SKKN Biện pháp nâng cao hiệu quả viết bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9 qua kỹ năng tích hợp và so sánh

SKKN Biện pháp nâng cao hiệu quả viết bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9 qua kỹ năng tích hợp và so sánh

Cũng như những môn học khác, Ngữ văn là môn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người, góp phần vào sự hoàn thiện con người trong xã hội hiện đại. Là môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, Ngữ văn có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của nhà trường trung học cơ sở (THCS). Đây là môn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Từ đó, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông trong tình hình mới. Trong đó, bài nghị luận xã hội trong chương trình Ngữ văn là một trong những đơn vị kiến thức có ý nghĩa vô cùng quan trọng vừa đáp ứng được mục tiêu bộ môn vừa đáp ứng được những vấn đề thực tiễn cuộc sống đang đặt ra hôm nay. Bài nghị luận xã hội rèn luyện cho học sinh cách nhìn nhận, kiến giải, trình bày những ý kiến riêng về một vấn đề xã hội đáng quan tâm. Việc rèn luyện kiểu bài này không chỉ cần cho học sinh khi làm các bài kiểm tra, bài thi mà còn cần cho người học khi vào đời. Thực tế, trong cuộc sống, dù làm bất cứ công việc gì, ở bất kỳ lĩnh vực nào, mỗi người cũng có lúc phải trình bày ý kiến riêng của mình về một vấn đề xã hội. Tuy nhiên, kiểu bài nghị luận xã hội nhìn chung là khó đối với lứa tuổi các em học sinh THCS. Bởi vì, nếu khi làm bài nghị luận văn học, các em học sinh có thuận lợi là đã được trang bị kiến thức rất kĩ qua các giờ đọc - hiểu các văn bản văn học, chỉ sử dụng kỹ năng làm văn nghị luận văn học để tái hiện lại kiến thức ấy thông qua cảm quan của cá nhân. Còn khi làm bài nghị luận xã hội, các em gặp không ít khó khăn cả về nội dung lẫn phương pháp làm bài, đặc biệt là kỹ năng lựa chọn, xử lí kiến thức để đem lại hiệu quả cao cho bài văn.

doc 19 trang thuychi01 14772
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Biện pháp nâng cao hiệu quả viết bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9 qua kỹ năng tích hợp và so sánh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Mở đầu
	1.1. Lí do chọn đề tài.
	Cũng như những môn học khác, Ngữ văn là môn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người, góp phần vào sự hoàn thiện con người trong xã hội hiện đại. Là môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, Ngữ văn có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của nhà trường trung học cơ sở (THCS). Đây là môn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Từ đó, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông trong tình hình mới. Trong đó, bài nghị luận xã hội trong chương trình Ngữ văn là một trong những đơn vị kiến thức có ý nghĩa vô cùng quan trọng vừa đáp ứng được mục tiêu bộ môn vừa đáp ứng được những vấn đề thực tiễn cuộc sống đang đặt ra hôm nay. Bài nghị luận xã hội rèn luyện cho học sinh cách nhìn nhận, kiến giải, trình bày những ý kiến riêng về một vấn đề xã hội đáng quan tâm. Việc rèn luyện kiểu bài này không chỉ cần cho học sinh khi làm các bài kiểm tra, bài thi mà còn cần cho người học khi vào đời. Thực tế, trong cuộc sống, dù làm bất cứ công việc gì, ở bất kỳ lĩnh vực nào, mỗi người cũng có lúc phải trình bày ý kiến riêng của mình về một vấn đề xã hội. Tuy nhiên, kiểu bài nghị luận xã hội nhìn chung là khó đối với lứa tuổi các em học sinh THCS. Bởi vì, nếu khi làm bài nghị luận văn học, các em học sinh có thuận lợi là đã được trang bị kiến thức rất kĩ qua các giờ đọc - hiểu các văn bản văn học, chỉ sử dụng kỹ năng làm văn nghị luận văn học để tái hiện lại kiến thức ấy thông qua cảm quan của cá nhân. Còn khi làm bài nghị luận xã hội, các em gặp không ít khó khăn cả về nội dung lẫn phương pháp làm bài, đặc biệt là kỹ năng lựa chọn, xử lí kiến thức để đem lại hiệu quả cao cho bài văn.
	Thực tế trong những năm gần đây, trong các đề thi (cả thi học kì và thi vào THPT) môn Ngữ văn, bên cạnh yêu cầu tái hiện kiến thức về Tiếng Việt, về các văn bản văn học (nghị luận văn học), đề bài còn đưa ra yêu cầu bắt buộc thí sinh viết một văn bản nghị luận (giới hạn trong khoảng 30 dòng). Các đề bài phần nghị luận xã hội thường bàn về một vấn đề mang tính thời sự, có ý nghĩa và sự ảnh hưởng to lớn với con người và toàn xã hội như: an toàn giao thông, ô nhiễm môi trường, đức hi sinh, lòng dũng cảm ... Thang điểm dành cho phần này khá cao, chiếm 3/10 điểm của toàn bài thi. 
Qua thực tế giảng dạy và trao đổi với các đồng nghiệp trong các kỳ sinh hoạt chuyên môn, tôi nhận thấy một thực tế: số học sinh làm tốt và đạt điểm tối đa (3,0 điểm) cho kiểu bài này không nhiều, hoặc nếu có "làm được" thì chất lượng bài làm không cao, dẫn đến điểm của toàn bài cũng không cao, ảnh hưởng đến kết quả chung. Trong khi đó, tài liệu tham khảo hướng dẫn học sinh kỹ năng làm nghị luận cũng chưa phải là nhiều. Các tài liệu nghiên cứu về nghị luận xã hội chủ yếu bàn về cách gây hứng thú cho học sinh khi học văn nghị luận, cách lập dàn ý, cách viết các dạng bài nghị luận xã hội, cách viết các phần theo cấu trúc bài văn ... Nhìn chung, đó thực sự là những tài liệu vô cùng bổ ích cho học sinh và là kênh tham khảo quý báu cho người dạy. Đồng thời, khi trực tiếp giảng dạy chương trình Ngữ văn 9, tôi nhận thấy, kỹ năng tích hợp và so sánh trong xử lí, lựa chọn kiến thức kiểu bài nghị luận xã hội rất có hiệu quả. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: Biện pháp nâng cao hiệu quả viết bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9 qua kỹ năng tích hợp và so sánh. Qua hai kỹ năng cơ bản này tôi mong muốn các em không còn thấy e ngại, lúng túng khi làm kiểu bài nghị luận xã hội. Và qua đề tài, người dạy cũng xin được góp phần thiết thực vào việc giáo dục và hoàn thiện nhân cách cho học sinh, giúp các em tự tin bước vào đời thông qua những kỹ năng xử lí những vấn đề nghị luận xã hội rất thiết thực. 
	1.2. Mục đích nghiên cứu.
	Với đề tài: Biện pháp nâng cao hiệu quả viết bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9 qua kỹ năng tích hợp và so sánh, tôi mong muốn nâng cao chất lượng viết bài văn nghị luận xã hội cũng như tạo được niềm yêu thích của các em học sinh với bộ môn Ngữ văn. Hơn thế, tôi cũng mong được chia sẻ những kinh nghiệm cá nhân với các đồng nghiệp để góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng bộ môn Ngữ văn đáp ứng mục tiêu giáo dục mà cả xã hội đang kỳ vọng.
	1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài Biện pháp nâng cao hiệu quả viết bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9 qua kỹ năng tích hợp và so sánh, tôi sẽ tập trung nghiên cứu cách khai thác, sử dụng kỹ năng tích hợp và so sánh có hiệu quả cho học sinh lớp 9 khi làm kiểu bài nghị luận xã hội. 
	1.4. Phương pháp nghiên cứu.
	Đề tài Biện pháp nâng cao hiệu quả viết bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9 qua kỹ năng tích hợp và so sánh, tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: 
	- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết về tích hợp và so sánh; 
	- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế giáo viên và học sinh về tình hình tiếp cận, sử dụng kỹ năng tích hợp và so sánh để thu thập thông tin;
	- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
	2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
	Trong chương trình ngữ văn ở cấp Trung học cơ sở, học sinh đã học về thể văn nghị luận ở các lớp 7,8,9. Ở lớp 7, các em được học kiến thức khái quát chung về văn nghị luận và chú trọng hai phép lập luận chứng minh và giải thích. Lớp 8, học sinh được học tiếp về văn nghị luận ở nội dung cách viết bài văn nghị luận có sử dụng yếu tố biểu cảm, tự sự và miêu tả. Lên lớp 9, học sinh tiếp tục được học về văn nghị luận trên cơ sở có sự kế thừa và nâng cao kiến thức so với các lớp dưới. Bên cạnh việc cung cấp cho các em phép lập luận phân tích và tổng hợp trong văn nghị luận, học sinh lớp 9 được học cụ thể, riêng biệt các kiểu bài nghị luận là nghị luận văn chương và nghị luận xã hội. Như vậy, lên lớp 9, học sinh mới được học nghị luận xã hội một cách bài bản, cụ thể.
	Văn nghị luận là văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, quan điểm nào đó [10]. Về kiến thức nghị luận xã hội, Sách Ngữ văn 9 cung cấp hai khái niệm về kiểu bài này là nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống và nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí. Nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống xã hội là bàn bạc về một sự việc, hiện tượng có có ý nghĩa đối với xã hội. Sự việc, hiện tượng đó có thể là đáng khen, đáng chê hay có vấn đề cần suy nghĩ; còn nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống, ... của con người [12]. Như vậy, văn nghị luận xã hội là kiểu bài nghị luận về một hiện tượng đời sống hoặc một tư tưởng, đạo lí; bao gồm những vấn đề thuộc mọi quan hệ, mọi hoạt động của con người trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, giáo dục, môi trường, dân số .v.v. Nghị luận xã hội có thể đề cập tới rất nhiều mặt của đời sống xã hội. Từ những vấn đề có tầm nhân loại như: chiến tranh và hòa bình, tình trạng ô nhiễm môi trường ... đến những vấn đề tư tưởng, đạo đức phẩm chất con người như lòng tự trọng, đức tính khiêm tốn, thói vô cảm .v.v. hay những vấn đề xã hội cụ thể gắn kết trực tiếp với các bạn học sinh như học sinh tham gia giao thông, học sinh nghiện game, nghiện facebook .v.v. Tóm lại, mọi vấn đề liên quan tới đời sống con người và xã hội đều có thể trở thành một đề tài của kiểu bài nghị luận xã hội. 
	Từ đó, ta thấy bài nghị luận xã hội là kiểu bài có tính chất tổng hợp cao, đòi hỏi người viết phải sử dụng nhiều thao tác nghị luận. Một mặt, bài nghị luận xã hội coi trọng việc giải thích để làm sáng tỏ nội dung cụ thể của những sự việc, hiện tượng, vấn đề  được đề cập đến; mặt khác, nó đòi hỏi phải phân tích những phương diện, những khía cạnh cụ thể của các hiện tượng hoặc vấn đề xã hội đang được đưa ra bàn bạc. Bài nghị luận xã hội cũng yêu cầu những nhận định, đánh giá phải có căn cứ xác đáng; những ý kiến, nhận xét cần phải được chứng minh một cách cụ thể, thuyết phục.
	Trong nhà trường, bài nghị luận xã hội đòi hỏi học sinh phải có hiểu biết cụ thể, trình bày rõ ràng, thuyết phục một vấn đề xã hội đem ra bàn luận; qua đó phải nêu được suy nghĩ, bày tỏ thái độ, nhận xét, đánh giá của riêng mình về vấn đề bàn luận. Học sinh phải biết vận dụng những kiến thức từ trong thực tế đời sống hay lấy trong sử sách để luận giải các vấn đề xã hội; đồng thời, người viết phải chú ý cách sử dụng ngôn ngữ sắc bén, chính xác, gợi cảm, có khả năng khơi gợi, tác động được tư tưởng và tình cảm xã hội của người đọc.
	Từ những yêu cầu chung đó, ta thấy rằng để làm được điều này học sinh không chỉ tuân thủ những cách làm theo hướng dẫn của bài học trong sách giáo khoa mà cần phải biết cả cách tích hợp và so sánh vấn đề nghị luận xã hội.
	Tích hợp là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực. Trong những năm gần đây, quan điểm dạy học tích hợp đã trở thành xu thế trong việc xác định nội dung dạy học trong các nhà trường. Tích hợp là sự kết hợp những hoạt động, chương trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối chức năng, thành sự thống nhất, sự hòa hợp, sự kết hợp. Trong hoạt động giáo dục tích hợp là hành động liên kết các đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau trong cùng một kế hoạch dạy học [2]. 
Như vậy, rõ ràng tư tưởng tích hợp bắt nguồn từ cơ sở khoa học và đời sống. Trong dạy học, nếu ta vận dụng linh hoạt việc tích hợp sẽ giúp học sinh học tập thông minh và vận dụng sáng tạo kiến thức, kỹ năng đã được học tập, rèn luyện để đem lại hiệu quả học tập ngày càng chất lượng hơn. Bởi vậy, có thể nói đưa tư tưởng hướng dẫn học sinh sử dụng kỹ năng tích hợp vào làm bài nghị luận xã hội là vô cùng cần thiết.
	Bên cánh đó, để vấn đề nghị luận được làm sáng rõ, giúp người đọc, người nghe thông suốt, tin tưởng thì cần phải có sự đối chiếu, so sánh với các vấn đề khác. Chính vì vậy, kỹ năng so sánh cũng góp phần không nhỏ đem lại hiệu quả cho bài văn nghị luận tăng thêm sức thuyết phục, hấp dẫn người đọc (người nghe).
	So sánh là một thao tác tư duy. Trong quá trình nhận thức thế giới khách quan, kĩ năng so sánh bao giờ cũng giúp phát hiện cái mới, cái khác biệt. Đối với học sinh Trung học cơ sở (THCS) các em được học khái niệm so sánh ở phạm vi là một phép tu từ từ vựng ở phần kiến thức Tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn 6, tập 2: “So sánh là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật, sự việc khác có nét tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt” [9]. Khái niệm so sánh này chủ yếu giúp các em tư duy về việc phát hiện ra phép so sánh có trong tác phẩm văn học. Trên thực tế khi làm văn nghị luận xã hội, so sánh còn được dùng như một phép lập luận có ý nghĩa bộc lộ rõ nét vấn đề nghị luận đang được đặt ra. Đối với việc nghị luận một vấn đề xã hội, so sánh thường hướng vào mục đích chính là để chỉ ra những biểu hiện giữa các sự việc, hiện tượng, vấn đề xã hội đang được đặt ra có điểm tương đồng nào đó hoặc có sự đối lập tương phản nhau. Từ đó, học sinh phát hiện, đưa ra những ý kiến, nhận xét, đánh giá, có nhận thức về một vấn đề xã hội sẽ trở nên sâu sắc hơn, vững vàng hơn, toàn diện hơn. So sánh còn là cơ sở để thực hiện thao tác tư duy có mức độ cao hơn như sự tổng hợp, hệ thống hoá các vấn đề, là cơ sở, là nền móng cho những bàn luận, kiến giải đưa ra cho bài văn có tính ứng dụng, thiết thực cao, có ý nghĩa với mỗi người và đời sống xã hội chung. 
	Tuy nhiên, trong thực tế chương trình Ngữ văn THCS, việc hướng dẫn học sinh cách vận dụng kỹ năng tích hợp, kỹ năng so sánh một cách cụ thể, bài bản để các em hiểu và vận dụng thành thạo trong quá trình khai thác là chưa có một bài dạy riêng mà chỉ là vận dụng thực hành qua các câu hỏi nhỏ lẻ ở một số bài khai thác các ngữ liệu mẫu. Vì vậy, từ cơ sở về lí luận và thực tiễn dạy học tôi đã lựa chọn đề tài Biện pháp nâng cao hiệu quả viết bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9 qua kỹ năng tích hợp và so sánh.
	2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
	Với học sinh lớp 9 bậc THCS, nghị luận xã hội là một kiểu bài có vai trò ý nghĩa vô cùng quan trọng với các em. Bởi vì, qua các bài nghị luận xã hội các em không phải lệ thuộc nhiều vào sách vở nên phần lớn sẽ phát huy được năng lực tư duy, óc sáng tạo, sự hiểu biết về xã hội của học sinh. Từ đó, tạo tiền đề cho các em sẽ học ở bậc cao hơn; đồng thời giúp người học phát triển và hoàn thiện về mặt nhân cách, giúp các em biết yêu cái hay cái đẹp, ghét cái xấu, biết cách ăn nói, giao tiếp ... Chính vì vậy, trong chương trình Ngữ văn THCS, văn nghị luận xã hội đã được lựa chọn để xây dựng xuyên suốt từ cuối vòng 1 (lớp 7) và toàn bộ vòng 2 (lớp 8,9). Tuy nhiên, kiểu bài nghị luận xã hội mà học sinh được học bài bản, có tính phân loại thì đến chương trình học kỳ hai lớp 9 mới được đề cập là nghị luận xã hội về một sự việc, hiện tượng trong đời sống và nghị luận xã hội về một vấn đề tư tưởng, đạo lí. Cụ thể:
	- Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
	- Cách làm bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
	- Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí.
	- Cách làm bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí [12].
	Ngoài ra, chương trình còn được bổ trợ thêm qua phần đọc - hiểu một số văn bản dạng nghị luận xã hội. Không chỉ có ý nghĩa thực tiễn mà đây còn là dạng bài gần như bắt buộc trong đề thi cuối học kỳ, đề thi vào THPT hiện nay. Thực tế, trong đề thi khảo sát chất lượng học kì và vào THPT thường đưa ra yêu cầu về bài văn nghị luận xã hội dưới dạng một bài viết (khoảng từ 20 đến 30 dòng) bàn về một vấn đề mang tính thời sự cấp thiết của đời sống xã hội. 
	Như vậy, vai trò, vị trí, tầm quan trọng của nghị luận xã hội là rất lớn nhưng thời lượng cho kiểu bài này chưa tương xứng. Nhìn chung, chương trình Ngữ văn THCS chỉ mang tính giới thiệu và thực hành nghị luận xã hội ở mức độ đơn giản, chưa tập trung vào việc khắc sâu tri thức và rèn luyện kỹ năng làm bài cho học sinh. Ví dụ như trong chương trình lớp 9, thời lượng dành cho nghị luận xã hội là 6 tiết/175 tiết toàn chương trình (trong đó 2 tiết là cung cấp lý thuyết, 2 tiết hướng dẫn cách làm của hai kiểu bài, 2 tiết là làm bài kiểm tra). Bởi vậy, cách rèn kỹ năng làm bài cho HS theo một cách thức linh hoạt, dễ hiểu, gần gũi là điều vô cùng quan trọng. Bên cạnh đó, kết quả làm bài kiểm tra của học sinh lại cho thấy cần có sự bổ sung, định hướng để giúp các em vừa nhận thức được vai trò quan trọng của nghị luận xã hội vừa biết vận dụng thành thạo mọi tri thức có thể để viết bài văn nghị luận đạt yêu cầu. Lỗi của các em ngoài lí do là không biết cách làm bài theo trình tự hợp lí, không xác định được cần phải viết gì, viết như thế nào còn nguyên do nữa là vốn sống hạn chế. Nói đúng hơn, các em còn lúng túng khi lựa chọn và trình bày các sự việc, hiện tượng hay tư tưởng nào để phù hợp và có giá trị thuyết phục ý kiến của mình trước vấn đề nghị luận mà đề bài đặt ra. Từ đó, dẫn đến tình trạng chung là bài làm có kết cấu rời rạc, thiếu tính hệ thống, lập luận lỏng lẻo không có tính logic, lý lẽ kém tính thuyết phục. Vậy nên, vấn đề đặt ra cần giải quyết đối với các em học sinh lớp 9 là giúp các em củng cố lý thuyết, thực hành rèn kỹ năng làm văn nghị luận xã hội để đạt kết quả cao trong học và thi Ngữ văn. Và một trong những kỹ năng đó là tích hợp và so sánh. Nhưng trên thực tế cách hiểu biết và vận dụng kỹ năng tích hợp, kỹ năng so sánh vào làm bài văn nghị luận xã hội cả ở người dạy và người học chưa thực sự được chú trọng. Tôi đã tiến hành làm phiếu điều tra về việc hiểu biết và vận dụng hai kỹ năng này ở học sinh (khối 7, 8, 9) và giáo viên tổ chuyên môn của đơn vị tôi đang trực tiếp giảng dạy thì thu nhận được kết quả như sau:
Đối với giáo viên: Số giáo viên được hỏi: 5 đồng chí.
	- Hiểu được vai trò của kỹ năng tích hợp, kỹ năng so sánh và hướng dẫn 
học sinh vận dụng trong văn nghị luận là 5/5 (tỉ lệ 100%).
	- Hướng dẫn học sinh vận dụng kỹ năng tích hợp và so sánh trong nghị luận văn chương ở mức độ nhiều là 5/5 (tỉ lệ 100%), mức độ ít là 0 (tỉ lệ 0%); trong nghị luận xã hội ở mức độ nhiều là 2/5 (tỉ lệ 40%), mức độ ít là 3/5 (tỉ lệ 60%)
	- Hướng dẫn học sinh vận dụng kỹ năng tích hợp và so sánh trong nghị luận xã hội có tính bài bản, hệ thống là 0/5 (0%)
Đối với học sinh : Số học sinh được hỏi: 119 em.
	- Đã sử dụng kỹ năng tích hợp và so sánh trong bài viết văn nghị luận xã hội là 119 /119 (tỉ lệ 100%). Chưa sử dụng kỹ năng so sánh trong cảm thụ tác phẩm văn học là 0/119 (tỉ lệ 0%).
	- Hiểu được vai trò của kỹ năng tích hợp và so sánh trong bài viết văn nghị luận xã hội là 29/119 (tỉ lệ 24.4%). Chưa hiểu được vai trò của kỹ năng tích hợp và so sánh trong bài viết văn nghị luận xã hội là 90/119 (tỉ lệ 75.6%).
	- Kết quả bài tập về bài văn nghị luận xã hội đạt trên trung bình là 45/119 (tỉ lệ 37.8%); dưới trung bình là 74/119 (tỉ lệ 68.7%).
	Như vậy, kết quả bài kiểm tra của các em khi làm bài nghị luận xã hội còn chưa đạt yêu cầu. Kết hợp điều tra và thực tế trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy rèn kỹ năng tích hợp và so sánh cho học sinh khi làm bài nghị luận nói chung và nghị luận xã hội thật sự rất cần thiết và quan trọng. Tuy nhiên, thực tế việc hướng dẫn học sinh hai kỹ năng này còn mang tính chủ quan tìm kiếm, mày mò từ kinh nghiệm cá nhân nên một số giáo viên còn e ngại và chưa rèn học sinh vận dụng kỹ năng này nhiều.
Về phía học sinh ở bậc THCS nói chung và học sinh khối 9 nói riêng khả năng sử dụng kỹ năng tích hợp và so sánh chưa tốt. Phần lớn các em chỉ cảm nhận bằng cảm tính vai trò của những kỹ năng này và vận dụng nó còn tùy tiện mà chưa có bài bản, khoa học. Hơn nữa kiểu bài nghị luận xã hội đòi hỏi học sinh phải có cái nhìn bao quát, vừa tư duy những kiến thức từ sách vở, lời dạy của thầy - cô, vừa phải có vốn kiến thức đời sống xã hội chưa kể đến việc xử lí các vấn đề nghị luận xã hội đôi lúc có phần vượt tầm nhận thức của các em. Trên thực tế, trong xu thế xã hội và tình hình học Ngữ văn hiện nay, học sinh chưa thực sự ham học chịu khó tìm tòi, góp nhặt, tích lũy để xâu chuỗi thành hệ thống kiến thức mà còn bị các thú tiêu khiển hấp dẫn từ đời sống mạng ảo lôi kéo ... Vì vậy, tôi chọn đề tài Biện pháp nâng cao hiệu quả viết bài văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9 qua kỹ năng tích hợp và so sánh để nghiên cứu, tìm tòi cách dạy hữu hiệu và có tính khả thi với mong muốn cải tiến phương pháp dạy học theo hướng tích cực, đưa lại hiệu quả cao trong dạy và học Ngữ văn. Từ đó, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trọng tâm mà toàn ngành đã đề ra trong suốt thời gian qua: nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, hướng dẫn học sinh học tập tích cực,
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
	2.3.1. Kỹ năng tích hợp.
	Trên tinh thần Nghị quyết số 29 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
lần thứ 8, khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”, đội ngũ giáo viên đã không ngừng đổi mới phương pháp dạy học sẵn sàng đáp ứng mục tiêu đổi mới. Trong đó, tăng cường năng lực dạy học theo hướng “tích hợp” là một trong những vấn đề cần ưu tiên. Dạy học theo hướng “tích hợp” là cách định hướng phát triển năng lực cho học sinh, giúp các em biết tổng hợp kiến thức, kỹ năng ở nhiều môn học để giải quyết các nhiệm vụ học tập và hình thành năng lực giải quyết các tình huống thực tiễn. 
	Với dạng bài nghị luận xã hội, yêu cầu cần đạt là các em phải nêu vấn đề, giải quyết vấn đề và kết thúc vấn đề một cách rõ ràng, mạch lạc và giàu tính thuyết phục. Để đáp ứng yêu cầu đó thì việc trình bày các luận cứ làm sáng rõ cho luận điểm trong bài làm là vô cùng quan trọng. Đó là cách dùng lí lẽ, cách nêu dẫn chứng sao cho thuyết phục người đọc, người nghe. Để có cách trình bày sinh động lí lẽ và dẫn chứng, người dạy có thể hướng dẫn học sinh cách tích hợp các kiến thức bộ môn đã học để làm sáng tỏ vấn đề trên các phương diện như:
2.3.1.1 Tích hợp liên môn trong chương trình học phổ thông có các nội dung tương đồng, gần gũi để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận xã hội. 
Nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống, .... của con người. Với học sinh THCS những khái niệm về vấn đề tư tưởng, đạo lí vừa gần gũi nhưng cũng hết sức trìu tượng với c

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_bien_phap_nang_cao_hieu_qua_viet_bai_van_nghi_luan_xa_h.doc