SKKN Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở Trường PTDTBT THCS Xuân Chinh huyện Thường Xuân

SKKN Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở Trường PTDTBT THCS Xuân Chinh huyện Thường Xuân

 Trước yêu cầu điều kiện phát triển sự nghiệp giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải xây dựng một đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu đặt ra nhằm giáo dục thế hệ trẻ phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đi theo con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Ngày 15/6/2004 Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành chỉ thị số 40/CT-TW về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục: “Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo; thông qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước” [1].

Mặt khác, “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các khái niệm cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[9]. Để đạt được mục tiêu đó, giáo dục phổ thông phải có giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên, trong đó có đội ngũ giáo viên THCS đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Bên cạnh đó, thực tiễn đã khẳng định: Một trong những điều kiện để nâng cao chất lượng giáo dục là chất lượng và động lực dạy học của giáo viên vì giáo viên là lực lượng trực tiếp thực hiện chất lượng giáo dục. Muốn có chất lượng giáo dục tốt trước hết phải xây dựng phát triển và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên vừa đáp ứng về mặt số lượng vừa phải có chất lượng cao, phải tạo ra được nguồn nhân lực đáp ứng những yêu cầu của đất nước trong thời kỳ hội nhập.

 

doc 30 trang thuychi01 10153
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở Trường PTDTBT THCS Xuân Chinh huyện Thường Xuân", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
1. Mở đầu 
1
. Lí do chọn đề tài 
1
1.2. Mục đích nghiên cứu 
2
1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2
2.2. Thực trạng đội ngũ giáo viên trường PTDTBT THCS Xuân Chinh huyện Thường Xuân
3
2.3. Các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở Trường PTDTBT THCS Xuân Chinh huyện Thường Xuân
10
2.3.1. Tăng cường giáo dục tư tưởng cho cán bộ quản lý và giáo viên trong Nhà trường về tầm quan trọng và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng đội ngũ trong giai đoạn hiện nay
10
2.3.2. Nâng cao năng lực tự học, tự bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên
11
2.3.3. Đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá, xếp loại giáo viên theo hướng dẫn đổi mới ở trường trung học cơ sở
12
2.3.4. Xây dựng cơ sở vật chất phục vụ việc dạy và học theo hướng đổi mới
14
2.3.5. Thực hiện đầy đủ chính sách, chế độ đãi ngộ, cải thiện điều kiện sinh hoạt và làm việc nhằm bảo đảm quyền lợi và nâng cao chất lượng cuộc sống cho giáo viên
16
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
17
3. Kết luận, kiến nghị
18
3.1. Kết luận
18
3.2. Kiến nghị 
19
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
 	Trước yêu cầu điều kiện phát triển sự nghiệp giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải xây dựng một đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu đặt ra nhằm giáo dục thế hệ trẻ phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đi theo con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Ngày 15/6/2004 Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành chỉ thị số 40/CT-TW về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục: “Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo; thông qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước” [1].
Mặt khác, “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các khái niệm cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[9]. Để đạt được mục tiêu đó, giáo dục phổ thông phải có giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên, trong đó có đội ngũ giáo viên THCS đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Bên cạnh đó, thực tiễn đã khẳng định: Một trong những điều kiện để nâng cao chất lượng giáo dục là chất lượng và động lực dạy học của giáo viên vì giáo viên là lực lượng trực tiếp thực hiện chất lượng giáo dục. Muốn có chất lượng giáo dục tốt trước hết phải xây dựng phát triển và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên vừa đáp ứng về mặt số lượng vừa phải có chất lượng cao, phải tạo ra được nguồn nhân lực đáp ứng những yêu cầu của đất nước trong thời kỳ hội nhập.
Trường PTDTBT THCS Xuân Chinh là một trường đóng trên địa bàn vùng cao của huyện, mặc dù có tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn cao nhưng chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về trình độ học vấn, kiến thức chuyên môn, năng lực sư phạm, phẩm chất nghề nghiệp do được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau, qua các thời kỳ và có hoàn cảnh khác nhau. Hiện tại thiếu giáo viên có tay nghề vững vàng, một bộ phận kỹ năng sư phạm yếu, còn nhiều giáo viên chậm thích ứng với phương pháp dạy học mới, ngại sử dụng phương tiện dạy học hiện đại để hỗ trợ cho bài giảng. Mặt khác, còn một bộ phận giáo viên chưa thật sự có tâm huyết với nghề, thiếu có ý thức trong việc trao đổi chuyên môn nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm chưa cao, ít quan tâm đến cảm nhận của học sinh.
Để góp phần giải quyết từng bước những bất cập trên, đồng thời để nâng cao hơn nữa chất lượng hiệu quả giáo dục và đào tạo, việc đưa ra các giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên ở Trường PTDTBT THCS Xuân Chinh là hết sức cần thiết.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên đây, tôi đã chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở Trường PTDTBT THCS Xuân Chinh huyện Thường Xuân” làm đề tài nghiên cứu của bản thân.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực tiễn, khảo sát thực trạng và đề xuất các giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên ở Trường PTDTBT THCS Xuân Chinh huyện Thường Xuân. 
1.3. Đối tượng nghiên cứu
 	Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở Trường PTDTBT THCS Xuân Chinh huyện Thường Xuân. 
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu, các văn bản Nhà nước, Nghị quyết của Đảng và các công trình khoa học của các nhà nghiên cứu giáo dục về quản lý và quản lý giáo dục, quản lý đội ngũ giáo viên ở trường phổ thông, đặc biệt chú ý đến bậc THCS.
- Phương pháp điều tra. 
+ Nghiên cứu kế hoạch hoạt động, hồ sơ chuyên môn, hồ sơ quản lý của nhà trường, của tổ chuyên môn.
+ Quan sát quá trình dạy - học của giáo viên và học sinh.
+ Điều tra - lập biểu.
+ Khảo sát thực tế, tiến hành đàm thoại, phỏng vấn ý kiến của cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
Thông qua các báo cáo tổng kết, các kết luận kiểm tra chuyên môn, hành chính của phòng GD&ĐT và của nhà trường.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Đội ngũ giáo viên là tập thể những người trực tiếp tham gia giảng dạy. Đội ngũ giáo viên trong một nhà trường là lực lượng chủ yếu để tổ chức quá trình giáo dục trong nhà trường. Chất lượng đào tạo cao hay thấp phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ giáo viên. Một đội ngũ giáo viên tâm huyết với nghề nghiệp, có đủ phẩm chất và năng lực thì đây chính là lực lượng quan trọng đóng góp tích cực vào thành tích chung của trường. Vì vậy người quản lý nhà trường hơn ai hết phải thấy rõ vai trò của đội ngũ giáo viên để củng cố và xây dựng lực lượng đó ngày càng vững mạnh.
Quản lý đội ngũ giáo viên là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho trình độ đội ngũ nhà giáo đảm bảo trình độ về chính trị, trình độ về chuyên môn, trình độ về quản lý giáo dục theo đường lối, nguyên lý giáo dục của Đảng. Thực hiện được các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam mà hạt nhân cơ bản là quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ đưa giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến đến trạng thái mới.
Xây dựng đội ngũ nhà giáo thành một tập thể sư phạm vững mạnh, đó là:
Đội ngũ nhà giáo mạnh phải là đội ngũ nhà giáo nắm vững và thực hiện tốt đường lối quan điểm giáo dục của Đảng, hết lòng vì học sinh thân yêu. Luôn trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhận thức rõ mục tiêu giáo dục của Đảng.
Đội ngũ nhà giáo mạnh phải là tất cả được đào tạo đúng chuẩn; không ngừng học tập để trau dồi năng lực, phẩm chất, có ý thức tự học tự bồi dưỡng để nâng cao phẩm chất và năng lực, tâm huyết với nghề nghiệp, luôn luôn trau dồi năng lực sư phạm để thực sự là một tập thể giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ.
Đội ngũ có tổ chức chặt chẽ, có ý thức kỷ luật cao, chấp hành tốt các quy chế chuyên môn, kỷ cương, kỷ luật của nhà trường. Biết coi trọng kỷ luật, thấy kỷ luật là sức mạnh của tập thể.
Đội ngũ nhà giáo mạnh là luôn luôn có ý thức tiến thủ, ý thức xây dựng tập thể, phấn đấu trong mọi lĩnh vực. Mỗi thành viên phải là một tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Trong đó người hiệu trưởng thực sự là con chim đầu đàn của tập thể sư phạm, là linh hồn của nhà trường.
Đội ngũ giáo viên là những người trực tiếp truyền thụ những tri thức khoa học của cấp học, môn học trong hệ thống giáo dục đến người học. Chất lượng đội ngũ giáo viên được thể hiện ở 3 lĩnh vực đó là trình độ tư tưởng, lí luận, bản lĩnh chính trị; trình độ kiến thức cơ bản, nghiệp vụ sư phạm và trình độ kỹ năng nghề nghiệp.
Giải pháp nâng cao chất lượng giáo viên là những cách thức tác động hướng vào việc tạo ra những biến đổi về chất lượng đội ngũ giáo viên.
Như vậy, theo tác giả: “Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở Trường PTDTBT THCS Xuân Chinh huyện Thường Xuân là những cách thức tác động nhằm tạo ra những biến đổi tích cực về phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm”.
Từ những cơ sở lý luận trên đòi hỏi phải tìm ra các giải pháp phù hợp hơn nữa để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở các trường THCS nói chung và ở Trường PTDTBT THCS Xuân Chinh nói riêng, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.
2.2. Thực trạng đội ngũ giáo viên ở Trường PTDTBT THCS Xuân Chinh huyện Thường Xuân
2.2.1. Cơ cấu đội ngũ giáo viên
Năm học 2016-2017 số lượng giáo viên của nhà trường là 14 giáo viên với số lớp là 05 lớp, tỷ lệ đạt 2,8 giáo viên/lớp. Tỷ lệ này cho thấy số lượng giáo viên thừa so với quy định theo Quyết định 3185/QĐ-UBND ngày 23/8/2016 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2,0 giáo viên/lớp) tức là số giáo viên thừa 04 người. 
Tỷ lệ giáo viên/lớp được tổng hợp qua bảng sau:
Tiêu chí
2014-2015
2015-2016
2016-2017
Số giáo viên
18
15
14
Số lớp
05
05
05
Tỷ lệ
3,6
3,0
2,8
(Nguồn từ Báo cáo tổng kết các năm học của nhà trường))
2.2.2. Chất lượng đội ngũ giáo viên
2.2.2.1. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
Hiện tại Trường PTDTBT THCS Xuân Chinh có 18 cán bộ, giáo viên, nhân viên. Trong đó giáo viên trực tiếp đứng lớp là 14 người. Trình đại học: 14 người (đạt 100%). Độ tuổi của giáo viên không đồng đều, số lượng giáo viên trẻ chiếm đa số, vì vậy có sự chênh lệch lớn trong chuyên môn, nghiệp vụ giữa 2 nguồn nhân lực này.
Qua thực tế số lượng giáo viên có giảm nhưng số giáo viên theo quy định lại thừa, có môn thiếu, có môn lại thừa. Bên cạnh đó, tỷ lệ giáo viên phải dạy hai môn như Toán-Lý, Toán-Tin, Sinh-GDCD, Sinh-Kỹ thuật, Toán-CN, Toán- Nghề PT, Toán-GDCD nên mất nhiều thời gian để chuẩn bị bài và soạn giáo án. Do vậy, không có thời gian cho việc tự học, tự nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, cho việc dự giờ, thăm lớp và tham gia các hoạt động khác.
Ngoài ra, do việc thừa giáo viên ở các bộ môn như Toán, Sinh nên giáo viên dạy không đủ số tiết theo quy định, có những giáo viên dạy 4 tiết, 6 tiết/ tuần và ở nhiều môn chỉ có 01 giáo viên do đó việc rèn luyện kinh nghiệm, trao đổi chuyên môn để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ rất ít. Bên cạnh đó do dạy ít tiết nên số giáo viên này dành nhiều thời gian cho công việc khác để kiếm thêm thu nhập cho nên chất lượng giờ dạy không được đảm bảo hay nói cách khác giáo viên chỉ dạy cho hết nghĩa vụ của tiết dạy mà không quan tâm đến việc học sinh có học được hay không.
Hầu hết các trường đều có ít giáo viên dạy giỏi, giáo viên cốt cán, giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tay nghề cao, do giáo viên từ nơi khác đến công tác chỉ dạy trong khoảng từ 2 đến 5 năm lại xin chuyển về địa phương hoặc những nơi có điều kiện thuận lợi hơn. Số lượng giáo viên đạt chuẩn nhiều nhưng đa số là giáo viên trẻ nên thiếu kinh nghiệm đứng lớp, ít chịu khó, chưa thích ứng với điều kiện sinh hoạt khó khăn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ sư phạm còn hạn chế.
2.2.2.2. Thực trạng phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của giáo viên
Hằng năm trong Kế hoạch của Phòng GD&ĐT và theo Kế hoạch của Sở GD&ĐT có nội dung, yêu cầu bắt buộc tất cả cán bộ, giáo viên, nhân viên của ngành phải tập trung học tập chính trị theo tinh thần chỉ thị số 34/CT-TW ngày 30/5/1998 của Ban Chấp Hành Trung ương Đảng về “Tăng cường công tác chính trị, tư tưởng; củng cố tổ chức Đảng, đoàn thể quần chúng và công tác phát triển Đảng viên trong trường học”. Đặc biệt công tác này được chú trọng nhiều hơn nữa khi có cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, cuộc vận động “Hai không với bốn nội dung”, cuộc vận động “Mỗi thầy giáo, cô giáo là một tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo” và cuộc vận động “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
Nội dung triển khai trong các đợt học là sự cụ thể hoá các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước các cấp và của ngành mới được ban hành. Đặc biệt là đánh giá thực tế về đạo đức nhà giáo. 
Từ những nội dung triển khai đó, cán bộ quản lý, giáo viên của nhà trường đã nhận thức đầy đủ hơn về vai trò trách nhiệm, từ đó thực hiện những yêu cầu đặt ra cho bản thân và có định hướng tốt hơn trong công tác. Chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quy chế của ngành, quy định của cơ quan, đơn vị. Luôn giữ gìn đạo đức, nhân cách và lối sống lành mạnh, trong sáng, có ý thức đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực được sự tín nhiệm cao trong đồng nghiệp, trong học sinh và nhân dân.
Tuy nhiên thực tế vẫn còn một số giáo viên chưa có ý thức và nhận thức đúng đắn trong việc trau dồi phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, cũng như chưa thực hiện tốt những chính sách của Đảng và Nhà nước.
Vẫn còn một số giáo viên không chú tâm vào công việc, thực hiện các công việc được phân công một cách miễn cưỡng, tinh thần trách nhiệm chưa cao. Bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận giáo viên còn vi phạm quy chế chuyên môn như không soạn bài đầy đủ, bỏ tiết, đánh giá xếp loại học sinh chưa đúng quy chế, vi phạm ngày công lao động, chưa chịu trách nhiệm về lớp được phân công.
Có một bộ phận học sinh được hỏi không yêu thích, quý mến, tôn trọng thầy cô của mình vì thầy cô hay trách mắng các em mà không cần hiểu rõ nguyên nhân, không quan tâm đến những học sinh yếu kém, không bỏ thời gian tìm hiểu hoàn cảnh của học sinh, tiết dạy luôn có không khí nặng nề nhàm chán, trong cuộc sống còn buông thả...
Trên thực tế vẫn còn giáo viên chưa thật sự tha thiết với nghề, chưa tận tình trong giáo dục, cảm hoá học sinh cá biệt cũng như giúp đỡ học sinh yếu, kém.
2.2.2.3. Thực trạng kiến thức
* Kiến thức khoa học cơ bản liên quan đến môn mình phụ trách trong chương trình THCS.
Giữa các môn học luôn có mối liên hệ bổ trợ cho nhau ví dụ nhóm các môn tự nhiên (Toán, Lý, Hoá, Sinh) hoặc nhóm các môn xã hội (Văn học, Lịch sử, Địa lý), để môn mình phụ trách có kết quả tốt đòi hỏi giáo viên phải tìm hiểu những môn khoa học khác để có cơ sở lý luận vững vàng nhằm truyền tải kiến thức ở một nội dung đầy đủ và trọn vẹn hơn. Bên cạnh đó, sự sắp xếp logic thứ tự kiến thức các môn học trong chương trình cũng đòi hỏi giáo viên phải tìm hiểu mạch kiến thức đó đã được dạy học ở các môn khác chưa. Theo kết quả điều tra ở nội dung này rất ít giáo viên được đánh giá khá, tốt cụ thể có 57,1%, còn lại trung bình đạt 42,9%.
	* Kiến thức chuyên môn nghiệp vụ sư phạm.	
Đa số giáo viên được đào tạo từ các trường sư phạm nên hầu hết giáo viên nắm vững chuyên môn của mình phụ trách, cũng như nắm vững nghiệp vụ sư phạm có liên quan, số giáo viên được đánh giá ở nội dung này chiếm tỷ lệ khá tốt đạt 71,4%. Tuy nhiên còn một số giáo viên phải dạy chéo môn, giáo viên đào tạo theo hình thức cử tuyển, giáo viên địa phương hoặc mới ra trường chưa dạy đủ các khối lớp nên chuyên môn nghiệp vụ chưa vững vàng được đánh giá là trung bình tỷ lệ này chiếm 28,6%. 
* Kiến thức tâm lý học sư phạm, tâm lý học lứa tuổi THCS.
Kiến thức về tâm lý học sư phạm cũng như tâm lý học lứa tuổi THCS của giáo viên đã trang bị ngay từ giảng đường sư phạm và tiếp tục được bồi dưỡng hàng năm trong quá trình công tác. Tuy nhiên, việc vận dụng những kiến thức đó vào thực tế đạt hiệu quả chưa cao, còn cứng nhắc (cả giáo viên mới ra trường cũng như giáo viên dạy lâu năm), trong khi đặc điểm tâm lý trẻ ở THCS lại thay đổi liên tục trong thời gian ngắn. Sự hạn chế về kiến thức trong lĩnh vực này của giáo viên cũng là một trong những nhân tố tác dẫn tới tỷ lệ học sinh bỏ học cao trong những năm vừa qua.
Mặt khác, đa số giáo viên chưa chịu khó hoặc ít tìm hiểu những phương pháp giáo dục phù hợp với tâm lý trẻ để hiệu quả giáo dục được nâng lên. Bên cạnh đó còn một bộ phận không nhỏ giáo viên lớn tuổi gần như không nắm được đặc điểm tâm lý của trẻ trong giai đoạn hiện nay, ngại học, ngại tìm hiểu để bổ sung kiến thức giáo dục trẻ cho phù hợp. Vì vậy kết quả đánh giá giáo viên đối với kiến thức tâm lý học sư phạm, tâm lý học lứa tuổi học sinh THCS không cao. Khá, tốt chỉ đạt 71,4%, trung bình là 21,4%, có tới 7,1% được đánh giá ở mức độ yếu.
* Kiến thức phổ thông về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước và của địa phương.
Mặc dù là vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn nhưng hầu hết các giáo viên có nhu cầu nắm bắt thông tin chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội của đất nước và của địa phương, chính vì vậy họ thường xuyên tìm cách để tiếp cận những thông tin đó thông qua báo, đài, mạng Intetnet... Tuy nhiên nhìn nhận từ góc độ vận dụng hiểu biết của mình trong các lĩnh vực trên vào bài giảng vẫn còn nhiều hạn chế có đến 14,2% được đánh giá là trung bình và yếu trong lĩnh vực kiến thức này.
* Kiến thức các môn học bổ trợ, ứng dụng CNTT vào dạy học.
Việc ứng dụng Công nghệ thông tin vào giờ dạy còn nhiều hạn chế vì nhà trường chưa trang bị đầy đủ máy vi tính, máy chiếu và đèn chiếu. Mặt khác, giáo viên chưa được bồi dưỡng sử dụng máy chiếu và các thiết bị kèm theo. Bên cạnh đó cơ sở vật chất chưa đáp ứng kịp thời việc ứng dụng thông tin vào dạy học, một số giáo viên còn ngại dạy máy chiếu vì phải đầu tư nhiều vào thời gian soạn giáo án, công tác chuẩn bị.... Vì vậy, đa số giáo viên hiện nay lên lớp vẫn dạy với những thiết bị dạy học hiện đã cũ kỹ, lạc hậu hoặc dạy chay. Tỷ lệ thống kê cho thấy rất nhiều giáo viên chưa thực hiện tốt công việc này thể hiện ở kết quả trung bình và yếu chiếm tới 21,4%.
2.2.2.4. Thực trạng kỹ năng sư phạm
* Kỹ năng dạy học trên lớp.
Đa số giáo viên có kỹ năng dạy học trên lớp. Tuy nhiên vẫn tồn tại hai vấn đề lớn đó là: Thứ nhất, một số giáo viên mới ra trường mặc dù đã được kiến tập, thực tập trước khi ra trường nhưng đa số giáo viên chậm thích ứng với việc dạy học trên lớp, rụt rè khi áp dụng kiến thức vừa được học ở trường sư phạm vào trong hoạt động giảng dạy trên lớp; Thứ hai là đối với giáo viên đã dạy học lâu năm không thường xuyên trau dồi kỹ năng nghề nghiệp, thiếu ý thức trao đổi học hỏi, cứ đến giờ thì lên lớp dạy. 
Tóm lại, với những giáo viên được khảo sát cho thấy kỹ năng dạy học trên lớp theo hướng đổi mới PPDH của đa số giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Kết quả được thể hiện cụ thể với chỉ đạt 57,1% khá, giỏi, còn lại là trung bình và yếu.
* Kỹ năng tổ chức quản lý giáo dục học sinh.
Để đánh giá kỹ năng này thông thường dựa vào khả năng của giáo viên chủ nhiệm, tổng phụ trách đội và giáo viên bộ môn. Đa số giáo viên có thời gian công tác lâu năm, có nhiệt tình, tâm huyết với nghề, có lòng yêu thương trẻ, hiểu được tâm tư, nguyện vọng chính đáng của trẻ thì có cách giáo dục hợp lý và mang lại hiệu quả cao. Kỹ năng này còn thể hiện ở giáo viên chủ nhiệm người thường xuyên tiếp xúc và gần gũi với học sinh, người quản lý các em về mọi mặt trong nhà trường trong suốt cả năm học, do đó việc giáo dục các em phần lớn phụ thuộc vào giáo viên chủ nhiệm. Bên cạnh đó giáo viên cũng thể hiện được vai trò của giáo viên bộ môn, ở góc độ đứng lớp mỗi giáo viên bộ môn cũng phải thường xuyên tổ chức, hướng dẫn, giáo dục các em tiếp thu kiến thức, ý thức tự học, tự nghiên cứu để nắm rõ ý nghĩa của môn học nhằm gây hứng thú cho học sinh học tập. Kết quả của nhóm kỹ năng này được đánh giá khá cao. Tuy nhiên, trên thực tế chưa có sự phối kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn một cách chặt chẽ và thường xuyên, mà còn có sự đùn đẩy né tránh việc giáo dục học sinh. Chưa thường xuyên tổ chức giáo dục cho các em phương pháp tự học và tự quản, có giáo viên ngại nhắc nhở học sinh, làm lơ khi các em vi phạm nội quy, có thái độ vô lễ với thầy cô giáo vì sợ bị phản ứng từ phía phụ huynh học sinh sẽ làm khó dễ cho giáo viên khi có biện pháp nghiêm khắc, cứng rắn. Từ đó dẫn đến tình trạng hành vi đạo đức của học sinh có chiều hướng xấu đi. Kết quả khảo sát cho thấy có 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_nang_cao_chat_luong_doi_ngu_giao_vien.doc