tiến bộ, phát triển toàn diện để theo kịp thời đại. Bên cạnh việc am hiểu khoa học kĩ thuật hiện đại tiên tiến, con người phải cảm nhận được cái hay, cái đẹp của cuộc sống. Để đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nhấn mạnh đến nhiệm vụ của giáo dục trong giai đoạn hiện nay là phải đổi mới căn bản và toàn diện diện giáo dục. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các nhà trường là phải quan tâm đến việc bồi dưỡng học sinh giỏi nhằm đào tạo được những học sinh có đủ khả năng, điều kiện tiếp thu những tiến bộ khoa học kĩ thuật tiên tiến, đồng thời nắm bắt tốt những thay đổi, biến chuyển của xã hội . 
 Môn Ngữ văn là một trong những môn học quan trọng trong nhà trường phổ thông, giúp học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của cuộc sống xã hội con người và thế giới khách quan, hình thành cho học sinh kĩ năng nghe, nói, đọc viết và kĩ năng giao tiếp trong cuộc sống. Môn học mang tính nghệ thuật cao nên khi giảng dạy về văn học đòi hỏi người dạy phải phải có vốn kiến thức, vốn sống, sự nhạy cảm và quá trình làm việc nghiêm túc, công phu. Giảng dạy và bồi dưỡng những kiến thức văn học vừa mang tính qui luật, vừa mang tính xã hội nhưng cũng luôn luôn phải cập nhật thực tiễn phục vụ cuộc sống để cuộc sống kiểm nghiệm và khẳng định. [1]
 Cũng như các môn học khác để đào tạo một học sinh giỏi văn không phải là vấn đề đơn giản. Muốn bồi dưỡng được một học sinh giỏi môn Ngữ văn đòi hỏi người học phải có một tâm hồn nhạy cảm, có năng khiếu văn học và phải có một quá trình học tập miệt mài, kiên nhẫn, có phương pháp học tập đúng đắn dưới sự dìu dắt, hướng dẫn nhiệt tình và phương pháp giảng dạy hiệu quả của người thầy.
Tôi thiết nghĩ muốn có được kết quả cao trong kì thi học sinh giỏi môn Ngữ Văn cấp tỉnh thì việc bồi dưỡng học sinh giỏi ở cấp cơ sở là nền tảng. Chính vì vậy, là một giáo viên tâm huyết với nghề, với công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, tôi rất băn khoăn trăn trở về vấn đề này. Sau nhiều năm suy nghĩ, vận dụng và đã đạt được kết quả bước đầu, tôi mạnh dạn đưa ra: “Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 8” với mong muốn trao đổi, đúc rút kinh nghiệm, nhận được sự góp ý của đồng nghiệp để công tác bồi dưỡng học sinh giỏi của bản thân được tốt hơn.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích nâng cao chất lượng học sinh giỏi trong nhà trường nói chung, nâng cao chất lượng học sinh giỏi môn Ngữ văn nói riêng. Nghiên cứu và thực hiện đề tài còn giúp nâng cao năng lực chuyên môn, phương pháp sư phạm cho giáo viên. Có cơ hội trao đổi với đồng nghiệp để học hỏi kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung, bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn nói riêng.
- Đề tài hướng đến giúp học sinh có phương pháp, cách thức trong quá trình ôn luyện đội tuyển học sinh giỏi môn Ngữ văn.
3. Đối tượng nghiên cứu.
- Để thực hiện đề tài tôi đã lựa chọn đối tượng học sinh lớp 8 Trường THCS Vân Du do tôi trực tiếp giảng dạy.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào những vấn đề trọng tâm của chương trình ôn luyện, cụ thể là: Hướng dẫn học sinh nắm vững các dạng bài tập 
Tiếng Việt, các tác phẩm Văn học, phương pháp làm các dạng bài phần Tập làm văn.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Các phương pháp tôi đã sử dụng:
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết, vận dụng thực hành.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp hướng dẫn thực hành, luyện viết là chủ yếu.
5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
- Trong năm học 2016- 2017, tôi tiếp tục nghiên cứu và phát triển đề tài: “Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn”
- Những điểm mới so với đề tài tôi đã từng vận dụng:
+ Thay đối tượng áp dụng: Đề tài cũ tôi áp dụng đối với học sinh giỏi lớp 9, đề tài này tôi áp dụng đối với đối tượng là học sinh giỏi lớp 8.
+ Thay đổi nội dung kiến thức: Trong đề tài cũ nội dung kiến thức bồi dưỡng thuộc chương trình Ngữ văn lớp 9, đề tài này tôi xây dựng nội dung kiến thức trong chương trình Ngữ văn lớp 8.
+ Để đáp ứng đề thi học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh năm nay, tôi đã bổ sung bồi dưỡng cho học sinh dạng bài nghị luận văn học có vận dụng yếu tố lí luận văn học.
 II. NỘI DUNG
1- Cơ sở lí luận 
 Tại đại hội Đảng toàn quốc lần VIII và IX Đảng ta đã xác định và nhấn mạnh: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu là một trong những động lực quan trọng tạo sự chuyển biến toàn diện trong phát triển giáo dục và đào tạo”. Xuất phát từ quan điểm chỉ đạo của Đảng về Giáo dục - Đào tạo, thực hiện chiến lược phát triển giáo dục trong giai đoạn hiện nay, ngành giáo dục đang tích cực từng bước mới công tác quản lý giáo dục, đổi mới nội dung chương trình, đổi mới phương pháp dạy học, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, hoàn thành mục tiêu: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước.” Như vậy một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các nhà trường hiện nay là phải phát hiện ra nhân tố, bồi dưỡng nhân tài để phục vụ cho nhu cầu của xã hội, đất nước. [2]
 Môn Ngữ văn là bộ môn khoa học cơ bản góp phần rèn luyện cho học sinh tình cảm thẩm mĩ, giáo dục những kĩ năng sống cơ bản đồng thời mang tính giáo dục để mỗi con người trở nên hoàn thiện cả về trí tuệ lẫn tâm hồn. Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn là góp phần phát hiện, đào tạo những nhân tài văn chương cho đất nước, tạo tiền đề để đào tạo những công dân có ích sau này.
 Trong công tác giáo dục, nâng cao chất lượng là nhiệm vụ trọng tâm, trong đó bao gồm bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu và nâng cao chất lượng đại trà. Nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi là nhiệm vụ song song tồn tại với hai nhiệm vụ trên, được thực hiện trong suốt năm học ở tất cả các khối, các cấp học. 
 Bồi dưỡng học sinh giỏi là một quá trình lâu dài, bền bỉ. Đối tượng học sinh giỏi là học sinh có năng khiếu văn chương, khả năng tiếp thu tốt, song cần hướng dẫn cho các em con đường hình thành cảm xúc và kĩ năng viết bài. Đây là công việc đòi hỏi người giáo viên nhất thiết phải có sự đầu tư, suy ngẫm, xây dựng phương pháp dạy và học thật sự phù hợp thì kết quả mới được như mong muốn. Thực tiễn dạy học môn Ngữ văn vốn gặp nhiều khó khăn, từ xu thế của xã hội đến tâm lí của học trò; từ đặc trưng trừu tượng của môn học đến lượng kiến thức dài hơn môn học khácNhững tác động khách quan đó đòi hỏi người thầy phải lao động nghiêm túc thì mới gặt hái được thành công.
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
Trước hết, ta thấy bộ môn Ngữ Văn là môn học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, môn học này có tính đặc thù riêng biệt, nó mang tính trừu tượng, đòi hỏi phải có tư duy trừu tượng và cảm xúc, không giống bất kỳ môn học nào trong hệ thống chương trình. Hơn thế nữa học tốt môn học này sẽ bổ trợ rất nhiều cho các môn học khác như về kĩ năng giao tiếp, giáo dục giá trị sống, đạo đức xã hội. Thế nhưng để dạy và học tốt môn học này không phải là vấn đề đơn giản, nó đòi hỏi cả người dạy lẫn người học phải thực sự say mê, tâm huyết mới có thể truyền thụ và lĩnh hội được.
Đối với giáo viên: Qua trao đổi với một số đồng nghiệp tôi nhận thấy đa phần các đồng chí giáo viên đang còn đang mơ hồ về phương pháp, cách thức bồi dưỡng học sinh. Giáo viên còn dạy theo cảm hứng thích phần nào thì tập trung đi sâu vào phần đó. Kiến thức của một số giáo viên chưa đủ sâu, rộng. Một số giáo viên thì mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp kiến thức cho học sinh, chưa chú trọng rèn luyện kỹ năng làm bài của học sinh. Hơn nữa một số giáo viên chưa thật sự tâm huyết để đầu tư thời gian và công sức trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Chính vì thế mà việc bồi dưỡng học sinh giỏi của một số trường vẫn chưa đạt được kết quả như mong muốn, thậm chí còn rất thấp.
Đối với học sinh: Để đáp ứng với xu thế thi cử hiện nay, học sinh phải học đều, dàn trải tất cả các môn học để có kiến thức nền tảng nên thời gian dành cho một môn học còn chưa nhiều. Hơn nữa vốn kiến thức xã hội của các em còn rất hạn chế do sự va chạm với thực tiễn cuộc sống còn ít, nên khi gặp vấn đề đặt ra từ cuộc sống hằng ngày các em còn núng túng. Văn hóa đọc của các em còn chưa được quan tâm. Các em rất ít đọc những tác phẩm văn học hay, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc mà thay vào đó các em thích đọc những truyện thám tử, truyện cười, truyện tranh chính vì thể mà vốn kiến thức viết bài của các em còn chưa nhiều, sức viết ngắn. Tâm lí một số học sinh hiện nay còn có tư tưởng ngại học văn vì cho rằng nó dài khó thuộc và chiếm nhiều thời gian học hơn so với các môn học khác. Chính những nguyên nhân trên khiến cho việc chọn các em vào đội tuyển Văn con bất cập.
 Kết quả của thực trạng.
- Kết quả điều tra khảo sát thực tế về số lượng học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 8 so với các môn học khác vào đầu năm học 2016-2017 tại trường THCS Vân Du như sau:
Lớp
Tổng số
HSG Ngữ văn
HSG Toán
HSG Vật lí
HSG Hóa
SL
TL %
SL
TL %
SL
TL %
SL
TL %
8A
30
1
3,3
5
16,6
5
16,6
3
10,0
8B
36
6
16,6
13
36,1
12
33,3
10
27,7
Tổng số
66
7
10,6
18
27,2
17
25,7
13
19,6
 Nhìn vào bảng số liệu trên cho thấy, HS yêu thích và học giỏi môn Ngữ văn thấp hơn nhiều so với các môn học khác, đặc biệt là các môn Toán, Lí, Hóa. Tuy nhiên,vẫn còn một số em yêu thích học văn. Đây chính là động lực để các thầy cô giáo dạy văn truyền tâm huyết cho công tác đào tạo nhân tài.
3. CÁC GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. 
3.1 Tìm và lựa chọn học sinh vào đội tuyển Văn.
 Để lựa chọn những học sinh có năng khiếu văn vào đội tuyển Văn là một việc làm khó, đòi hỏi người giáo viên phải hết sức khéo léo và có kinh nghiệm.
 Trước tiên, phải chọn học sinh có khả năng học văn tốt, yêu thích môn Văn, có sức viết tốt, biết phát hiện vấn đề, chữ viết đẹp.
 Thứ hai giáo viên phải khơi gợi được tâm lý cho HS yêu thích môn văn, muốn có được điều đó đòi hỏi người giáo viên trong qua trình giảng dạy có một sức hút, một sự lôi cuốn thực sự. Sức hút ở người giáo viên dạy Văn là : phải có giọng đọc văn hay, nội dung bài giảng phải có sức lôi cuốn thực sự để chạm tới lòng rung cảm của các em, từ đó các em tìm đến môn văn để học. Hơn nữa người giáo viên dạy Văn phải khơi được niềm đam mê học văn của các em, đây là một thành công việc lựa chọn HSG đi thi học sinh giỏi môn Ngữ văn.
 Thứ ba: Giáo viên phải tiếp cận với gia đình học sinh để giúp họ nhận thức sâu sa và hiểu sự cần thiết của việc học môn Ngữ văn trong XH hiện nay để gia đình tạo điều kiện thuận lợi nhất để học sinh được tham gia vào đội tuyển văn.
 Thứ tư: Giáo viên cần gần gòi, sẻ chia những lo ngại, khó khăn trong cuộc sống của các em, giúp các em có tâm thế thoải mái trong việc học văn.
3.2. Lập kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi.
 Chúng ta đã biết, bồi dưỡng học sinh giỏi là việc làm thường xuyên và lâu dài, không phải ngày một ngày hai mà các em đi thi có thể đạt giải được. Xác định rõ điều đó, ngay từ khi học sinh vào lớp 6 tôi đã thành lập đội tuyển và có kế hoạch bồi dưỡng năng khiếu Văn cho các em. Đối với chương trình lớp 6: Nắm được các biện pháp tu từ Tiếng Việt, tập trung vào rèn kĩ năng làm văn kể chuyện tưởng tượng, sáng tạo, miêu tả sáng tạo. Lớp7, tôi tiếp tục rèn luyện kĩ năng làm bài phát hiện các biện pháp tu từ Tiếng việt, tập trung bồi dưỡng cho các em kĩ năng làm bài văn biểu cảm, văn nghị luận. Lớp 8, tôi tập trung củng cố kiến thức cơ bản, đào sâu kiến thức nâng cao, rèn kĩ năng làm các dạng đề văn nghị luận Bên cạnh đó, tôi thường xuyên cung cấp và hướng dẫn cho HS ở các khối lớp những tài liệu BDHSG, những tác phẩm văn chương hay, đọc mẫu những bài văn hay của học sinh giỏi các khóa trước, trong các nguồn tài liệu. 
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi được tiến hành từ lớp 6 cho đến hết lớp 9. Mỗi khối lớp tôi đều tập trung bồi dưỡng những kiến thức trọng tâm, kiến thức nâng cao tương ứng với khối lớp đó. Đặc biệt ở mỗi khối lớp tôi đều chú trọng đến khâu vận dụng kiến thức đã học để rèn luyện kĩ năng viết bài, rèn kĩ năng phát hiện và cảm thụ văn học. 
3.3. Xây dựng nội dung chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi. 
Theo tôi, xây dựng nội dung chương trình là khâu quan trọng nhất trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi, khâu này đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức sâu, rộng, nắm vững kiến thức từng bài, từng kiểu bài, dạng bài.
3.3.1. PhÇn Tiếng Việt: Bên cạnh việc dạy cho học sinh nắm vững kiến thức trong chương trình, tôi trọng tâm bồi dưỡng, rèn luyện kĩ năng làm bài tập phát hiện và phân tích các biện pháp tu từ Tiếng Việt. Phát hiện và phân tích giá trị biểu cảm của từ ngữ. Phát hiện và phân tích tác dụng của các loại dấu câu trong văn bản nghệ thuật. 
*Dạng bài tập phát hiện và phân tích tác dụng của các biện pháp tu từ:
 Để học sinh làm tốt dạng bài tập này, trước tiên tôi củng cố kiến thức phần lí thuyết để học sinh nắm vững đặc điểm, tác dụng của từng biện pháp tu từ. sau đó hướng dẫn học sinh cách làm bài cụ thể.
Biện pháp tu từ
Khái niệm
So sánh
Là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật, sự việc khác có nét tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt. So sánh sử dụng nhiều trong văn miêu tả. biểu cảm
Nhân hóa
Là gọi hoặc tả con vật, cây cố, đồ vậtbằng những từ ngữ vốn dùng để gọi hoặc tả người: làm cho thể giới loài vật, cây cối, đồ vật trở nên gần gũi với con người, biểu thị được những suy nghĩ, tình cảm của con người.
Ẩn dụ
Là gọi tên sự vật hiện tượng này bằng tên sự vật hiện tượng khác có nét tương đồng với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt
Hoán dụ
 Là gọi tên sự vật hiện tượng, khái niệm bằng tên của một sự vật hiện tượng, khái niệm khác có mối quan hệ gần gũi nhằm tăng sức gợi hình gợi cảm cho sự diễn đạt.
Điệp ngữ
Điệp ngữ là biện pháp tu từ lặp đi lặp lại một từ, cụm từ nhằm nhấn mạnh ý hay gây cảm xúc mạnh.
Nói quá
Là biện pháp tu từ phóng đại mức độ, qui mô, tính chất của sự vật, hiện tượng được miêu tả để nhấn mạnh, gây ấn tượng, tăng sức biểu cảm.
Nói giảm, nói tránh
 Là biện pháp tu từ dùng cách diễn đạt tế nhị, uyển chuyển, tránh gây cảm giác đau buồn, ghê sợ, nặng nề ; tránh thô tục, thiếu lịch sự.
Liệt kê
Là sắp xếp nối tiếp hàng loạt từ hay cụm từ cùng loại nhằm diễn tả được đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những khía cạnh khác nhau của thực tế hay tư tưởng
Chơi chữ
Là lợi dụng đặc sắc về âm, về nghĩa của từ ngữ để tạo sắc thái dí dỏm, hài hướclàm cho câu văn hấp dẫn, thú vị.
 Sau khi học sinh đã nắm vững phần lí thuyết, tôi hướng dẫn học sinh làm dạng bài tập về biện pháp tu từ Tiếng Việt. Đối với dạng bài tập về phát hiện và phân tích tác dụng của các biện pháp tu từ Tiếng Việt tôi hướng dẫn cho học sinh các bước làm cụ thể: 
Bước 1: Giới thiệu cảm xúc chung về đoạn thơ (đoạn văn) đó.
Bước 2: Phát hiện, gọi tên đầy đủ những biện pháp tu từ có từ đoạn thơ (đoạn văn) chỉ rõ những từ ngữ thực biện pháp tu từ đó.
Bước 3: Phân tích được giá trị của các biện pháp tu từ .
Bước 4: Trình bày những nhận xét, đánh giá chung về tác dụng của các phép tu từ đã được sử dụng trong đoạn thơ (đoạn văn) đó .
Ví dụ 1: 
Xác định và phân tích giá trị biểu cảm của biện pháp tu từ trong hai câu thơ sau:
 “...Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
 Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.”
 (Quê hương -Tế Hanh) [3]
Hướng dẫn HS cách làm bài:
- Giới thiệu: Câu thơ được trích trong bài thơ “ Quê hương” của Tế Hanh, miêu tả hình ảnh con thuyền sau chuyến ra khơi. Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa chiếc thuyền “im”, “nằm”; bến “mỏi”; nghệ thuật ẩn dụ “ nghe”
- Phân tích tác dụng của từng phép tu từ: 
+ Nghệ thuật nhân hóa giúp cho hình ảnh con thuyền như một con người cụ thể có tâm hồn và những cảm xúc sâu lắng, gần gũi với cuộc sống lao động của người dân làng chài. Tác giả không chỉ “thấy” con thuyền đang nằm im trên bến mà còn thấy sự mệt mỏi, say sưa, còn “cảm thấy” con thuyền ấy như đang lắng nghe chất muối thấm dần trong từng thớ vỏ của nó. 
+ Nghệ thuật ẩn dụ chuyền đổi cảm giác làm cho hình ảnh con
thuyền như đang lắng nghe “chất muối”- hương vị mặn mòi
của biển như đang “ thấm dần trong thớ vỏ” của chính mình.
Hình ảnh tĩnh nhưng thực ra vẫn đang chuyển động. Con thuyền vô tri đã trở nên có hồn, một tâm hồn rất tinh tế. Cũng như người dân chài, con thuyền lao động ấy thấm đẫm vị muối mặn mòi của biển khơi.
-Tiểu kết: Từ các biện pháp tu từ, hình ảnh con thuyền “nghỉ ngơi” sau chuyến ra khơi vất vả thực sự là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Nó là một biểu tượng đẹp của làng chài, của những cuộc đời trải qua bao phong sương thử thách, bao dạn dày sóng gió. Không có một tâm hồn tinh tế, tài hoa và nhất là nếu không có tấm lòng gắn bó sâu nặng với con người cùng cuộc sống lao động làng chài quê hương thì không thể có những câu thơ xuất thần như vậy. 
Ví dụ 2: Hãy phân tích giá trị thẩm mĩ của các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong khổ thơ sau:
 	“Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã 
 Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang 
	 Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng 
	 Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”.
	(Quê hương - Tế Hanh) [3]
Hướng dẫn cách làm bài:
- Giới thiệu khổ thơ.
- Gọi tên các biện pháp tu từ trong đoạn thơ: So sánh, nhân hóa.
- Phân tích tác dụng của từng biện pháp tu từ:
+ Tác giả sử dụng dụng biện pháp so sánh hùng tráng, bất ngờ ví “chiếc thuyền” như “con tuấn mã” và cánh buồm như “mảnh hồn làng” đã tạo nên hình ảnh độc đáo; sự vật như được thổi thêm linh hồn trở nên đẹp đẽ. 
+ Phép so sánh đã gợi ra một vẻ đẹp bay bổng, mang ý nghĩa lớn lao thiêng liêng, vừa thơ mộng, vừa hùng tráng. Cánh buồm còn được nhân hóa như một chàng trai lực lưỡng đang “rướn” tấm thân vạm vỡ chống chọi với sóng gió. 	 
+ Một loạt từ : Hăng, phăng, vượt... được diễn tả đầy ấn tượng khí thế hăng hái, dũng mãnh của con thuyền ra khơi. 	
- Đánh giá: Việc kết hợp linh hoạt và độc đáo các biện pháp so sánh, nhân hóa , sử dụng các động từ mạnh đã gợi ra trước mắt người đọc một phong cảch thiên nhiên tươi sáng, vừa là bức tranh lao động đầy hứng khởi và dạt dào sức sống của người dân làng chài.
Ví dụ 3: Xác định và nêu tác dụng của các biện pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng trong khổ thơ sau:
	 Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu ?
 Giấy đỏ buồn không thắm ;
 Mực đọng trong nghiên sầu...
	 (Trích Ông đồ - Vũ Đình Liên) [4]
Hướng dẫn cách làm bài:
- Giới thiệu chung về đọan thơ: Đoạn thơ trên trích trong bài thơ Ông đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên đoạn thơ diễn tả tâm trạng của ông đồ khi bị mọi người xa lánh, lãng quên.
- Trong đoạn thơ tác giả sử dụng thành công các biện pháp tu từ: nhân hoá, câu hỏi tu từ.
- Phân tích tác dụng: 
+ Câu hỏi tu từ: Người thuê viết nay đâu?	Câu hỏi như một lời tự vấn lòng mình nhằm diễn tả nỗi buồn trĩu nặng, nỗi xót xa trước sự lãng quên của người đời với ông đồ.
+ Phép nhân hóa: Giấy đỏ “buồn”, Mực đọng thành “nghiên sầu”
- Nêu được tác dụng: 
 Gợi không gian cảnh buồn vắng, tình cảnh ông đồ dần dần trở nên buồn chán. Người buồn nên những vật dụng đã từng gắn bó thân thiết với cuộc đời ông đồ cũng sầu thảm theo: giấy đỏ buồn, bẽ bàng không thắm, mực đọng lại bao sầu tủi trở thành nghiên sầu... 
- Đánh giá: Nhờ sử dụng thành công các biện pháp tu từ nhân hóa, câu hỏi tu từ tác giả đã làm nổi bật tình cảnh và nỗi buồn của ông đồ khi nền nho học bị bãi bỏ đồng thời thể hiện niềm xót thương của tác g

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_trong_cong_tac_boi_duong_hoc_sinh_gi.doc