Vận dụng một số dạng câu hỏi theo các thang bậc tư duy của bloom trong dạy học Ngữ văn 8 - Trung học cơ sở

Vận dụng một số dạng câu hỏi theo các thang bậc tư duy của bloom trong dạy học Ngữ văn 8 - Trung học cơ sở

 “Cái đích của dạy học văn là qua mỗi giờ đọc - học tác phẩm góp phần hình thành ở học sinh những hành vi ứng xử giàu tính nhân văn trong cuộc sống hàng ngày và khả năng diễn đạt mạch lạc, thuyết phục ý tưởng của mình bằng ngôn ngữ nói và viết” ( trích dẫn bài viết của PGS.TS. Hoàng Thị Mai)- (tài liệu tham khảo số 11, trang 318) [11, tr318]. Nói như thế có nghĩa rằng, môn văn là một môn học quan trọng trong nhà trường phổ thông tới việc hình thành kĩ năng, thái độ, tình cảm của học sinh; và để đạt được mục tiêu đó thì công việc dạy văn, đổi mới phương pháp dạy học văn cần đi đúng quỹ đạo cần thiết.

 Trong bối cảnh đất nước và yêu cầu hội nhập quốc tế, phát triển chương trình giáo dục phổ thông và chương trình Ngữ văn trong bối cảnh mới, để có một phương pháp dạy học đúng đắn, khơi gợi niềm đam mê, hứng thú, yêu thích học môn văn từ học sinh, và để môn văn giữ đúng vai trò vị trí của nó trong mỗi người học, trong nhà trường phổ thông là vấn đề đáng quan tâm. Bởi nhiều năm trở lại đây, tình trạng học sinh chán học môn văn đã trở thành thực trạng đáng buồn. Gần đây, theo số liệu thống kê cho thấy số lượng học sinh đăng kí học và thi Ban Xã hội nhân văn ngày càng ít. Không những thế chất lượng ngày càng giảm. Môn Ngữ văn đang bị tuyệt đại đa số học sinh chối bỏ [4, tr273].

 

doc 21 trang thuychi01 38788
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Vận dụng một số dạng câu hỏi theo các thang bậc tư duy của bloom trong dạy học Ngữ văn 8 - Trung học cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT TRIỆU SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
VẬN DỤNG MỘT SỐ DẠNG CÂU HỎI
THEO CÁC THANG BẬC TƯ DUY CỦA BLOOM
TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN 8 - TRUNG HỌC CƠ SỞ
Người thực hiện: Lê Thị Hạnh
 Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Thị trấn Triệu Sơn
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ văn
THANH HOÁ NĂM 2018
MỤC LỤC
TT
Nội dung
Trang
1
Mở đầu
1
1.1
Lí do chọn đề tài
1
1.2
Mục đích nghiên cứu
1
1.3
Đối tượng nghiên cứu
2
1.4
Phương pháp nghiên cứu
	 2
2
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2
2.1
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2
2.2
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3
2.3
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
5
2.4
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
14
3
Kết luận, kiến nghị
15
3.1
Kết luận
15
3.2
Kiến nghị
 16
Tài liệu tham khảo
 18
1. Mở đầu
 1.1. Lí do chọn đề tài
 “Cái đích của dạy học văn là qua mỗi giờ đọc - học tác phẩm góp phần hình thành ở học sinh những hành vi ứng xử giàu tính nhân văn trong cuộc sống hàng ngày và khả năng diễn đạt mạch lạc, thuyết phục ý tưởng của mình bằng ngôn ngữ nói và viết” ( trích dẫn bài viết của PGS.TS. Hoàng Thị Mai)- (tài liệu tham khảo số 11, trang 318) [11, tr318]. Nói như thế có nghĩa rằng, môn văn là một môn học quan trọng trong nhà trường phổ thông tới việc hình thành kĩ năng, thái độ, tình cảm của học sinh; và để đạt được mục tiêu đó thì công việc dạy văn, đổi mới phương pháp dạy học văn cần đi đúng quỹ đạo cần thiết.
 Trong bối cảnh đất nước và yêu cầu hội nhập quốc tế, phát triển chương trình giáo dục phổ thông và chương trình Ngữ văn trong bối cảnh mới, để có một phương pháp dạy học đúng đắn, khơi gợi niềm đam mê, hứng thú, yêu thích học môn văn từ học sinh, và để môn văn giữ đúng vai trò vị trí của nó trong mỗi người học, trong nhà trường phổ thông là vấn đề đáng quan tâm. Bởi nhiều năm trở lại đây, tình trạng học sinh chán học môn văn đã trở thành thực trạng đáng buồn. Gần đây, theo số liệu thống kê cho thấy số lượng học sinh đăng kí học và thi Ban Xã hội nhân văn ngày càng ít. Không những thế chất lượng ngày càng giảm. Môn Ngữ văn đang bị tuyệt đại đa số học sinh chối bỏ [4, tr273].
 Theo tinh thần Nghị quyết 29-NQ/TW, BGDĐT- GDTrH ra công văn số 5555 về việc hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá qua các bước sau: xây dựng chuyên đề dạy học; biên soạn câu hỏi; thiết kế tiến trình dạy học; tổ chức dạy học và dự giờ; phân tích, rút kinh nghiệm bài dạy. Như vậy việc biên soạn câu hỏi là một trong những khâu quan trọng của quá trình dạy học để có những giờ dạy văn và học văn hiệu quả.
 Vấn đề đặt câu hỏi không đơn giản bởi đặt câu hỏi đã khó nhưng trả lời được câu hỏi còn khó hơn. Người hỏi phải hình dung ra những khả năng trả lời khác nhau và tự mình phải biết thế nào là đúng, sai, là đủ, là thiếu, là mới, là hay cho mình, cho người. Bởi vậy thiết nghĩ giáo viên cũng cần phải hiểu biết cơ bản về câu hỏi để có thể đặt câu hỏi cho hiệu quả trong giảng dạy bộ môn.
 Từ thực tế đó, đòi hỏi người dạy phải tìm hiểu nguyên nhân, tự nghiên cứu và tìm tòi ra một phương pháp dạy học tốt nhằm tạo hứng thú cho học sinh, học sinh tiếp thu bài hiệu quả. Trong phạm vi bài viết này, tôi xin được đề cập đến một khía cạnh nhỏ trong quá trình giảng dạy: “Vận dụng một số dạng câu hỏi theo các thang bậc tư duy của Bloom trong dạy học Ngữ văn 8- Trung học cơ sở” góp phần vào việc đổi mới phương pháp, kĩ năng dạy học tạo hứng thú cho học sinh sao cho giờ học có hiệu quả hơn.
 1.2. Mục đích nghiên cứu
 Trong dạy học, câu hỏi dùng để giao tiếp thầy – trò, trò – trò, câu hỏi dùng 
để đánh giá kết quả học tập, câu hỏi dùng để khai thác kiến thức, phát triển tư duy cho người học Đặt câu hỏi là một trong những kỹ năng hết sức hữu ích mà giáo viên cần phát triển. Ở một chừng mực nhất định, việc đặt câu hỏi là quá đơn giản bởi đó là việc mà tất cả chúng ta làm hàng ngày. Tuy nhiên, người đặt câu hỏi cũng phải có kỹ năng và hiểu biết thì mới có thể diễn đạt câu hỏi một cách rõ ràng, chính xác, tung ra câu hỏi đúng thời điểm để đem lại hiệu quả tối đa, và khai thác câu trả lời để đặt câu hỏi tiếp theo. 
 Sử dụng câu hỏi có hiệu quả đem lại sự hiểu biết lẫn nhau giữa học sinh với giáo viên. Kĩ năng đặt câu hỏi càng tốt thì mức độ tham gia của học sinh càng nhiều; học sinh sẽ học tập tích cực hơn.
 Để đánh giá đúng kết quả của một môn học, một quá trình dạy học, cần xây dựng càng chi tiết càng tốt các tiêu chí dùng cho đo lường, kiểm định. Tuy nhiên trong thực tế, vì lý do này lý do khác mà một số khâu trong quy trình dạy học chỉ được quan tâm một cách định tính, dẫn đến những bài giảng có mục tiêu chung chung, những bài thi với những yêu cầu na ná giống nhau không thể phân biệt; hệ lụy là cho dù kết quả đánh giá được rất thấp hoặc rất cao người ta vẫn không cảm thấy an tâm với nó.
 Bài viết này giới thiệu việc sử dụng thang đo cấp độ tư duy của Bloom trong dạy học môn Ngữ văn ở cấp trung học cơ sở dùng để khám phá ra giá trị nội dung, nghệ thuật trong tác phẩm và phát triển tư duy theo nhiều cấp độ cho học sinh; giúp có được cái nhìn định lượng và khách quan hơn đối với kết quả dạy học.
 1.3. Đối tượng nghiên cứu
 Học sinh lớp 8, trường Trung học cơ sở Thị trấn Triệu Sơn.
 1.4. Phương pháp nghiên cứu 
 Trực tiếp đọc tài liệu tham khảo, tham khảo ý kiến đồng nghiệp, khảo sát đối tượng học sinh qua trực tiếp giảng dạy. Từ đó áp dụng viết sáng kiến kinh nghiệm.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
 Thang đo BLOOM về các cấp độ tư duy được Benjamin Bloom, một giáo sư của trường Đại học Chicago đưa ra vào năm 1956. Trong đó Bloom có nêu ra sáu cấp độ nhận thức (gọi là thang đo Bloom). Thang đo này đã khẳng định ưu điểm của phương pháp dạy học nhằm khuyến khích và phát triển các kỹ năng tư duy của học sinh ở mức độ cao. Trong lĩnh vực giáo dục, thang cấp độ tư duy có thể được xem là một công cụ nền tảng để từ đó xây dựng và sắp xếp các mục tiêu giáo dục, xây dựng các chương trình, qui trình giáo dục và đào tạo, xây dựng và hệ thống hóa các câu hỏi, bài tập dùng để kiểm tra, đánh giá quá trình học tập. Thang cấp độ tư duy đầu tiên được xây dựng bởi Benjamin S.Bloom (1956), thường được gọi tắt là Thang Bloom hay Bảng phân loại Bloom (Bloom’s Taxonomy) bao gồm 6 cấp độ sau: 
1. Biết (Knowledge) 
2. Hiểu (Comprehension) 
3. Vận dụng (Application) 
4. Phân tích (Analysis) 
5. Tổng hợp (Synthesis) 
6. Đánh giá (Evaluation) 
 Nhận thấy thang trên chưa thật sự hoàn chỉnh, vào giữa thập niên 1990 Lorin Anderson, một học trò của Benjamin Bloom, đã cùng một số cộng sự đề xuất sự điều chỉnh như sau (Pohl, 2000): 
1. Nhớ (Remembering)
2. Hiểu (Understanding)
3. Vận dụng (Applying)
4. Phân tích (Analyzing)
5. Đánh giá (Evaluating)
6. Sáng tạo (Creating).
 Thang đo này đã được sử dụng trong hơn năm thập kỷ qua đã khẳng định ưu điểm của phương pháp dạy học nhằm khuyến khích và phát triển các kỹ năng tư duy của học sinh ở mức độ cao [3, tr16,18].
 Thực tiễn việc dạy và học văn trong nhà trường đã được nhiều thầy cô hết sức coi trọng và vận dụng rất tốt việc kĩ năng đặt câu hỏi tạo hứng thú cho học sinh trong quá trình giảng dạy. Đó là khâu quan trọng để học sinh có thể nhớ được bài văn này lâu, hiểu được bài văn kia kĩ, thích được học văn, và giúp người đọc cảm nhận được cái hay của tác phẩm văn chương. 
 Theo quan điểm nhìn nhận của cá nhân tôi, kĩ năng đặt câu hỏi theo các thang bậc tư duy của Bloom cần phù hợp theo văn bản, phù hợp theo đối tượng học sinh là điều rất quan trọng giáo viên cần lưu tâm để có một giờ dạy văn, học văn có chất lượng.
 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
 Môn Văn trong nhà trường từ xưa đến nay vẫn được xem là môn học chính bởi giá trị, ý nghĩa của nó trong chúng ta ai ai cũng biết. Vì vậy trong nhiều năm qua đã có rất nhiều giải pháp, biện pháp cải tiến được đưa ra từ các nhà khoa học và các thầy cô tâm huyết với nghề. Đáng kể nhất là công tác đổi mới nội dung, cải cách sách giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy văn, học văn theo xu hướng ngày càng tiến gần hơn và tiếp cận với những thuộc tính đặc trưng của bộ môn. Nhưng thực trạng môn Ngữ văn ở trường phổ thông ngày nay rất đáng lo ngại, đó là tình trạng học sinh thiếu mặn mà với môn Ngữ văn; tình trạng học sinh chán học văn, quay lưng lại với môn Văn ngày càng nhiều hơn. Nguyên nhân của tình trạng này cần được nhìn nhận từ nhiều nhân tố trong và ngoài nhà trường, kể cả tâm lí thời đại. 
 Có nhiều nguyên nhân khiến cho bộ môn văn trong chương trình Trung học cơ sở hiện nay vẫn chưa neo đậu vững chắc trong tâm hồn, tình cảm của học sinh như vị trí vốn có của nó. Nhưng tựu trung có thể chia thành hai nguyên nhân sau:
 Nguyên nhân khách quan: Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển nên học sinh chỉ muốn theo học các ngành khoa học tự nhiên, kinh tế ... do dễ chọn trường, dễ thi đỗ, dễ xin việc. Bởi vậy nên khi bước chân vào cấp Trung học cơ sở, phụ huynh đã định hướng cho con cháu mình chọn học các môn tự nhiên là chủ yếu dẫn đến tình trạng học lệch. Theo cuốn“Chương trình Ngữ văn trong nhà trường phổ thông Việt Nam”, tác giả Đỗ Ngọc Thống có thống kê như sau: Năm 2009, chỉ có 1,82% học sinh Trung học theo học ban Xã hội. Họ theo học ban này, chẳng qua vì không đủ theo học các ban khác, chứ không phải vì say mê văn học. Có rất nhiều học sinh học ban Khoa học tự nhiên rất giỏi văn. Như thế gần 100% học sinh chỉ cần học văn để đỗ tốt nghiệp mà thôi [4, tr 273].
 Về chương trình giáo dục, sách giáo khoa hiện hành của ta vẫn còn những bài có nội dung không còn phù hợp với các tiêu chí, chuẩn mực giáo dục lí tưởng của xã hội hiện thời; hoặc có những văn bản không phù hợp với khả năng tiếp thu của tâm lí lứa tuổi. Cùng với đó là nội dung chương trình sách giáo khoa Ngữ Văn còn nhiều bất cập: Có những tác phẩm văn chương chỉ học đoạn trích, hoặc bị lược bỏ đi một số đoạn, đưa một số đoạn đơn lẻ làm trọng tâm bài học nên khiến học sinh khó tiếp cận trong tính chỉnh thể; sự phân bố chương trình nhiều chỗ chưa hợp lí, có khi tác phẩm dễ hiểu thì học sau, tác phẩm khó hiểu thì học trước khiến cho học sinh khó tiếp cận giá trị của tác phẩm và sợ môn văn (như chương trình Văn 7, phần thơ Đường thật sự khó với học sinh lớp 7); phân phối chương trình đôi chỗ chưa hợp lí, chú trọng giảm tải về số bài số tiết nhưng lại dồn nén về mặt thời gian, khiến cho giờ học bị bó hẹp, giáo viên thường phải “vừa dạy vừa chạy”, nên thời gian dành cho việc trao đổi giữa giáo viên với học sinh, khuyến khích học sinh đặt câu hỏi còn hạn chế. Trong giờ văn, muốn hay không, học sinh cứ phải học, còn các thầy cô thích hay không thích vẫn phải dạy... Đó là một trong những lí do dẫn đến tâm lí “nản” môn văn.
 Nguyên nhân chủ quan: Châm ngôn có câu “Người khôn biết hỏi, người sành sỏi biết trả lời”. Trong dạy học, “cái khôn” của người giáo viên một phần được thể hiện trong nghệ thuật đặt câu hỏi. Câu hỏi trong dạy học như một cây cầu dẫn học sinh đến với thế giới tri thức một cách chủ động. Tuy nhiên, để có một hệ thống câu hỏi phong phú và cách hỏi thực sự hiệu quả giúp phát triển năng lực của học sinh thì không phải giáo viên nào cũng có được.
 Nhiều giáo viên chỉ áp dụng kỹ năng đặt câu hỏi theo hướng dạy học cũ. Cụ thể, phương pháp dạy học cũ chú trọng nội dung, chưa chú trọng phát triển năng lực học sinh. Về mục tiêu, câu hỏi theo phương pháp cũ hướng đến kiểm tra, đánh giá, củng cố nội dung kiến thức cơ bản. Học sinh không nhất thiết phải quan sát đánh giá, nội dung bài học. Về phương pháp đặt câu hỏi, phương pháp cũ chủ yếu tập trung vào người giáo viên hỏi, học sinh trả lời và tiếp thu một cách thụ động. Kỹ năng đặt câu hỏi còn dập khuôn, đơn điệu, gò bó, không mang lại hiệu quả rõ rệt và không kích thích sự sáng tạo của học sinh. Một số giáo viên còn đặt những câu hỏi mập mờ, khó xác định nội dung; đặt câu hỏi kép hoặc câu hỏi đa diện; hoặc có khi gọi tên người học trước khi đặt câu hỏi; “bóc lột” những học sinh giỏi và ít tạo cơ hội cho tất cả học sinh được hỏi và trả lời. Điều đó khiến học sinh dần ngại học văn và dẫn đến chán học văn.
 Về phía học sinh không hứng thú với giờ học văn vẫn là do các em không hiểu được tác phẩm, không cảm thụ được những gì môn văn thể hiện trong tác phẩm. Bởi không phải cứ phân tích, giải nghĩa được các từ ngữ trong văn bản theo kiểu mang máng là có thể nắm bắt được tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của nhà văn gửi gắm trong tác phẩm; không phải cứ phát hiện được những từ ngữ, hình ảnh, chi tiết hay, đắt giá là học sinh có thể hiểu được đúng nghĩa của nó...Vẫn có nhiều trường hợp học sinh phát hiện được nhưng không hiểu đúng nghĩa, không giải mã được lượng thông tin cần có trong đó. Điều đó dễ khiến các em chán nản và thấy việc học văn thật khó khăn, niềm hứng thú đối với môn học bị giảm sút. Vì yêu cầu bắt buộc phải học nên các em thường dựa theo sự phân tích sẵn có trong lời giảng của thầy cô hoặc trong các tài liệu tham khảo rồi gán cho những ý nghĩa lớn lao, nhiều khi xa lạ với nội dung, tư tưởng của tác phẩm – nhất là khi làm bài kiểm tra. 
 * Kết quả khảo sát về tinh thần, thái độ ý thức học tập trên lớp đối với bộ môn Ngữ văn ở lớp 8- Trường THCS Thị trấn Triệu Sơn năm học 2017 – 2018 trước khi thực hiện đề tài:
Lớp
Tập trung
Thiếu tập trung
Số lượng
Tỷ lệ
Số lượng
Tỷ lệ
8A
11/ 31
35,5 %
20/ 31
64,5%
8C
9 / 27
33,3 %
18/ 27
66,7 %
 * Kết quả khảo sát về kiểm tra đánh giá trước khi thực hiện đề tài ở 2 lớp 8A, 8C- Trường THCS Thị trấn Triệu Sơn mà tôi đang dạy như sau:
Lớp
Số HS
Giỏi
Khá
TB
Yếu
SL
TL(%)
SL
TL(%)
SL
TL(%)
SL
TL(%)
8A
31
5
26,1
14
45,2
12
38,7
0
0
8C
27
0
0
6
22,2
16
59,3
5
18,5
 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 
 2.3.1. Giáo viên hiểu được nội dung đặt câu hỏi theo 6 thang bậc tư duy của Bloom (Bloom’s Taxonomy)
Cấp độ
Đặc điểm
Các từ khóa dùng để đặt câu hỏi
Ví dụ
Nhớ
- Nhớ được các thông tin, sự kiện, nhân vật, chi tiết 
- Nhận ra được đề tài, các ý chính, nội dung chính của văn bản
- Từ khóa: Nhắc lại, tóm tắt, mô tả lại, hình dung lại, liệt kê, trình bày, chọn lựa, gọi tên, nhận diện, trích dẫn... 
- Ví dụ: Khi con tu hú (Tố Hữu)
 Thời gian mùa hè được gợi tả bằng những âm thanh nào ( liệt kê, mô tả)? 
(tiếng tu hú gọi bầy, tiếng ve ngân dậy vang khắp vườn).
Hiểu
- Hiểu được nội dung thông tin, hiểu được nghĩa đen của từ ngữ văn bản
-Hiểu nghĩa bóng, nghĩa trong ngữ cảnh mới
- Giải nghĩa được các yếu tố
- Tìm kiếm, tập hợp, lí giải, suy luận ra các nét nghĩa
- Đưa ra các dự đoán
- Từ khóa: Giải thích, tóm tắt, phân biệt, mở rộng, khái quát hóa, cho ví dụ, nhận định, so sánh, sắp xếp; có nghĩa là gì? Tại sao?...
- Ví dụ: Ông đồ (Vũ Đình Liên)
 Hình ảnh ông đồ gắn liền với thời điểm mỗi năm hoa đào nở. Điều này có ý nghĩa như thế nào (nhận định, giải thích)? 
( Hoa đào là tín hiệu của mùa xuân và Tết cổ truyền của dân tộc. Ông đồ có mặt giữa mùa đẹp vui, hạnh phúc của mọi người).
Vận dụng
- Sử dụng thông tin, nhân vật, sự kiện, chi tiết...đã biết vào một tình huống, điều kiện mới 
- Giải quyết vấn đề, sử dụng các kĩ năng hoặc kiến thức được yêu cầu
- Từ khóa: Chứng minh, giải thích, giải quyết, cắt nghĩa, liên hệ, ý kiến, quan điểm riêng, phân loại...
- Ví dụ: Quê hương (Tế Hanh)
 Với Tế Hanh, trong xa cách, ông nhớ hình ảnh đặc trưng cuộc sống, con người làng chài lưới. 
 Nếu em đã xa quê, trong tim em nhớ tới điều gì ở quê mình (liên hệ)?(HS tự bộc lộ)
 Nếu em có thể sáng tác được một bài thơ, em học tập được gì từ nghệ thuật thể hiện tình cảm quê hương từ bài Quê hương (vận dụng)?
(Tình cảm chân thành, thắm thiết trong xúc cảm; hình ảnh thơ chân thực, mới lạ, khỏe khắn để thể hiện nội tâm).
Phân tích
- Chia thông tin thành phần nhỏ (yếu tố, chi tiết, biểu tượng)
- Chỉ ra mối liên hệ giữa yếu tố, chi tiết trong cấu trúc
- Nhận ra nghĩa hàm ngôn 
-Từ khóa: Phân tích, lý giải, giải thích,chỉ rõ, so sánh, suy luận, phân biệt, minh họa, xây dựng mối liên hệ, hệ thống hóa...
- Ví dụ: Khi con tu hú (Tố Hữu)
 Mở đầu và kết thúc bài thơ đều có tiếng tu hú kêu, nhưng tâm trạng người tù khi nghe tiếng tu hú kêu thể hiện ở câu đầu và câu cuối rất khác nhau. 
 Hai tâm trạng đó khác nhau như thế nào? Vì sao? (phân tích, lý giải, so sánh, hệ thống hóa)
(+ Ở câu thơ đầu, tâm trạng người tù khi nghe tiếng tu hú kêu là tâm trạng hòa hợp với sự sống mùa hè, biểu hiện niềm say mê cuộc sống.
+ Ở câu thơ cuối, tiếng tu hú gợi cảm xúc khác hẳn: u uất, nôn nóng, khắc khoải- tâm trạng kẻ bị cưỡng đoạt tự do, bị tách rời cuộc sống.
+ Vì hai tâm trạng được khơi dậy từ hai không gian hoàn toàn khác nhau: tự do và mất tự do).
Đánh giá
- So sánh, phân biệt giữa các nhân vật, văn bản, ý kiến, quan điểm
- Đánh giá tính thuyết phục, giá trị của nhân vật, hành động, ý kiến, quan điểm
- Khẳng định, ủng hộ và đưa ra các lựa chọn dựa trên bằng chứng và các lập luận hợp lí
- Nhận ra và phê phán sự thành kiến, chủ quan.
- Từ khóa: Đánh giá, cho ý kiến, bình luận, tổng hợp, so sánh, quan điểm riêng...
- Ví dụ: Khi con tu hú (Tố Hữu)
 Trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt cũng có tiếng chim tu hú (Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà/ Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa). 
 Theo em, có điểm gì giống và khác nhau trong cảm nhận tiếng chim tu hú của hai nhà thơ Tố Hữu và Bằng Việt (đánh giá, so sánh) ?
(+ Giống nhau: Tiếng tu hú đều gợi không gian đồng quê gần gũi, thân thuộc. Đều là âm thanh được đón nhận bởi tình thương mến.
+ Khác nhau: Trong thơ Bằng Việt, tiếng chim tu hú gợi nhớ về những kỉ niệm thân thương của tình bà cháu nơi quê nhà. Còn trong thơ Tố Hữu, tiếng chim tu hú là âm thanh báo hiệu mùa hè sôi động được cảm nhận từ tâm hồn yêu sống, khát khao tự do của người chiến sĩ cách mạng trong cảnh ngộ tù đày). 
Sáng tạo
- Xác lập thông tin, sự 
vật mới trên cơ sở những thông tin, sự vật đã có 
- Đưa ra ý tưởng mới, cách tiếp cận mới
- Tưởng tượng ra mô hình mới, kết quả mới
- Phát hiện ra mối quan hệ mới
- Từ khóa: Tưởng tượng,viết lại, tạo mới, thiết kế, tổng hợp, xây dựng, viết tiếp, sáng tác, đề xuất...
- Ví dụ: Quê hương (Tế Hanh)
 Theo em có thể đặt cho bài thơ một cái tên khác được không (tạo mới, đề xuất)? 
 Nếu không, vì sao? 
 Nếu có, tên đó là gì? Vì sao?
(+ Có/ không.
-> Không, vì nội dung bài thơ diễn tả tình cảm quê hương của tác giả
-> Có, tên bài thơ có thể đặt là Làng tôi. Vì tên này cụ thể, sát thực hơn đối với nội dung của bài thơ).
 Khi người học đạt được cấp độ nhận thức Nhớ và Hiểu thì cũng đồng nghĩa với các mục tiêu kiến thức đã thỏa mãn. Để đạt được các mục tiêu về kỹ năng người học cần có được 2 cấp độ nhận thức cao hơn là Vận dụng và Phân tích. Cuối cùng, để đạt được các mục tiêu cao nhất là có được nhận thức mới, thái độ mới người học cũng cần có được các cấp độ nhận thức cao nhất là khả năng Đánh giá và khả năng Sáng tạo.
 Trong việc vận dụng các dạng câu hỏi, giáo viên chú ý áp dụng một cách linh hoạt để tạo hiệu quả cho giờ dạy và học. Tùy vào văn bản, đơn vị kiến thức, và theo đối tượng học sinh, giáo viên sử dụng, áp dụng các loại câu hỏi sao cho phù hợp để tạo cảm giác tự tin của học sinh vào bản thân các em, tạo niềm vui, sự hứng thú được giao tiếp trao đổi thông tin bài học, được góp sức của chính mình vào bài học.
 Như vậy để đánh giá kiểm tra được hiệu quả thì trước hết giáo viên cần xác định được mục tiêu bài học mà học sinh cần đạt đến và mức độ đánh giá nhận thức học sinh. Trên cơ sở đó mới xác định được cách đặt câu hỏi trong dạy -học cho phù hợp và đạt hiệu quả.
 2.3.2. Hướng dẫn học sinh phát triển năng lực trong một tiết học Ngữ văn 8 cụ thể theo các thang bậc tư duy của Bloom 
 Trước những đòi hỏi của môn học và thực tế của việc học Ngữ văn ở trường Trung học cơ sở, tôi luôn trăn trở làm thế nào để việc dạy học môn Ngữ văn có hiệu quả hơn, học sinh say mê, hứng thú với môn học hơn nữa. Vì vậy, tôi đã tiến hành thí điểm phương pháp dạy học mới, biên soạn câu hỏi theo các thang tư duy của Bloom vào thiết kế tiến trình dạy học chương trình 

Tài liệu đính kèm:

  • docvan_dung_mot_so_dang_cau_hoi_theo_cac_thang_bac_tu_duy_cua_b.doc