SKKN Một số kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ ở trường mầm non
Thế kỷ XXI là thế kỷ của nền văn minh tri thức, là tâm bão của các ứng dụng khoa học công nghệ và sự phát triển xã hội. Để bắt nhịp cùng với sự thay đổi lớn về mọi mặt, xã hội cần có những con người thông thái, năng động, không ngừng bồi đắp những thiếu hụt về tri thức và nhân cách. Một xã hội văn minh cùng với trình độ khoa học phát triển vượt bậc và sự bùng nổ về công nghệ thông tin luôn đòi hỏi con người vận động nhiều hơn nữa để hoàn thiện bản thân mình. Vì vậy, giáo dục luôn được quan tâm và là quốc sách hàng đầu; giáo dục mầm non là nền tảng vững chắc đặt nền móng cho sự hình thành nhân cách và phát triển toàn diện chuẩn bị những kỹ năng cơ bản để trẻ bước vào các cấp học cao hơn.[1]. Bác Hồ đã dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó”
Ngôn ngữ có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em. Ngôn ngữ là phương tiện giữ gìn bảo tồn, truyền đạt và phát triển những kinh nghiệm lịch sử và phát triển xã hội của loài người. Trẻ em sinh ra đầu tiên là những cơ thể sinh học, nhờ có ngôn ngữ là phương tiện giao lưu bằng hoạt động tích cực của mình dưới sự giáo dục và dạy học của người lớn trẻ em dần chiếm lĩnh được những kinh nghiệm lịch sử- xã hội của loài người và biến nó thành cái riêng của mình. Trẻ em lĩnh hội ngôn ngữ sẽ trở thành những chủ thể có ý thức, lĩnh hội kinh nghiệm của loài người xây dựng xã hội ngày càng phát triển hơn.[5]
1. Phần mở đầu. 1.1. Lý do chọn đề tài. Thế kỷ XXI là thế kỷ của nền văn minh tri thức, là tâm bão của các ứng dụng khoa học công nghệ và sự phát triển xã hội. Để bắt nhịp cùng với sự thay đổi lớn về mọi mặt, xã hội cần có những con người thông thái, năng động, không ngừng bồi đắp những thiếu hụt về tri thức và nhân cách. Một xã hội văn minh cùng với trình độ khoa học phát triển vượt bậc và sự bùng nổ về công nghệ thông tin luôn đòi hỏi con người vận động nhiều hơn nữa để hoàn thiện bản thân mình. Vì vậy, giáo dục luôn được quan tâm và là quốc sách hàng đầu; giáo dục mầm non là nền tảng vững chắc đặt nền móng cho sự hình thành nhân cách và phát triển toàn diện chuẩn bị những kỹ năng cơ bản để trẻ bước vào các cấp học cao hơn.[1]. Bác Hồ đã dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó” Ngôn ngữ có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em. Ngôn ngữ là phương tiện giữ gìn bảo tồn, truyền đạt và phát triển những kinh nghiệm lịch sử và phát triển xã hội của loài người. Trẻ em sinh ra đầu tiên là những cơ thể sinh học, nhờ có ngôn ngữ là phương tiện giao lưu bằng hoạt động tích cực của mình dưới sự giáo dục và dạy học của người lớn trẻ em dần chiếm lĩnh được những kinh nghiệm lịch sử- xã hội của loài người và biến nó thành cái riêng của mình. Trẻ em lĩnh hội ngôn ngữ sẽ trở thành những chủ thể có ý thức, lĩnh hội kinh nghiệm của loài người xây dựng xã hội ngày càng phát triển hơn.[5] Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tư duy, là công cụ hoạt động trí tuệ và là phương tiện để giáo dục tình cảm, thẩm mỹ cho trẻ. Như vậy ngôn ngữ có vai trò to lớn đối với xã hội và đối với con người. Vấn đề phát triển ngôn ngữ một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng.[5] Là một cô giáo Mầm Non trực tiếp dạy trẻ nhà trẻ, tôi luôn có những suy nghĩ trăn trở làm sao để dạy các con phát âm chuẩn, chính xác đúng Tiếng Việt. Vì thế tôi đã dạy các con thông qua các môn học khác nhau và dạy các con ở mọi lúc mọi nơi qua các hoạt động hàng ngày, từ đó trẻ khám phá hiểu biết về mọi sự vật hiện tượng, về thế giới xung quanh trẻ, phát triển tư duy. Tôi thấy mình cần phải đi sâu tìm hiểu kỹ vấn đề này để từ đó rút ra nhiệm vụ giáo dục cho phù hợp với yêu cầu phát triển của lứa tuổi. Chính vì vậy nên tôi đã chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ ở trường mầm non” nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ đối với chương trình GDMN mới hiện nay 1.2. Mục đích nghiên cứu của SKKN. Nghiên cứu đề tài nhằm tìm ra một số biện pháp tốt nhất để gây hứng thú khi cho trẻ 24 – 36 tháng phát triển ngôn ngữ được tốt 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu là “Một số kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ cho tuổi nhà trẻ.” Phạm vi nghiên cứu: 15 cháu tại lớp măng non do tôi phụ trách. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. Để thực thi đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu ( Phân tích, tổng hợp tài liệu, tạp chí giáo dục mầm non, internet, sách báo có liên quan. - Phương pháp điều tra giáo dục. - Phương pháp quan sát sư phạm. - Phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp. - Phương pháp thực hành, thực nghiệm sư phạm. - Phương pháp sử dụng công nghệ thông tin. - Phương pháp kiểm tra, đánh giá. Việc thực hiện các biện pháp giúp trẻ nhà trẻ phát triển ngôn ngữ tốt đòi hỏi giáo viên phải nhạy bén, linh hoạt, không trùng lặp, không gây quá tải, tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa phương, nguyên liệu phế thải để chế biến thành những dụng cụ dạy và học đơn giản nhưng mang tính khoa học và sáng tạo để trẻ thực hành và trải nghiệm một cách thoải mái không gượng ép. Đồng thời kết hợp cùng phụ huynh tham gia các phong trào xây dựng môi trường học tập gần gũi, thoải mái cho trẻ.[5] 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm. 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người nói chung và trẻ mầm non nói riêng thì ngôn ngữ có một vai trò rất quan trọng không thể thiếu được. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt đối với trẻ nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoà nhập với cộng đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn của người lớn mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của xã hội mà mọi người đều phải thực hiện theo những quy định chung đó. Ngôn ngữ còn là phương tiện giúp trẻ tìm hiểu khám phá, nhận thức về môi trường xung quanh, thông qua cử chỉ lời nói của người lớn trẻ sẽ được làm quen với các sự vật, hiện tượng có trong môi trường xung quanh. Nhờ có ngôn ngữ mà trẻ sẽ nhận biết ngày càng nhiều màu sắc, hình ảnh của các sự vật , hiện tượng trong cuộc sống hàng ngày.[5] Đặc biệt đối với trẻ nhà trẻ cần giúp trẻ phát triển mở rộng các loại vốn từ, biết sử dụng nhiều loại câu bằng cách thường xuyên nói chuyện với trẻ về những sự vật, hiện tượng, hình ảnh. mà trẻ nhìn thấy trong sinh hoạt hành ngày, nói cho trẻ biết đặc điểm, tính chất, công dụng của chúng từ đó hình thành ngôn ngữ cho trẻ.[5] 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 2.2.1. Thuận lợi: Đồ dùng trang thiết bị đầy đủ phục vụ cho việc tổ chức các hoạt động của trẻ. Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ phong phú về mầu sắc và hình ảnh, hấp dẫn thu hút trẻ. Giáo viên nhiệt tình làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo phục vụ cho việc cung cấp và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Ban giám hiệu chỉ đạo sát sao, luôn tạo điều kiện để tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ . Các cháu khỏe mạnh, đi học chuyên cần Phụ huynh quan tâm, phối hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm để nắm bắt tình hình học tập cũng như sức khỏe của trẻ để có biện pháp cùng giáo viên giải quyết. Phòng giáo dục quan tâm và thường xuyên mở các lớp tập huấn chuyên đề để giáo viên được tiếp cận phương pháp mới, được dự giờ dạy đối chứng chuyên đề. Nhà trường tổ chức sinh hoạt chuyên môn đều đặn bổ sung, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn. 2.2.2. Khó khăn: Các cháu còn nhỏ còn khóc nhiều chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt của lớp nên còn bỡ ngỡ, mỗi cháu lại có những sở thích và cá tính khác nhau. Trí nhớ của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ chưa nhớ hết trật tự của các âm khi sắp xếp thành câu vì thế trẻ thường xuyên bỏ bớt từ, bớt âm khi nói. 60% trẻ phát âm chưa chuẩn xác. Gia đình các cháu phần lớn ở nông thôn, trình độ văn hóa còn hạn chế, hơn nữa bố mẹ các cháu chủ yếu là công nhân và nông dân nên ít có thời gian và điều kiện quan tâm đến con cái, đặc biệt là việc kèm cặp các cháu học. Cơ sở vật chất còn nhiều hạn chế: chưa có lớp học riêng, đang học ở phòng âm nhạc, đồ chơi mới hấp dẫn gây hứng thú trong các giờ dạy 2.2.3. Quá trình điều tra thực tiễn: Là một giáo viên chủ nhiệm lớp ngay từ đầu năm học tôi luôn quan tâm đến đặc điểm tâm sinh lý cũng như ngôn ngữ giao tiếp của từng trẻ nhằm khám phá , tìm hiểu khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ để kịp thời có những biện pháp giáo dục và nâng cao dần ngôn ngữ cho trẻ. Khi tiếp xúc với trẻ tôi nhận thấy rằng ngôn ngữ của trẻ còn nhiều hạn chế về câu từ, về cách phát âm. Khi trẻ nói hầu hết toàn bớt âm trong các từ, giao tiếp không đủ câu cho nên nhiều khi giáo viên không hiểu trẻ đang nói về cái gì? Cũng có một số trẻ còn hạn chế khi nói , trẻ chỉ biết chỉ tay vào những thứ mình cần khi cô hỏi. Đây cũng là một trong những nguyên nhân của việc ngôn ngữ của trẻ còn nghèo nàn. Qua quá trình tiếp xúc với trẻ bản thân tôi thấy rất lo lắng về vấn đề này và tôi nghĩ rằng mình phải tìm tòi suy nghĩ và nghiên cứu tài liệu để tìm ra biện pháp phát triển ngôn ngữ giao tiếp cho trẻ một cách có hiệu quả nhất để có thể giúp trẻ tự tin hơn khi giao tiếp với mọi người.[5] Để tìm được biện pháp tốt, dạy trẻ cho phù hợp với nhận thức của lứa tuổi, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng thực tế đầu năm học sinh của lớp tôi chủ nhiệm. Khi được phân công phụ trách lớp Măng Non với 15 trẻ, tôi tiến hành khảo sát với kết quả như sau: Qua thực tế tôi đã khảo sát chất lượng học sinh đầu năm như sau Phân loại khả năng Đạt Chưa đạt Tốt Khá TB SL % SL % SL % SL % Khả năng nghe hiểu ngôn ngữ và phát âm 4 27 3 20 5 33 3 20 Vốn từ 4 27 2 13 6 40 3 20 Khả năng nói đúng ngữ pháp 4 27 4 27 5 33 3 20 Khả năng giao tiếp 8 53 4 27 2 13 1 6 Từ những kết quả khảo sát như trên tôi luôn trăn trở, suy nghĩ xem phải làm gì và làm thế nào để trẻ nhà trẻ phát triển tốt ngôn ngữ chính vì vậy tôi đã mạnh dạn áp dụng một số biện pháp giúp cho trẻ nhà trẻ phát triển ngôn ngữ được tốt 2.3. Các biện pháp thực hiện. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là giáo dục khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ và phát âm chuẩn, phát triển vốn từ, dạy trẻ nói đúng ngữ pháp, phát triển ngôn ngữ mạch lạc, giáo dục văn hoá giao tiếp lời nói. Ngoài ra ngôn ngữ còn là phương tiện phát triển thẩm mỹ, tình cảm, đạo đức .Đặc biệt nhờ có ngôn ngữ mà trẻ dễ dàng tiếp nhận những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hoà nhập vào xã hội tốt hơn. Chính vì vậy mà trong quá trình dạy trẻ tôi đã mạnh dạn áp dụng một số biện pháp dạy trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua một số hoạt động sau:[5] 2.3.1. Xây dựng nề nếp học sinh. Vào đầu năm học tôi thường chú trọng vào việc rèn luyện nề nếp, vì muốn học tốt, tiếp thu bài nhanh thì trẻ phải có nề nếp tốt: Ngồi học ngoan. Khi các cháu còn nói chuyện chưa chú ý nên tôi đã chia thành 3 tổ : “Hoa cúc, hoa hồng, hoa sen”. Trong tổ có cháu ngoan, cháu mạnh dạn, cháu yếu tôi cho ngồi đảo lộn, những cháu yếu ngồi phía trên để cô tiện theo dõi, tôi luôn quan tâm động viên những trẻ chưa tập trung, phân tán...[2] Rèn nề nếp trẻ ngồi học ngoan ngoãn, khi muốn phát biểu phải giơ ta, khi nói phải “Con thưa cô” và nói đủ câu. Tôi luôn tuyên dương khuyến khích động viên kịp thời đối với những trẻ ngoan và trẻ chưa hứng thú, chú ý nghe vào cuối ngày, cuối tuần được thưởng cờ bé ngoan, những trẻ hay ngồi nói chuyện, nghịch trong lớp tôi cử trẻ đó làm tổ trưởng, tổ phó để nhắc nhở các bạn trong tổ.[2] Kết quả: Tôi hoàn thành công việc rèn luyện nề nếp trong tháng đầu, các cháu đã có nề nếp học tập tốt, không gò bó, học thoải mái. 2.3.2.Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi: 2.3.2.1 Giờ đón trẻ: Giờ đón trẻ là lúc cần tạo không khí vui vẻ, lôi cuốn trẻ tới trường , tới lớp cô phải thật gần gũi, tích cực trò chuyện với trẻ.Vì trò chuyện với trẻ là hình thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ cho trẻ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là ngôn ngữ mạch lạc. Bởi qua cách trò chuyện với trẻ cô mớii có thể cung cấp, mở rộng vốn từ cho trẻ. VD: Cô trò chuyện với trẻ về gia đình của trẻ: + Gia đình con có những ai? + Trong gia đình ai yêu con nhất? + Mẹ yêu con như thế nào? + Buổi sáng ai đưa con đến lớp? + Bố con đưa đi bằng phương tiện gì? Như vậy khi trò chuyện với cô trẻ tự tin vào vốn từ của mình, ngôn ngữ của trẻ nhờ đó mà được mở rộng và phát triển hơn. Ngoài ra trong giờ đón trẻ , trả trẻ tôi luôn nhắc trẻ biết chào ông, bà , bố , mẹ như vậy kích thích trẻ trả lời câu trọn vẹn bên cạnh đó giáo dục trẻ có thói quen lễ phép, biết vâng lời.[1] 2.3.2.2. Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động góc: Trong một giờ hoạt động chung trẻ không thể phát triển ngôn ngữ một cách toàn diện được mà phải thông qua các hoạt động khác trong đó có hoạt động góc. Đây có thể coi là một hình thức quan trọng nhất, bởi giờ chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt là tích cực hoá vốn từ cho trẻ.Thời gian chơi của trẻ chiếm nhiều nhất trong thời gian trẻ ở nhà trẻ, là thời gian trẻ được chơi thoải mái nhất. Trong qúa trình trẻ chơi sử dụng các loại từ khác nhau, có điều kiện học và sử dụng các từ có nội dung khác nhau.[1] VD1: Trò chơi trong góc” Thao tác vai” trẻ được chơi với em búp bê và khi trẻ chơi sẽ giao tiếp với các bạn bằng ngôn ngữ hàng ngày. - Bác đã cho búp bê ăn chưa? (Chưa ạ) - Khi ăn bác nhớ đeo yếm để bột không dây ra áo của búp bê nhé! (Vâng ạ) - Ngoan nào mẹ cho búp bê ăn nhé! - Bột vẫn còn nóng lắm để mẹ thổi cho nguội đã ! (Giả vờ thổi cho nguội) -Búp bê của mẹ ăn ngoan rồi mẹ cho búp bê đi chơi nhé!! (Âu yếm em búp bê) - Qua giờ chơi cô không những dạy trẻ kỹ năng sống mà còn dạy trẻ nghe, hiểu giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những tình cảm yêu thương , gắn bó của con người VD2: Ở góc “ Bé khéo tay” cũng ở chủ điểm “Giao thông ” bằng miếng xốp thừa tôi đã tận dụng cắt thành hình ô tô, xe máy để cho trẻ in màu. Trẻ sẽ được in những PTGT đủ màu sắc tạo lên giấy thành sản phẩm của mình một cách nghệ thuật. Tôi thấy trẻ rất khéo léo, chăm chú khi làm . Khi trẻ làm tôi ân cần đến bên trẻ trò chuyện cùng trẻ: - Con đang làm gì vậy? (Con in hình ô tô ạ) - Ô tô của con có màu gì? (Màu đỏ ạ) - Đây là phương tiện gì con có biết không? (Xe đạp ạ) - Xe đạp này có màu gì ? (Màu vàng ạ) - Ô tô và xe đạp đi ở đâu hả con ? (Trên đường ạ) Như vậy bằng những đồ chơi tự tạo thông qua hoạt động chơi không những rèn cho trẻ sự khéo léo mà còn góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Hình ảnh trẻ hoạt động góc 2.3.2.3. Giáo dục ngôn ngữ thông qua hoạt động ngoài trời: Hàng ngày đi dạo chơi quanh sân trường tôi thường xuyên đặt câu hỏi để trẻ được gọi tên các đồ chơi quanh sân trường như : Đu quay, cầu trượt , bập bênh.Ngoài ra tôi còn giới thiệu cho trẻ biết cây xanh, cây hoa ở vườn trường và hỏi trẻ: + Cây hoa này có màu gì? (Trẻ trả lời màu đỏ) + Thân cây này có to không? (Có ạ) + Cây phượng vĩ này rất cao và có lá màu gì? (Màu xanh ạ) + Các con có nhìn thấy con gì đang bay đến không? (Có ạ) + Con gì vậy? (Con chim) + Con chim kêu như thế nào? (Chích chích.) Giáo dục: Các con nhớ cây xanh rất tốt cho sức khoẻ của con người các con không được hái hoa, bẻ cành mà phải tưới cây để cây mau lớn nhé! (Vâng ạ) Qua những câu hỏi cô đặt ra sẽ giúp trẻ tích luỹ được những vốn từ mới ngoài ra còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ chính xác, mạch lạc , rõ ràng hơn. Ở lứa tuổi này trẻ nhiều khi hay hỏi và trả lời trống không hoặc nói những câu không có nghĩa. Vì vậy bản thân tôi luôn chú ý lắng nghe và nhắc nhở trẻ, nói mẫu cho trẻ nghe và yêu cầu trẻ nhắc lại. Thông qua hoạt động ngoài trời giúp trẻ phát triển tốt ngôn ngữ 2.3.3. Giáo dục ngôn ngữ thông qua các giờ học khác: 2.3.3.1. Thông qua giờ nhận biết tập nói: Đây là môn học quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và cung cấp vốn từ vựng cho trẻ. Trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa hoàn chỉnh, vì vậy trẻ thường nói không đủ từ, nói ngọng, nói lắp. Cho nên trong tiết dạy cô phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú cho trẻ. Bên cạnh đó cô phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi rõ ràng ngắn gọn trong khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu không nói cộc lốc.[1] VD1: Trong bài nhận biết “Con cá” cô muốn cung cấp từ “đuôi cá” cho trẻ cô phải chuẩn bị một con cá thật và một con cá giả (được làm bằng bìa) để cho trẻ quan sát. Trẻ sẽ sử dụng các giác quan như: sờ, nhìn..nhằm phát huy tính tích cực của tư duy, rèn khả năng ghi nhớ có chủ đích. Để giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát cô cần đưa ra hệ thống câu hỏi: + Đây là con gì? (Con cá ạ) + Các con nhìn xem cá muốn bơi được là nhờ cái gì mà đang quẫy quẫy đây? (Cái đuôi ạ) + Các con ơi, cá đang nhìn chúng mình đấy thế mắt cá nằm ở đâu nhỉ? (Nằm ở trên đầu con cá) + Đố các bạn biết cá sống ở đâu? (Sống ở dưới nước) + Trên mình cá có gì mà lấp lánh thế ? (Có vẩy) Trong khi trẻ trả lời cô phải chú ý đến câu trả lời của trẻ. Trẻ phải nói được cả câu theo yêu cầu câu hỏi của cô. Nếu trẻ nói cộc lốc , thiếu từ cô phải sửa ngay cho trẻ. VD2 : Bài nhận biết “ Ô tô” Khi vào bài tôi đặt câu đố: “ Xe gì bốn bánh Chạy ở trên đường Còi kêu bim bim Chở hàng chở khách” (Ô tô) Trẻ trả lời đó là ô tô tôi đưa chiếc ô tô cho trẻ xem và hỏi: + Xe gì đây? (Ô tô ạ) + Ô tô có màu gì? (Màu đỏ ạ) + Ô tô đi ở đâu? (Ô tô đi ở trên đường ạ) + Ô tô dùng để làm gì? (Dùng để đi ạ) + Còi ô tô kêu như thế nào? (bíp bíp..) + Đây là cái gì? (Cô hỏi từng bộ phận của ô tô và yêu cầu trẻ trả lời) Cứ như vậy tôi đặt hệ thống câu hỏi từ tổng thể đến chi tiết để trẻ trả lời nhằm kích thích trẻ phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ, qua đó lồng liên hệ thực tế giáo dục trẻ về an toàn giao thông khi đi trên đường.[6] 2.3.3.2. Thông qua giờ thơ, truyện: Trên tiết học khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ và còn hình thành phát triển ở trẻ kỹ năng nói mạch lạc mà muốn làm được như vậy trẻ phải có vốn từ phong phú hay nói cách khác là trẻ cũng được học thêm được các từ mới qua giờ học thơ, truyện. Để giờ thơ, truyện đạt kết quả cao cũng như hình thành ngôn ngữ cho trẻ thì đồ dùng phục vụ cho tiết học phải đảm bảo : Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an toàn và vệ sinh cho trẻ. Nếu là tranh vẽ phải đẹp, phù hợp với câu truyện, phía dưới phải có chữ to giúp cho việc phát triển vốn từ của trẻ được thuận lợi. Bản thân giáo viên phải thuộc truyện, ngôn ngữ của cô phải trong sáng, giọng đọc phải diễn cảm, thể hiện đúng ngữ điệu của các nhân vật. VD1: Trẻ nghe câu truyện “Đôi bạn nhỏ”. Tôi cung cấp vốn từ cho trẻ đó là từ “Bới đất”. Cô có thể cho trẻ xem tranh mô hình một chú gà đang lấy chân để bới đất tìm giun và giải thích cho trẻ hiểu từ “ Bới đất”. (Các con ạ , bản năng của những chú gà là mỗi khi đi kiếm ăn các chú phải lấy chân để bới đất, đào đất lên để tìm thức ăn cho mình , khi kiếm được thức ăn chú gà sẽ lấy mỏ để ăn đấy). Sau khi giải thích tôi cũng chuẩn bị một hệ thống câu hỏi giúp trẻ nhớ được nội dung truyện và từ vừa học: Hai bạn Gà và Vịt trong câu truyện cô kể rủ nhau đi đâu? (Đi kiếm ăn ạ) Vịt kiếm ăn ở đâu? (Dưới ao) - Thế còn bạn Gà kiếm ăn ở đâu? (Trên bãi cỏ) - Bạn Gà kiếm ăn như thế nào? (Bới đất tìm giun) - Khi hai bạn đang kiếm ăn thì con gì xuất hiện đuổi bắt Gà con? (Con Cáo) - Vịt con đã cứu Gà con như thế nào? (Gà nhảy phốc lên lưng Vịt ,Vịt bơi ra xa). - Qua câu truyện con thấy tình bạn của hai bạn Gà và Vịt ra sao? (Thương yêu nhau) Nếu như bạn gặp khó khăn thì các con phải làm gì? (Giúp đỡ bạn ạ). - Cô kể 1-2 lần cho trẻ nghe giúp trẻ hiểu thêm về tác phẩm và qua đó lấy nhân vật để giáo dục trẻ phải biết yêu thương và giúp đỡ bạn trong lúc gặp khó khăn. VD2:Trong câu truyện “Thỏ ngoan” ngoài việc giúp trẻ thể hiện ngữ điệu, sắc thái tình cảm của các nhân vật trong truyện tôi còn sửa sai những từ trẻ hay nói ngọng để giúp trẻ phát âm chuẩn và động viên những trẻ nhút nhát mạnh dạn hơn khi trả lời. + Trẻ hay nói ô tô - ô chô. + Trẻ nói Thỏ ngoan - Thỏ ngan + Bác Gấu _ Bác ấu + Con Cáo _ Con áo Sử dụng trong giờ kể chuyện “Ai đáng khen nhiều hơn” Mỗi khi trẻ nói sai tôi dừng lại sửa sai luôn cho trẻ bằng cách tôi nói mẫu cho trẻ nghe 1-2 lần sau đó yêu cầu trẻ nói theo. Thể hiện sắc thái , ngữ điệu nhân vật sẽ cuốn hút rất nhiều trẻ tham gia đặc biệt những trẻ nhút nhát qua đó cũng mạnh dạn hơn. Đối với những trẻ đó tôi động viên , khích lệ trẻ kịp thời. Tôi cho trẻ thể hiện ngữ điệu của các nhân vật trong truyện “Thỏ ngoan” + Giọng Bác Gấu bị mưa rét thì ồm ồm và run, nét mặt buồn. + Giọng con Cáo thì gắt gỏng, nét mặt kênh kiệu. + Giọng Thỏ thì ân cần, niềm nở. Như vậy thơ truyện không những kích thích nhận thức có hình ảnh của trẻ mà còn phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách toàn diện. Trẻ nhớ nội dung câu truyện và biết sử dụng ngôn ngữ nói là phương tiện để tiếp thu kiến thức.[6] 2.3.3.3. Thông qua giờ âm nhạc: Để thu hút trẻ vào giờ học và giúp trẻ phát triển ngôn ngữ được tốt hơn thôi thúc tôi phải nghiên cứu, sáng tạo những phương pháp dạy học tốt nhất có hiệu quả với trẻ. Đối với tiết học âm nhạc trẻ được tiếp xúc nhiều đồ vật (Trống, lắc, phách tre, mõ, xắc xô và nhiều chất liệu khác) trẻ được học những giai điệu vui tươi kết hợp với các loại vận động theo bài hát một cách nhịp nhàng. Để làm được như vậy đó là nhờ sự hiểu biết, nhận thức vốn từ, kỹ năng nhất là sự
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_kinh_nghiem_phat_trien_ngon_ngu_cho_tre_nha_tre.doc