SKKN Một số biện pháp giảng dạy có hiệu quả các Văn bản nhật dụng trong Sách giáo khoa Ngữ văn 8

SKKN Một số biện pháp giảng dạy có hiệu quả các Văn bản nhật dụng trong Sách giáo khoa Ngữ văn 8

Môn Ngữ Văn có một vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của trường Trung học cơ sở (THCS): góp phần hình thành những con người có học vấn phổ thông cơ sở, chuẩn bị cho các em hoặc ra đời hoặc tiếp tục học lên ở bậc học cao hơn. Đó là những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương quý trọng gia đình, bè bạn; có lòng yêu nước yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác.

Đó là những con người biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mỹ trong nghệ thuật, trước hết là trong văn học, có năng lực thực hành và năng lực sử dụng Tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp.

Ngày nay cùng với sự phát triển của đất nước thì vấn đề giáo dục đã trở thành một vấn đề cấp bách đối với toàn xã hội. Để bắt kịp với đà phát triển mạnh mẽ ấy, đổi mới trong giáo dục - đào tạo là một vấn đề cần thiết, quan trọng và phù hợp với xu hướng tiến bộ của thời đại, với công cuộc hiện đại hoá giáo dục.

Một vấn đề làm tôi quan tâm hơn cả đó là hệ thống các văn bản nhật dụng (VBND) trong chương tŕnh SGK Ngữ văn THCS. Có thể thấy việc đưa các VBND vào chương trình SGK Ngữ văn mới là rất cần thiết bởi nó có khả năng kết hợp lí thuyết với thực tiễn đời sống và cả tính thời sự rất cao.

Như vậy, VBND đã góp tiếng nói vô cùng quan trọng trong cuốn SGK Ngữ văn. Qua quá tŕnh nghiên cứu, tìm hiểu, giảng dạy và đặc biệt trong năm học 2018 - 2019 bản thân cá nhân tôi đang trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn 8. Cho nên tôi rất tâm đắc khi những văn bản này được đưa vào giảng dạy trong chương tŕnh Ngữ văn 8 bởi tính thời sự, tính thực tiễn và khả năng giáo dục của nó. Chính vì vậy mà tôi luôn trăn trở, suy nghĩ để những khả năng giáo dục tiềm ẩn trong những văn bản ấy được khai thác có hiệu quả cao nhất trong quá tŕnh dạy học nhằm giúp học sinh liên hệ được tới đời sống thực tế đang diễn ra rất sinh động xung quanh các em. Để từ đó các em có được nhận thức đúng đắn để thay đổi hành vi của mình và những người xung quanh theo hướng tích cực mà giáo viên mong muốn sau mỗi tiết dạy (điều này chương trình SGK cũ chưa bao giờ làm được).

 

doc 21 trang thuychi01 10104
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp giảng dạy có hiệu quả các Văn bản nhật dụng trong Sách giáo khoa Ngữ văn 8", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
STT
NỘI DUNG
Trang
1. MỞ ĐẦU
1
1
1.1. Lí do chọn đề tài
1
2
1.2. Mục đích nghiên cứu
2
3
1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
4
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2
2. PHẦN NỘI DUNG SÁNG KIẾN
3
5
2.1. Cơ sở lý luận
4
6
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
4
7
2.3. Các giải pháp để giảng dạy đạt hiệu quả tốt nhất các văn bản nhật dụng trong SGK Ngữ Văn 
6
8
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
13
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
14
9
3.1.Kết luận
14
10
3.2.Kiến nghị
14
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Môn Ngữ Văn có một vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của trường Trung học cơ sở (THCS): góp phần hình thành những con người có học vấn phổ thông cơ sở, chuẩn bị cho các em hoặc ra đời hoặc tiếp tục học lên ở bậc học cao hơn. Đó là những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương quý trọng gia đình, bè bạn; có lòng yêu nước yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác.
Đó là những con người biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mỹ trong nghệ thuật, trước hết là trong văn học, có năng lực thực hành và năng lực sử dụng Tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp.
Ngày nay cùng với sự phát triển của đất nước thì vấn đề giáo dục đã trở thành một vấn đề cấp bách đối với toàn xã hội. Để bắt kịp với đà phát triển mạnh mẽ ấy, đổi mới trong giáo dục - đào tạo là một vấn đề cần thiết, quan trọng và phù hợp với xu hướng tiến bộ của thời đại, với công cuộc hiện đại hoá giáo dục.
Một vấn đề làm tôi quan tâm hơn cả đó là hệ thống các văn bản nhật dụng (VBND) trong chương tŕnh SGK Ngữ văn THCS. Có thể thấy việc đưa các VBND vào chương trình SGK Ngữ văn mới là rất cần thiết bởi nó có khả năng kết hợp lí thuyết với thực tiễn đời sống và cả tính thời sự rất cao.
Như vậy, VBND đã góp tiếng nói vô cùng quan trọng trong cuốn SGK Ngữ văn. Qua quá tŕnh nghiên cứu, tìm hiểu, giảng dạy và đặc biệt trong năm học 2018 - 2019 bản thân cá nhân tôi đang trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn 8. Cho nên tôi rất tâm đắc khi những văn bản này được đưa vào giảng dạy trong chương tŕnh Ngữ văn 8 bởi tính thời sự, tính thực tiễn và khả năng giáo dục của nó. Chính vì vậy mà tôi luôn trăn trở, suy nghĩ để những khả năng giáo dục tiềm ẩn trong những văn bản ấy được khai thác có hiệu quả cao nhất trong quá tŕnh dạy học nhằm giúp học sinh liên hệ được tới đời sống thực tế đang diễn ra rất sinh động xung quanh các em. Để từ đó các em có được nhận thức đúng đắn để thay đổi hành vi của mình và những người xung quanh theo hướng tích cực mà giáo viên mong muốn sau mỗi tiết dạy (điều này chương trình SGK cũ chưa bao giờ làm được). 
Đối với học sinh THCS các em mới được làm quen với văn bản nhật dụng nên còn nhiều bỡ ngỡ. Bên cạnh đó thực tế các trường THCS hiện nay nhiều đồng chí giáo viên chưa thật quan tâm thích đáng đến phần văn bản này vì cho rằng dạy văn là phải dạy những gì thơ mộng lãng mạn còn văn bản nhật dụng thì khô khan thực tế quá. Do đó việc vận dụng đổi mới phương pháp trong tiết dạy văn bản nói chung và văn bản nhật dụng nói riêng có vai trò vô cùng quan trọng. Học sinh học văn bản nhật dụng không chỉ để mở rộng hiểu biết toàn diện mà còn tạo điều kiện tích cực để thực hiện nguyên tắc giáo dục kiến thức kết hợp với hình thành kĩ năng sống giúp các em hoà nhập với cuộc sống xã hội một cách tốt nhất, rút ngắn khoảng từ trang sách đến cuộc sống thực tại và từ nhà trường ra xã hội.
Qua một thời gian học tập, tìm tòi nghiên cứu và trực tiếp giảng dạy, tôi đã có những suy nghĩ và xin mạnh dạn trao đổi cùng các thầy cô đồng nghiệp qua sáng kiến kinh nghiệm: "Một số biện pháp giảng dạy có hiệu quả các Văn bản nhật dụng trong Sách giáo khoa Ngữ văn 8". Tôi tin rằng với đề tài này, tôi sẽ có thêm kinh nghiệm trong quá tŕnh giảng dạy và có cơ hội đóng góp một tiếng nói nho nhỏ của mình vào quá trình thảo luận kinh nghiệm dạy học chương trình mới ở trường THCS.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Tôi chọn đề tài "Một số biện pháp giảng dạy có hiệu quả các Văn bản nhật dụng trong Sách giáo khoa Ngữ văn 8" với những mục đích sau:
 Dựa trên cơ sở vai trò và tầm quan trọng của văn bản nhật dụng là tính thời sự, cập nhật với đời sống hiện tại và việc học tập của HS tôi đề xuất một số biện pháp dạy học góp phần tạo hứng thú, nâng cao chất lượng học tập của HS đồng thời nâng cao hiệu quả giờ lên lớp của giáo viên.
Có thể nói, việc giảng dạy các VBND sao cho có hiệu quả là một vấn đề gây không ít khó khăn đối với các giáo viên THCS hiện nay bởi lẽ các vấn đề mà các VBND trong chương trình đưa ra hầu hết đều có liên quan tích hợp với một môn học nào đó trong chương trình và dường như những môn học kia lại có thể góp phần giáo dục các vấn đó được tốt hơn cùng với môn Ngữ văn đó chính là vấn đề cần khai tính tích hợp liên môn trong dạy học ở bậc THCS. Ví dụ: vấn đề bảo vệ môi trường được đề cập trong môn Giáo dục công dân và môn Sinh học; vấn đề dân số thì tích hợp được với môn Địa lí... 
Chính vì vậy, việc dạy học các VBND để gây được sự hứng thú học tập với học sinh có thể dễ dàng thực hiện với một số giáo viên nhưng vẫn chưa thể nói là dễ dàng với bất kì một giáo viên nào - đặc biệt là những giáo viên trẻ mới ra trường hay những giáo viên đă quá quen với phương pháp dạy học cũ. Trong khi đó, đặc điểm, tính chất của các VBND là tính cập nhật cao. 
1.3. Đối tượng nghiên cứu 
"Một số biện pháp giảng dạy có hiệu quả các Văn bản nhật dụng trong Sách giáo khoa Ngữ văn 8" 
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp Nghiên cứu lí thuyết .
- Phương pháp Khảo sát thực tế.
- Phương pháp Phân loại , thống kê, xử lí số liệu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp tích hợp
- Phương pháp Thực nghiệm.
2. PHẦN NỘI DUNG SÁNG KIẾN 
2.1. Cơ sở lý luận
Chương trình Ngữ văn THCS đã xác định rõ: khái niệm VBND không phải là một khái niệm chỉ thể loại hoặc chỉ kiểu văn bản, mà nói đến VBND là nói đến tính chất nội dung văn bản (đề cập tới chức năng, đề tài và tính cập nhật). Vì thế, những văn bản này có thể thuộc các thể loại khác nhau của văn học. Mục đích và lí do đưa một số VBND vào chương tŕnh giúp học sinh quan tâm đến sự cập nhật những vấn đề vừa quen thuộc, vừa gần gủi hàng ngày, và có ý nghĩa lâu dài trọng đại mà tất cả các dân tộc cùng quan tâm.
Yêu cầu đầu tiên của VBND là phải gắn chặt với thực tiễn mà thực tiễn thì luôn thay đổi trong khi một trong những yêu cầu lớn của nội dung giáo dục, của chương trình SGK là đảm bảo tính tương đối ổn định. Bởi vậy, các VBND được chọn trong SGK, tuy có tính cập nhật cao song đều là những văn bản "viết về những vấn đề xã hội có ý nghĩa lâu dài hơn là chỉ có tính chất nhất thời".
	Nội dung chủ yếu của các VBND ở lớp 8 tập trung vào các vấn đề sau:
- Vấn đề môi trường: Bài "Thông tin về ngày trái đất năm 2000"
- Vấn đề tệ nạn xã hội: Bài "Ôn dịch, thuốc lá"
- Vấn đề dân số và tương lai loài người: Bài "Bài toán dân số"
	Mặc dù chỉ có 3 tiết nhưng với sự góp mặt của các VBND trong chương trình SGK ngữ văn 8 là hết sức cần thiết. Bởi nó cung cấp cho học sinh những tri thức cập nhật, giáo giục cho các em ý thức, thái độ hành động mang tính công dân, rèn cho các em kĩ năng thực hành, thậm chí là các kĩ năng, thói quen sống tốt, có ích cho xã hội.
- Sáng kiến kinh nghiệm: Giảng dạy có hiệu quả các Văn bản nhật dụng trong Sách giáo khoa Ngữ văn 8, trước tiên xuất phát từ ý tưởng: làm thế nào để dạy – học văn thêm hứng thú? Làm thế nào để học sinh tiếp cận tác phẩm Văn bản nhật dụng một cách chủ động, hiệu quả? Làm thế nào để đến với các tác phẩm Văn bản nhật dụng một cách tự nhiên, gần gũi? Làm thế nào để học sinh có thể vận dụng mọi hiểu biết của mình để tìm hiểu Văn bản nhật dụng hiệu quả tốt nhất? Làm thế nào để học sinh không chỉ hiểu mà còn biết hành động và lan tỏa hiểu biết của mình tới những người xung quanh trong cộng đồng?
- Trên cơ sở mục tiêu đổi mới giáo dục nói chung, nâng cao chất lượng môn Ngữ Văn nói riêng và trên hết là dạy học theo hương tích cực. Học sinh được chủ động tiếp cận tác phẩm, chọn được phương pháp phù hợp để học tập với hiệu quả cao nhất mà không bị gò bó căng thẳng.
- Mặt khác dạy Văn bản nhật dụng tích hợp chủ đề, vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết một vấn đề cũng đang là phong trào của mỗi địa phương, trường học, giáo viên, học sinh cũng tích cực thực hiện.Bản thân tôi đã rất tâm đắc và tích cực tham gia cuộc thi vận dụng kiến thức liên môn vào bài dạy thực tế. Bởi vậy, đề tài của tôi cũng bám sát những mục tiêu và sự định hướng đó. Nó sẽ là một cái nhìn mới, một cách tiếp cận mới trong giảng dạy Ngữ Văn nói chung, phần Văn bản nhật dụng nói riêng.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
Xuất phát từ thực tiễn 15 năm giảng dạy môn Ngữ Văn; 04 năm trực tiếp giảng dạy Ngữ Văn 8. Do đó, bước đầu Tôi cảm nhận được: Muốn học sinh hứng thú với môn học, muốn có hiệu quả trong giảng dạy và học tập môn Ngữ Văn không thể không đổi mới phương pháp. Kiến thức ngày càng đa dạng, có xu hướng xích gần với đời sống và có tính liên môn. Đặc biệt là các môn khoa học xã hội có sự gắn kết chặt chẽ. Thậm chí một số môn học kiến thức còn chồng chéo lên nhau. Do đó, làm thế nào để học sinh không nhàm chán, làm thế nào để các em biết vận dụng kiến thức đã học, hiểu biết có sẵn để giải quyết tốt một vấn đề đang là câu chuyện đáng bàn ở mỗi trường học.
Có thể nói, việc giảng dạy các VBND sao cho có hiệu quả là một vấn đề gây không ít khó khăn đối với các giáo viên THCS hiện nay bởi lẽ các vấn đề mà các VBND trong chương trình đưa ra hầu hết đều có liên quan tích hợp với một môn học nào đó trong chương trình và dường như những môn học kia lại có thể góp phần giáo dục các vấn đó được tốt hơn cùng với môn Ngữ văn. Ví dụ: vấn đề bảo vệ môi trường được đề cập trong môn Giáo dục công dân và môn Sinh học; vấn đề dân số thì tích hợp được với môn Địa lí... 
Chính vì vậy, việc dạy học các VBND để gây sự hứng thú học tập với học sinh có thể dễ dàng thực hiện với một số giáo viên nhưng vẫn chưa thể nói là dễ dàng với bất kì một giáo viên nào - đặc biệt là những giáo viên trẻ mới ra trường hay những giáo viên đă quá quen với phương pháp dạy học cũ. Trong khi đó, đặc điểm, tính chất của các VBND là tính cập nhật cao. Từ thực tế đó dẫn đến một số tồn tại tất yếu của cả giáo viên và học sinh hiện nay như:
* Về phía giáo viên:
- Lúng túng trong khâu chuẩn bị và thực hiện chưa phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh.
- Khó khăn trong việc tạo không khí một giờ Ngữ văn cho học sinh. Thực tế vẫn có những giáo viên coi việc dạy những văn bản này như một hành động g̣ò ép, khô khan, thậm chí có người c̣òn nhận xét "như là dạy Giáo dục công dân". Điều đó chứng tỏ có một bộ phận giáo viên chưa nhận thức được đầy đủ và đúng đắn vai tṛò của loại văn bản này.
- Nhiều giáo viên chỉ đơn giản truyền thụ những tri thức có trong tài liệu giảng dạy và SGK mà không chú trọng đến việc liên hệ đời sống thực tiễn - một yêu cầu không thể thiếu đối với học sinh.
- Nhiều giáo viên không biết cách tổ chức một tiết học VBND có sự tích hợp với các phân môn khác và làm toát lên đặc điểm nội dung của các VBND là tính cập nhật, tính thực tiễn.
- Chưa tạo được niềm vui và sự đam mê cho các em học sinh trong từng tiết học của mình.Đôi khi giáo viên còn ngại thay đổi cách tư duy cách dạy.
* Về phía học sinh: 
- Học sinh sau khi học xong các VBND không hiểu VBND là gì vì vậy, nhiều em chỉ giơ tay phát biểu cho "có chuyện" chứ thực chất không hiểu mục đích của nó là gì và không biết học nó để làm gì.
- Hơn nữa, khi học xong các bài về VBND, nhiều học sinh chưa liên hệ được với thực tiễn ở xung quanh các em.
- Nhiều học sinh coi đó chỉ là các bài phụ và không dành thời gian thoả đáng cho loại bài này, thậm chí nhiều em học xong là thôi.
* Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên.
Hệ thống các VBND đă tạo nên bộ mặt mới cho chương trình giáo dục, bởi lẽ qua các văn bản này học sinh phần nào biết được những gì đang diễn ra trên thế giới và xung quanh mình đang được mọi người quan tâm. Tuy nhiên do nhận thức chưa đầy đủ của một bộ phận giáo viên và học sinh nên mặc dù đó là những vấn đề rất cấp thiết nhưng vẫn chưa được sự quan tâm đúng mức, thậm chí có người c̣òn cho rằng đó không phải là nhiệm vụ của môn Ngữ văn. Tìm hiểu thực trạng này tôi đă tiến hành điều tra tại khối lớp 8 của trường với 90 học sinh được chỉ định ngẫu nhiên. Kết quả như sau:
Câu hỏi 1: Em hiểu VBND là ǵì?
- Có 18 học sinh trả lời đúng về khái niệm VBND ( 20%)
Câu hỏi 2: Những vấn đề được VBND đề cập có vai trò như thế nào đối với đời sống?
- Có 12 học sinh trả lời được câu hỏi này (13%)
Câu hỏi 3: Em có thích học VBND không? 	Có c	Không c
- Học sinh trả lời trên phiếu trắc nghiệm, có 21 học sinh trả lời "có" (23%)
Mặc dù học sinh đã được học VBND từ lớp 6 nhưng với kết quả trên quả thật đáng lo ngại. Từ thực tế đó, tôi đã suy nghĩ, tìm hiểu nguyên nhân và tìm hướng giải quyết. Sau khi áp dụng nhiều biện pháp thực hiện khác nhau, tôi thấy một số biện pháp được trình bày sau đây là có hiệu quả thiết thực nhất, muốn được trao đổi thêm với các bạn đồng nghiệp của mình.
- Làm thế nào để dạy – học Ngữ văn thêm hứng thú? Làm thế nào để học sinh tiếp cận tác phẩm Văn bản nhật dụng một cách chủ động, hiệu quả? Làm thế nào để đến với các tác phẩm Văn bản nhật dụng một cách tự nhiên, gần gũi? Làm thế nào để học sinh có thể vận dụng mọi hiểu biết của mình để timh hiểu Văn bản nhật dụng hiệu quả tốt nhất? không còn là vấn đề đơn thuần nữa mà nó trở thành nhiệm vụ của mỗi ai đã, đang và sẽ là giáo viên dạy Ngữ Văn trong mỗi nhà trường THCS.
2.3. Các giải pháp để giảng dạy đạt hiệu quả tốt nhất các văn bản nhật dụng trong SGK Ngữ Văn 8:
	Để đảm bảo được hiệu quả mong muốn trong việc học loại VBND thì giáo viên phải có một phương pháp dạy phù hợp và học sinh phải có ý thức học tốt. Ở đây, tôi xin đưa ra 8 biện pháp cần thiết khi dạy các VBND trong chương trình SGK Ngữ văn 8.
2.3.1. Khai thác nội dung văn bản gắn với thực tiễn và tính cập nhật.
Bản thân nội dung văn bản đă mang tính thực tiễn, tính thời sự rất cao, nhưng bên cạnh nội dung đó thì giáo viên nên tổ chức liên hệ đến những vấn đề, những hiện tượng đời sống khác để tăng tính thời sự, cập nhật giúp các em có nhận thức sâu rộng, có điều kiện rèn luyện kĩ năng quan sát lựa chọn, phân tích, lí giải thực tiễn. Từ đó, các em sẽ hứng thú tự tìm hiểư thực tiễn ngay trong cuộc sống của các em.
Ví dụ 1: Dạy bài "Thông tin về ngày trái đất năm 2000" việc tổ chức tìm hiểu tác hại của bao bì ni lông đối với sức khoẻ con người và môi trường .Trái Đất là trọng tâm nhưng vẫn chưa đủ, giáo viên cần phải nêu vấn đề tạo tình huống để học sinh thảo luận, tìm hiểu trong thực tiễn gần gũi với các em, có thể nêu như sau:
Giáo viên: Kể ra những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường ở địa phương em ? (Trả lời có sự gợi mở của giáo viên ).
Học sinh: 
- Rác thải sinh hoạt vứt bừa bãi ( chai lọ, bao bì ni lông, các đồ nhựa hư hỏng, xác chết của động vật ).
- Các công trình vệ sinh tạm bợ thiếu kiên cố. 
- Chuồng trại chăn nuôi ở gần nơi sinh hoạt, gần nguồn nước.
- Nước đọng, bụi rậm, nơi tiềm ẩn những tác nhân gây bệnh nguy hiểm ( vi khuẩn, ruồi, muỗi ... ).
Giáo viên: Ở địa phương em, mọi người thường đi chợ mua thức ăn đựng vào túi ni lông, về nhà dùng xong rồi đem vứt bừa bãi ra đường làng, xuống ao, xuống sông... hoặc ra đồng phun thuốc sâu, thuốc trừ cỏ thì vứt luôn vỏ bao ngoài ruộng đồng .Em có suy nghĩ gì về hiện tượng này?
Học sinh: 
- Rác thải đó gây ô nhiễm nguồn nước và môi trường sống.
- Người dân chưa có ý thức bảo vệ môi trường.
Đồng thời, giáo viên có thể dẫn ra những ví dụ sinh động khác qua thông tin trên các phương tiện khác như:
- Ở Mỹ mỗi năm có tới 400.000 tấn Pôlietilen được chôn lấp sẽ chiếm rất nhiều đất canh tác.
- Ở Mê-hi-cô, cá ở các hồ nước chết nhiều là do rác thải, ni lông và nhựa mềm đổ xuống hồ nhiều.
- Ở một số vườn thú tại Ấn Độ, 90 con hươu đă chết do ăn phải đồ nhựa đựng thức ăn thừa của khách du lịch vứt bừa băi.
- Hàng năm có 100.000 chim, thú chết do nuốt phải bao bì ni lông.
Giáo viên: Liên hệ ở địa phương em hăy kể ra những tác hại do bao bì ni lông gây ra mà em biêt?
Học sinh: Nói rõ các tác hại do bao bì ni lông gây ra làm ô nhiễm môi trường, làm mất vẻ đẹp cảnh quan, xói mòn đất, tắc cống rãnh gây ngập lụt, dịch bệnh ...
Ví dụ 2: Dạy bài "Ôn dịch, thuốc lá" ngoài việc truyền những tri thức về tác hại của thuốc lá và ma tuý đều có đặc điểm chung là dễ nghiện, khó cai. Người có bản lĩnh không hút thuốc lá thì ma tuý củng không lôi kéo được. Như vậy, giáo dục được ý thức không hút thuốc lá củng chính là giáo dục tinh thần bài trừ ma tuý và các tệ nạn xã hội khác.
-Giáo viên có thể mạnh dạn đưa ra một cuộc điều tra nhỏ với các câu hỏi: Trong trường ta có học sinh hút thuốc không? Ở nhà các em có ai hút thuốc không? Để nắn được số liệu chính xác số liệu đối tượng mình cần tác động cụ thể và hiệu quả.
- Giáo viên có thể nêu cho học sinh tìm hiểu, thảo luận về những biện pháp hạn chế thuốc lá của Chính phủ ta (đánh thuế cao, bắt buộc trên bao bì thuốc lá phải in thông điệp "Hút thuốc lá có hại cho sức khoẻ", trên các công sở, nhà ga, bến tàu, nơi công cộng đều ghi ḍòng chữ "Không hút thuốc lá"). Phần này có thể tiến hành sau khi khai thác chiến dịch chống hút thuốc lá của các nước Châu Âu mà tác giả nêu lên trong phần kết của tác phẩm.
Ví dụ 3: Dạy bài "Bài toán dân số", giáo viên cần phải liên hệ với đời sống thực tế một cách cụ thể từ phạm vi gần gủi với các em đến phạm vi rộng.
Giáo viên: Hai gia đình có thu nhập và kinh tế như nhau nhưng một gia đình có 2 con và một gia đình có 4 con thì chất lượng bữa ăn và đời sống nói chung sẽ như thế nào?
Học sinh: Gia đình có 2 con sẽ có chất lượng bữa ăn và đời sống cao hơn, còn gia đình có 4 con sẽ thấp hơn vì phải đáp ứng nhu cầu ăn uống, ở, mặc, học hành . . . lớn hơn.
- Từ đó, giáo viên liên hệ đến các nước Châu Phi, Châu Á, các nước chậm phát triển, nghèo nàn lạc hậu do tỉ lệ sinh cao, gia tăng dân số mạnh để thấy được tương lai của các dân tộc và của nhân loại phụ thuộc vào việc hạn chế việc gia tăng dân số, đó là con đường "Tồn tại hay không tồn tại".
- Từ hiện thực đó, giáo viên có thể cho học sinh thảo luận để bác bỏ quan niệm "Trời sinh voi, trời sinh cỏ" nhằm giúp các em có quan điểm tiến bộ hơn.
2.3.2. Dạy học chú trọng những kỹ năng thực hành và liên hệ.
Dạy học thực hành là một trong những con đường ngắn nhất dẫn dắt học sinh tìm ra chân lí. Học sinh làm việc độc lập, chủ động sẽ giúp các em có điều kiện được bộc lộ mình và như vậy kiến thức mà các em thu được sẽ sâu sắc hơn, bền bỉ hơn.
Phần này, giáo viên có thể để học sinh thảo luận nhóm ở phần luyện tập củng cố hoặc thi hùng biện trước lớp giữa các nhóm.
Ví dụ 1: Dạy bài "Thông tin về ngày trái đất năm 2000" có thể cho học sinh thảo luận ở các vấn đề sau:
a. Những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường ở địa phương em.
b. Học xong bài này em sẽ làm gì với thói quen sử dụng bao bì ni lông của người thân và những bao bì ni lông nằm rải rác xung quanh khu vực em sống.
c. Hãy tưởng tượng em đang tham gia đội tuyên truyền viên bảo vệ môi trường ở địa phương em trong một buổi họp thôn bản, hãy thuyết phục mọi gia đình có cách sử dụng bao bì ni lông hợp lí.
d.Hãy phát động phong trào đi chợ bằng làn đến mẹ các em và báo cáo kết quả.
Ví dụ 2: Dạy bài "Ôn dịch, thuốc lá" có thể cho học sinh thực hành những vấn đề như: 
a. Hãy tiến hành một cuộc điều tra tình trạng hút thuốc lá ở nơi em sống và học tập, tìm hiểu nguyên nhân hút thuốc lá của họ và nêu suy nghĩ của em về hiện trạng này.
b. Em có một người bạn cũng hút thuốc lá, hãy thuyết phục bạn bỏ thuốc (Có thể cho 2 học sinh xây dựng một tiểu phẩm ngắn).
Học sinh được thảo luận những tình huống, những vấn đề như trên không những đã rèn luyện cho các em thực hành cơ bản (nghe, nói, đọc, viết) mà còn tạo cơ hội để các em được bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình được phân tích, lí giải thực hiện

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_giang_day_co_hieu_qua_cac_van_ban_nhat.doc