SKKN Một số kinh nghiệm sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn lớp 9 nhằm nâng cao chất lượng dạy và học

SKKN Một số kinh nghiệm sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn lớp 9 nhằm nâng cao chất lượng dạy và học

Vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đang là mối quan tâm lớn của ngành giáo dục, của những người làm công tác giáo dục và của toàn xã hội. Theo đó, nhiệm vụ nâng cao chất lượng các môn học, trong đó có bộ môn Ngữ văn, đang đặt ra các thách thức cho các thầy giáo, cô giáo. Đặc biệt trong hoàn cảnh, giai đoạn hiện nay, không ít học sinh, phụ huynh quan tâm ít đi, say mê ít đi ( Chứ không muốn nói là là không còn yêu thích) môn Ngữ văn.

Các nhà trường, các thầy cô giáo, trong đó có các thầy cô giảng dạy bộ môn Ngữ văn hiện nay đang có nhiều trăn trở tìm ra các giải pháp nhằm làm tốt hơn nữa nhiệm vụ nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn.

Từ thực trạng trên, Nghị quyết Trung ương 2, khóa VIII khẳng định “Phải đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương tiện tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh.”. Đáp ứng yêu cầu này, từ năm học 2010 – 2011, nhiều trường THCS trong và ngoài tỉnh đã áp dụng thí điểm phần mềm chuyên dụng iMindMap kết hợp với phần mềm Power Point trong việc dạy học môn ngữ văn mà nhiều người vẫn quen gọi là bản đồ tư duy (BĐTD).

Qua nghiên cứu và thực nghiệm giảng dạy cho thấy một số GV còn gặp khó khăn trong việc tổ chức hoạt động dạy học trên lớp với việc thiết kế và sử dụng BĐTD. Hơn nữa, hiện nay chưa có các tài liệu nghiên cứu nào bàn sâu về vấn đề này nên bản thân tôi, đồng nghiệp, nhà trường chưa có kinh nghiệm nhiều trong việc soạn giáo án, sử dụng BĐTD trong giảng dạy bô môn. Chính vì vậy, tôi mạnh dạn xin được trình bày một số kinh nghiệm của bản thân trong công tác giảng dạy với đề tài: “ Một số kinh nghiệm sử dụng s¬ đồ tư duy trong dạy học môn Ngữ văn THCS nhằm nâng cao chất lượng dạy học”. Qua đây muốn được trao đổi với các bạn đồng nghiệp để cùng nhau làm tốt hơn nhiệm vụ dạy học của mình.

 

doc 23 trang thuychi01 44757
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn lớp 9 nhằm nâng cao chất lượng dạy và học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẢNG XƯƠNG
TRƯỜNG THCS QUẢNG ĐỊNH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ KINH NGHIỆM SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN LỚP 9 NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC
	 Người thực hiện: Tô Thị Hợp
 Chức vụ: Giáo viên
 Đơn vị công tác: THCS Quảng Định
 SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn
THANH HÓA, NĂM 2016
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đang là mối quan tâm lớn của ngành giáo dục, của những người làm công tác giáo dục và của toàn xã hội. Theo đó, nhiệm vụ nâng cao chất lượng các môn học, trong đó có bộ môn Ngữ văn, đang đặt ra các thách thức cho các thầy giáo, cô giáo. Đặc biệt trong hoàn cảnh, giai đoạn hiện nay, không ít học sinh, phụ huynh quan tâm ít đi, say mê ít đi ( Chứ không muốn nói là là không còn yêu thích) môn Ngữ văn.
Các nhà trường, các thầy cô giáo, trong đó có các thầy cô giảng dạy bộ môn Ngữ văn hiện nay đang có nhiều trăn trở tìm ra các giải pháp nhằm làm tốt hơn nữa nhiệm vụ nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn.
Từ thực trạng trên, Nghị quyết Trung ương 2, khóa VIII khẳng định “Phải đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương tiện tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh...”. Đáp ứng yêu cầu này, từ năm học 2010 – 2011, nhiều trường THCS trong và ngoài tỉnh đã áp dụng thí điểm phần mềm chuyên dụng iMindMap kết hợp với phần mềm Power Point trong việc dạy học môn ngữ văn mà nhiều người vẫn quen gọi là bản đồ tư duy (BĐTD). 
Qua nghiên cứu và thực nghiệm giảng dạy cho thấy một số GV còn gặp khó khăn trong việc tổ chức hoạt động dạy học trên lớp với việc thiết kế và sử dụng BĐTD. Hơn nữa, hiện nay chưa có các tài liệu nghiên cứu nào bàn sâu về vấn đề này nên bản thân tôi, đồng nghiệp, nhà trường chưa có kinh nghiệm nhiều trong việc soạn giáo án, sử dụng BĐTD trong giảng dạy bô môn. Chính vì vậy, tôi mạnh dạn xin được trình bày một số kinh nghiệm của bản thân trong công tác giảng dạy với đề tài: “ Một số kinh nghiệm sử dụng s¬ đồ tư duy trong dạy học môn Ngữ văn THCS nhằm nâng cao chất lượng dạy học”. Qua đây muốn được trao đổi với các bạn đồng nghiệp để cùng nhau làm tốt hơn nhiệm vụ dạy học của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Bộ môn Ngữ văn trong nhà trường ngoài những chức năng, nhiệm vụ như các môn học khác: cung cấp kiến thức, kỹ năngcho học sinh. Bộ môn Ngữ văn còn có chức năng riêng bồi dưỡng các giá trị thẫm mĩ cho học sinh. Hướng các em biết yêu “cái đẹp” và sống “đẹp” hơn. Nhưng thực tế, trong những năm gần đây nhiều học sinh rất ngại học các bộ môn KHXH, trong đó có môn Ngữ văn. Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp, tôi rất trăn trở về vấn đề này . Tôi luôn tìm tòi đổi mới phương pháp, phương tiện dạy học nhằm khơi gợi niềm say mê, chủ động, sáng tạo học tập của các em. Trong đó tôi đã sử dụng BĐTD trong quá trình giảng dạy bộ môn.
Sử dụng bản đồ tư duy trong đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn là một trong những giải pháp hữu hiệu nhằm giúp giáo viên đổi mới phương pháp giảng dạy, có nhiều ý tưởng sáng tạo hơn trong việc thiết kế bài giảng, đồng thời giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ và phát huy tối đa khả năng sáng tạo trong quá trình học. BĐTD là công cụ hữu ích trong giảng dạy và học tập ở các trường THCS và bậc học cao hơn vì chúng giúp giáo viên và học sinh trình bày các ý tưởng, tóm tắt, hệ thống hóa kiến thức của một bài học, một chủ đề, một chương hay một cuốn sách một cách rõ ràng, mạch lạc, lôgíc và đặc biệt là dễ dàng phát triển thêm các ý tưởng mới vào bài giảng cũng như bài học.BĐTD giúp học sinh học được phương pháp học tập chủ động, tích cực. Thực tế ở trường phổ thông cho thấy, một số học sinh có xu hướng không thích học môn Ngữ văn hoặc ngại học môn Ngữ văn do đặc trưng môn học thường phải ghi chép nhiều, khó nhớ. Một số em học tập chăm chỉ nhưng thành tích họch tập chưa cao. Các em thường học bài nào biết bài nấy, học phần sau không biết liên hệ với phần trước, không biết hệ thồng kiến thức, liên kết kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước vào bài học sau. Do đó, việc sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học, sẽ giúp học sinh học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
Tóm lại, việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong quá trình dạy học sẽ giúp HS:
1. Tăng sự hứng thú trong học tập.
2. Phát huy khả năng sáng tạo, năng lực tư duy của các em.
3. Tiết kiệm thời gian rất nhiều.
4. Nhìn thấy được bức tranh tổng thể.
5. Ghi nhớ tốt hơn.
6. Thể hiện phong cách cá nhân, dấu ấn riêng của mỗi em.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Soạn giảng bộ môn Ngữ văn lớp 6, lớp 9 theo sơ đồ tư duy và chuẩn KTKN.
- Hướng dẫn học sinh ghi chép, he thống bài học theo BĐTD.
4. Phương pháp nghiên cứu
	- Phương pháp xây dựng cơ sở lý thuyết
	- Phương pháp khảo sát thực tế, thu thập thông tin
	- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận 
Bản đồ tư duy (BĐTD) còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy, là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức, bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể “thể hiện” nó dưới dạng BĐTD theo một cách riêng, do đó việc lập BĐTD phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người.
BĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh). Có thể vận dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương, mỗi học kì... và giúp cán bộ quản lí giáo dục lập kế hoạch công tác.
Bản đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Kỹ thuật tạo ra loại bản đồ này được phát triển bởi Tony Buzan vào những năm 1960. Bản đồ tư duy có cấu tạo như một cái cây có nhiều nhánh lớn, nhỏ mọc xung quanh. “Cái cây” ở giữa bản đồ là một ý tưởng chính hay hình ảnh trung tâm. Nối với nó là các nhánh lớn thể hiện các vấn đề liên quan với ý tưởng chính. Các nhánh lớn sẽ được phân thành nhiều nhánh nhỏ, rồi nhánh nhỏ hơn, nhánh nhỏ hơn nữa nhằm thể hiện chủ đề ở mức độ sâu hơn. Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục và các kiến thức, hình ảnh luôn được nối kết với nhau. Sự liên kết này tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả ý tưởng trung tâm một cách đầy đủ và rõ ràng.
Với bộ môn Ngữ văn THCS gồm 3 phân môn: Văn học, Tiếng Việt và Làm văn. Có chung mục đích là giáo dục thẩm mĩ và rèn luyện cho HS các KN nghe, nói, đọc viết, nhưng có vị trí độc lập tương đối và PPDH đặc thù.
Văn học có mục đích: giúp HS biết cách đọc để hiểu cho được giá trị của mỗi văn bản thể hiện qua cái hay, cái đẹp trong nội dung và hình thức thể hiện của văn bản đó. Cái hay, cái đẹp trong nội dung và hình thức thể hiện của văn bản là cái duy nhất không lặp lại, biểu hiện tối đa nhất chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Tiếng Việt: Hình thành ở HS năng lực sử dụng thành thạo tiếng Việt với bốn kĩ năng cơ bản là: nghe, nói, đọc, viết.
- Giúp cho HS có những hiểu biết về ngôn ngữ Tiếng Việt, có ý thức sử dụng và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. 
- Dạy Tiếng Việt thông qua:
	+ Từ: nghĩa, từ loại, các phép tu từ, cấu tạo, chức năng, 
	+ Câu: Các loại câu, dấu câu, các thành phần của câu, cách sử dụng và liên kết các câu, 
	+ Đoạn văn: nhận thức về cách viết một đoạn văn, liên kết câu và liên kết đoạn văn
Làm văn: giúp HS nhận biết các loại văn bản, đặc điểm, chức năng cách thức tạo lập văn bản theo từng loại thể. 
- Phân môn Làm văn Ở THCS:
 + Văn nghệ thuật (miêu tả, tự sự, biểu cảm) 
 + Văn nghị luận (Nghị luận chính trị, xã hội - Nghị luận về sự việc, hiện tượng trong đời sống; nghị luận về tư tưởng đạo lí; ngghị luận văn học)
- Phân môn Làm văn chủ yếu mang tính thực hành, HS phải vận dụng những kiến thức văn học, tiếng Việt và kiến thức đời sống xã hội để tạo lập các loại văn bản dưới hình thức nói hoặc viết.
2.2. Thực trạng
2.2.1. Thuận lợi
Năm học 2012- 2013, trong các đợt tập huấn chuyên đề, giáo viên đã được làm quen với phương pháp sử dụng BĐTD trong dạy học. Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, các trường học trên địa bàn huyện Quảng Xương đã lắp đặt, kết nối mạng Intener đây chính là điều kiện thuận lợi giúp giáo viên trong việc khai thác tài nguyên mạng vào công tác giảng dạy của mình. 
Một số phần mềm sơ đồ tư duy được phổ biến rộng rãi nên đã hỗ trợ cho giáo viên và học sinh khi trình bày sơ đồ tư duy trên máy chiếu
2.2.2. Khã kh¨n
Một số giáo viên còn lúng túng khi sử dụng các phần mền để vẽ BĐTD.
Dạy học bằng bản đồ tư duy là phương pháp dạy học mới, học sinh chưa quen với cách học bằng sơ đồ tư duy, còn nhiều lúng túng khi thiết lập một bản đồ tư duy.
Học sinh vẫn chưa thật sự chủ động, tích cực trong tư duy
Kết quả khảo sát đầu năm
Thêi gian
Líp
Sè HS
Kết quả
0- 2,75
3,0 – 4,75
5- 6,75
7- 8,75
9 - 10
TB trë lªn
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
§Çu n¨m
9A
28
1
3,5
3
10,7
17
60,8
7
25,0
0
24
85,7
9B
28
1
3,5
2
7,0
18
64,6
6
21,4
1
3,5
25
89,3
3. Giải pháp thực hiện đề tài
3.1. Sơ đồ tư duy - khái niệm, cấu tạo, các bước thiết kế, quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp và những tiện ích 
	 Để sử dụng một cách có hiệu quả SĐTD trong quá trình dạy học, trước hết, ta cần nắm vững những tri thức về nó:
Khái niệm: sơ đồ tư duy hay còn gọi là Lược đồ tư duy, Bản đồ tư duy (Mind Map) là PPDH chú trọng đến cơ chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,...bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt, đây là một dạng sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, các em có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi em có thể vẽ một kiểu khác nhau, dùng những màu sắc, hình ảnh, chữ viết và các cụm từ diễn đạt khác nhau,... Tuy cùng một chủ đề nhưng mỗi em có thể “thể hiện” nó dưới dạng Sơ đồ tư duy theo cách riêng của mình. Do đó, việc lập Sơ đồ tư duy phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người.
Cấu tạo:
Ở giữa sơ đồ là một hình ảnh trung tâm (hay một cụm từ) khái quát chủ đề.
Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính làm rõ chủ đề.
Phát triển các nhánh cấp 1 là các nhánh cấp 2 mang các ý phụ làm rõ mỗi ý chính.
Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trung tâm thì ý càng cụ thể, chi tiết. Có thể nói, SĐTD là một bức tranh tổng thể, một mạng lưới tổ chức, liên kết khá chặt chẽ theo cấp độ để thể hiện một nội dung, một đơn vị kiến thức nào đó.
3.2. Các bước thiết kế một SĐTD
	Để thiết kế một SĐTD dù vẽ thủ công trên bảng, trên giấy..., hay trên phần mềm Mind Map, chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây:	
Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề (có thể vẽ hình ảnh minh họa cho chủ đề - nếu hình dung được) 
Bước 2: Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề) chúng ta cần xác định: để làm rõ chủ đề, thì ta đưa ra những ý chính nào. Sau đó, ta phân chia ra những ý chính, đặt tiêu đề các nhánh chính, nối chúng với trung tâm. 
Bước 3: Ở mỗi ý chính, ta lại xác định cần đưa ra những ý nhỏ nào để làm rõ mỗi ý chính ấy. Sau đó, nối chúng vào mỗi nhánh chính. Cứ thế ta triển khai thành mạng lưới liên kết chặt chẽ. 
Bước 4: Cuối cùng, ta dùng hình ảnh (vẽ hoặc chèn) để minh họa cho các ý, tạo tác động trực quan, dễ nhớ.
Lưu ý: 
Nên chọn hướng giấy ngang để khổ giấy rộng, thuận lợi cho việc vẽ các nhánh con.
Nên dùng các nét vẽ cong, mềm mại thay vì vẽ các đường thẳng để thu hút sự chú ý của mắt, như vậy SĐTD sẽ lôi cuốn, hấp dẫn hơn.
Các nhánh càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn, dày hơn.
Chú ý dùng màu sắc, đường nét hợp lý để vừa làm rõ các ý trong sơ đồ đồng thời tạo sự cân đối, hài hòa cho sơ đồ.
Không ghi quá dài dòng, hoặc ghi những ý rời rạc, không cần thiết, nên dùng các từ, cụm từ một cách ngắn gọn.
Không dùng quá nhiều hình ảnh, nên chọn lọc những hình ảnh thật cần thiết góp phần làm rõ các ý, chủ đề.
Có thể đánh số thứ tự ở các ý chính cùng cấp.
Không đầu tư quá nhiều thời gian vào việc “làm đẹp” sơ đồ bằng vẽ, viết, tô màu...
Không vẽ quá chi tiết, cũng không vẽ quá sơ sài.
Người lập sơ đồ được phép vẽ và trang trí theo cách riêng của mình. 
3.3. Quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp
	Hoạt động 1: Cho học sinh lập SĐTD theo nhóm hay cá nhân thông qua gợi ý của giáo viên. 
	Hoạt động 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập. 
	Hoạt động 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh SĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
	Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một SĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó. 
3.4. Cách sử dụng SĐTD trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học
3.41. Làm quen với SĐTD
Đối với giáo viên:
Ngoài việc tham dự các lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ có liên quan đến việc đổi mới PPDH, giáo viên cần nghiên cứu kĩ những tài liệu liên quan đến việc hướng dẫn sử dụng SĐTD và phần mềm vẽ SĐTD Mind Map để có những tri thức cơ bản về nó (Hiểu biết về SĐTD, cấu tạo, vai trò, tiện ích, phương pháp tạo lập, thiết kế, việc sử dụng nó trong quá trình dạy học...); đồng thời, giáo viên cần đầu tư thời gian vào việc tập vẽ, cả vẽ trên giấy và trên phần mềm trong máy vi tính (Nhớ là phải nghiên cứu kĩ cách sử dụng phần mềm để thực hiện thao tác cho nhanh nhẹn, thuần thục). Sau khi đã hiểu kĩ, nắm chắc về vai trò, công dụng của SĐTD, sử dụng thành thạo phần mềm, nắm vững phương pháp vẽ một SĐTD, thì việc ứng dụng nó vào quá trình dạy học là việc dễ dàng. (Dĩ nhiên chuyện SĐTD đẹp hay xấu phụ thuộc vào sự tưởng tượng, liên tưởng, óc sáng tạo và năng khiếu mỗi người).
Đối với học sinh
Cần dành thời gian hợp lý cho các em “làm quen” với SĐTD, theo cách sau đây:
	Để tiết kiệm thời gian, lại khỏi phải làm cái công việc giới thiệu, hướng dẫn cách vẽ SĐTD trở đi, trở lại hết lớp này đến lớp khác, giáo viên nên tham mưu cho Ban Giám hiệu trường, hoặc Chuyên môn trường, chọn thời gian thuận lợi ngay từ đầu năm học tổ chức một buổi ngoại khóa “Làm quen với Sơ đồ tư duy” (Tùy theo tình hình cụ thể của từng đơn vị trường mà có thể tổ chức theo khối lớp giáo viên trực tiếp dạy, khối học sáng - chiều hoặc toàn trường) để giới thiệu, cho các em làm quen và hướng dẫn cách vẽ SĐTD cho các em.(Lưu ý rằng đây cũng là một bước tạo không khí sôi nổi, lôi cuốn các em tiếp cận với một phương pháp, kĩ thuật dạy học mới). Để buổi ngoại khóa thành công, giáo viên cần chuẩn bị tốt các nội dung sau:
	+ Về phía học sinh, giáo viên cần nhắc nhở các em mang theo đầy đủ các dụng cụ: giấy vở, bìa lịch cũ, bìa cứng, bút chì, hộp màu, tẩy,...
	+ Về phía giáo viên, cần chuẩn bị trước: phòng máy, máy chiếu, bảng phụ, phấn màu, ... và một số SĐTD đã vẽ sẵn trên trên máy, trên giấy vở, trên bìa lịch, trên bảng phụ... Sau đó, chúng ta bắt đầu tiến hành tổ chức nội dung theo các bước sau:
Bước 1: “Làm quen”
Giáo viên giới thiệu một số SĐTD vẽ sẵn cho học sinh làm quen (Nên chọn vẽ SĐTD ở những bài đã học trong chương trình cho các em vừa tiện theo dõi, tiếp thu tri thức về SĐTD, đồng thời vừa thuận lợi trong việc hệ thống hóa kiến thức, học sinh sẽ nhanh tiếp thu hơn vì các em đã học). Giáo viên giới thiệu cấu trúc SĐTD theo mạch kiến thức của bài học cho học sinh nắm, rồi hướng dẫn cách vẽ một SĐTD (Cung cấp cho các em phương pháp vẽ SĐTD). 
Bước 2: “Đọc hiểu”
Giáo viên chọn những SĐTD có kết cấu đơn giản cho học sinh quan sát. Sau đó, cho các em dựa vào SĐTD để thuyết trình nội dung bài học (kiến thức) được vẽ trong sơ đồ. (Luyện cho các em tư duy lô-gic, tư duy hệ thống và kĩ năng thuyết trình )
Bước 3: “Tập vẽ”
Giáo viên đưa ra chủ đề bằng từ khóa (hoặc hình ảnh) ở trung tâm màn hình (hoặc trên bảng đen). Ví dụ: Phương châm hội thoại, Từ (Xét về cấu tạo)... Cho học sinh thực hành vẽ SĐTD trên giấy hoặc bìa lịch hay bảng phụ.
Giáo viên đặt các câu hỏi gợi ý để các em suy nghĩ và vẽ các nhánh cấp 1, cấp 2, cấp 3... (Luyện kĩ năng vẽ SĐTD)
	Lưu ý: 
	+ Giáo viên nên chọn những bài các em đã học, có kiến thức đơn giản, dễ nhớ, dễ vẽ.
	+ Giáo viên có thể linh hoạt cho học sinh vẽ theo nhóm vào bìa lịch, vẽ cá nhân vào giấy vở hoặc gọi 2-3 em lên bảng vẽ.
	+ Lưu ý các em không dùng câu, đoạn quá dài, nên thể hiện các ý bằng những cụm từ ngắn gọn.
Bước 4: “Trang trí”
Sau khi các em vẽ xong sườn của SĐTD, giáo viên gợi ý cho các em vẽ chèn thêm những hình ảnh cần thiết để minh họa cho nội dung của sơ đồ, gợi ý cho các em chỉnh sửa đường nét, sử dụng màu sắc để phân biệt, làm nổi bật mạng lưới các ý trong sơ đồ.(Kĩ năng hội họa - dấu ấn sáng tạo riêng)
	Lưu ý: 
	+ Giáo viên lưu ý học sinh khi vẽ SĐTD, các em nên kết hợp dùng màu sắc, đường nét, ... ngay trong quá trình vẽ để tiết kiệm thời gian.
	+ Không nên dùng quá nhiều màu, không dùng những màu sắc quá sặc sỡ, không quá chú trọng vào đường nét, hình ảnh làm lãng phí thời gian.
Bước 5: “Chia sẻ kinh nghiệm”
Ở bước này, giáo viên thu một số SĐTD các em vừa vẽ theo từng loại (Sơ đồ không triển khai đủ các ý chính, sơ đồ vẽ quá chi tiết đến vụn vặt, sơ đồ vẽ không đúng trọng tâm kiến thức, sơ đồ dùng quá nhiều hình ảnh, màu sắc lòe loẹt,... )
Cho học sinh quan sát, nhận xét, góp ý chỉnh sửa, bổ sung.
Giáo viên lắng nghe, định hướng cho các em chỉnh sửa, bổ sung:
	+ Như trên đã trình bày, SĐTD là một sơ đồ mở. Vì vậy, giáo viên cần tôn trọng và phát huy sự sáng tạo của các em, bởi đây là “sản phẩm” của chính các em. Giáo viên chỉ chỉnh sửa cho các em chủ yếu về mặt kiến thức. Mặt khác, giáo viên cũng cần khuyến khích, biểu dương những SĐTD vẽ đảm bảo đầy đủ kiến thức trọng tâm, đẹp, có cách trình bày khoa học, cân đối, hài hòa về đường nét, màu sắc.
	+ Giáo viên nhắc nhở thêm các em cần hình thành thói quen tốt: nên lập SĐTD trong quá trình chuẩn bị bài mới ở nhà và lập lại sau khi học xong bài trên lớp để có điều kiện đối chiếu xem mình đã làm được những gì? Những gì mình còn sai sót cần bổ sung, sửa chữa. Nếu làm được như vậy, chẳng những giúp các em nắm vững kiến thức mà còn rèn luyện cho các em phát triển năng lực tư duy (Tư duy lô-gic, tư duy hệ thống...) rất tốt. 
	+ Nhắc các em sau mỗi bài học nên lưu các SĐTD lại để sau này tiện việc ôn tập, hệ thống kiến thức.
	Tóm lại, nếu giáo viên chuẩn bị thật kĩ lưỡng các bước trên cho các em, tôi nghĩ rằng chắc chắn các em sẽ học tốt, làm tốt những yêu cầu giáo viên đặt ra trong quá trình dạy học, kiểm tra, đánh giá có ứng dụng SĐTD.
3.4.2. Các hình thức sử dụng SĐTD trong quá trình dạy học
Sử dụng SĐTD trong việc kiểm tra bài cũ
	Giáo viên đưa ra một từ khóa (hay một hình ảnh trung tâm) thể hiện chủ đề của kiến thức cũ mà các em đã học, cần kiểm tra, yêu cầu các em vẽ SĐTD thông qua câu hỏi gợi ý. Trên cơ sở từ khóa (hoặc hình ảnh trung tâm) ấy kết hợp với câu hỏi định hướng của giáo viên, học sinh sẽ nhớ lại kiến thức và định hình được cách vẽ SĐTD theo yêu cầu.
	Ví dụ 1: 
	Sau khi các em học xong bài “So sánh”(Ngữ văn 6) trước khi tìm hiểu bài nhân hoá, giáo viên kiểm tra bài cũ bằng cách cho các em lập SĐTD để củng cố, hệ thống kiến thức đã học ở bài “So sánh” thông qua câu hỏi sau: So sánh là gì? Tác dụng?Sơ đồ phép so sánh? Các kiểu so sánh? Sau đó, giáo viên ghi cụm từ khóa lên giữa bảng phụ “So sánh”, rồi gọi một em lên bảng vẽ. Học sinh sẽ dễ dàng vẽ được SĐTD theo nội dung yêu cầu. 
	Dưới đây là SĐTD về biện pháp tu từ so sánh có tính chất minh họa, các em vẽ SĐTD đảm bảo các nội dung tương tự như sau là tốt:
K

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_su_dung_so_do_tu_duy_trong_day_hoc_n.doc