SKKN Một số biện pháp tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt lớp 3 - Theo mô hình trường học mới VNEN

SKKN Một số biện pháp tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt lớp 3 - Theo mô hình trường học mới VNEN

Cơ sở lý luận

 Môn Tiếng Việt theo chương trình trường tiểu học mới VNEN có một vị trí quan trọng trong giáo dục ở Tiểu học, điều đó được thể hiện ở thời lượng giảng dạy trong từng khối lớp và nó làm công cụ để học các môn học khác. Mục tiêu của môn Tiếng Việt ở tiểu học là:

- Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt ( nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt theo chương trình trường tiểu học mới VNEN góp phần rèn luyện cho học sinh các thao tác của tư duy.

 - Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hoá, văn học của Việt Nam và nước ngoài.

- Bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách của người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

 Để thực hiện tốt mục tiêu của môn Tiếng Việt, người giáo viên phải thực hiện đổi mới các phương pháp dạy học theo mô hình học tập kiểu mới VNEN, sao cho học sinh là người chủ động nắm bắt kiến thức của môn học một cách tích cực, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề đặt ra trong bài học. Từ đó chiếm lĩnh nội dung mới của bài học, môn học.

 

doc 23 trang hoathepmc36 28/02/2022 23253
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt lớp 3 - Theo mô hình trường học mới VNEN", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phßng gd& ®t huyÖn §«ng TriÒu
Tr­êng tiÓu häc quyÕt th¾ng
===***===
Sáng kiến kinh nghiệm:
“Một số biện pháp tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt lớp 3- Theo mô hình trường học mới VNEN”.
Họ và tên: Nguyễn Thị Khánh Sinh
Chức vụ: Giáo viên Tiểu học
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Quyết Thắng
Năm học: 2014-2015
I.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
 Môn Tiếng Việt là môn học có tầm quan trọng bậc nhất trong các môn học ở Tiểu học ( được xem là môn học công cụ).Bởi lẽ Tiếng Việt không những dạy cho các em biết kiến thức về ngôn ngữ trong giao tiếp mà còn giúp các em giữ gìn tiếng mẹ đẻ,Tiếng Việt có nhiệm vụ làm giàu vốn từ cho học sinh và trang bị cho các em một số kiến thức về từ, câu, cách sử dụng ngôn ngữ trong giao. Tiếng việt là một thứ tiếng giàu đẹp và trong sáng mà lịch sử đã chứng minh rằng “ Tiếng Việt trở thành vũ khí của dân tộc Việt Nam”.
 	Nhằm để đào tạo những con người đáp ứng yêu cầu của xã hội trong thời kỳ mới, đó là nhiệm vụ của ngành giáo dục, trong đó bậc Tiểu học là bậc học đóng vai trò làm nền móng. Cùng với những môn học khác, môn Tiếng Việt ở tiểu học giữ một vị trí hết sức quan trọng trong việc hình thành nhân cách, phát triển năng lực trí tuệ cho học sinh. Nó trang bị cho học sinh những kiến thức cần thiết nhằm phục vụ đời sống và phát triển của xã hội. Môn Tiếng Việt ở lớp 2 và lớp 3 là cơ sở ban đầu có tính quyết định cho việc dạy học Tiếng Việt sau này của học sinh.
 	Để thực hiện tốt mục tiêu của môn Tiếng Việt, người giáo viên phải thực hiện đổi mới các phương pháp dạy học theo mô hình học tập kiểu mới VNEN, sao cho học sinh là người chủ động nắm bắt kiến thức của môn học một cách tích cực, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề đặt ra trong bài học.Từ đó chiếm lĩnh nội dung mới của bài học, môn học. Giáo viên là người theo dõi quan sát và giúp đỡ các em thực hiện mục tiêu đó.
 	Từ những lí do trên cộng với kinh nghiệm đứng lớp, tôi đã thường xuyên áp dụng trò chơi vào các tiết học Tiếng Việt.Tôi thấy những trò chơi ấy thật sự có hiệu quả cao trong giờ học, lại dễ tổ chức, dễ thực hiện, tiết học lại sôi nổi gây hứng thú cho học sinh. Vì thế tôi đã chọn và nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt lớp 3- Theo mô hình trường học mới VNEN”.
 	Để thực hiện được nội dung sáng kiến trên bản thân tôi nhận thấy ngay từ đầu năm nhận lớp chủ nhiệm cần phải nghiên cứu cách tổ chức học tập theo mô hình VNEN, nội dung chương trình hướng dẫn học Tiếng Việt 3.Cùng với việc nghiên cứu chương trình bản thân tôi còn phải kiểm tra đánh giá phân loại học sinh cũng như mở rộng các nội dung kiến thức mang tính đặc thù của môn học.Chính vì vậy mà tôi đã lập kế hoạch cũng như giới hạn nghiên cứu ngay trên thực tế giảng dạy lớp mình và dạy thực nghiệm một số tiết của các lớp trong khối .
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
2.1.Mục tiêu:
Góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt ở tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, tăng cường hoạt động cá thể phối hợp với học tập giao lưu. Hình thành và rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn.Điều đó dẫn đến những đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học. Chương trình mới chú ý đến phương pháp dạy học nhằm thúc đẩy quá trình tự học của học sinh, tạo cho học sinh những cơ bản ban đầu kỹ năng và thói quen tự học để có thể học tập lên và học tập suốt đời.
	2.2. Nhiệm vụ của đề tài:
Trò chơi học tập là một hình thức hoạt động thường được đông đảo học sinh hứng thú tham gia trong và ngoài lớp học. Trò chơi học tập môn Tiếng Việt nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh thực hành rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết đồng thời tiếp thu kiến thức môn học một cách tự giác sáng tạo. Tham gia vào các trò chơi học tập, học sinh còn được rèn luyện, phát triển về cả trí tuệ, thể lực và nhân cách, đáp ứng mục tiêu môn học Theo hướng đổi mới VNEN đó là lấy học sinh làm trung tâm, học sinh tự lĩnh hội và chiếm lĩnh kiến thức- người giáo viên chỉ là giúp đỡ các em thông qua các hoạt động học.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Sáng kiến kinh nghiệm này được thực hiện cho học sinh lớp 3A – Trường Tiểu học Quyết Thắng.
4.Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Trong khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm này tôi tập trung nghiên cứu“Một số biện pháp tổ chức trò chơi nhằm gây hứng thú cho học sinh học môn Tiếng Việt lớp 3- Theo mô hình trường học mới VNEN” .Tại trường Tiểu học Quyết Thắng . 
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp quan sát.
 	- Phương pháp tìm hiểu thực tế.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thực nghiệm
II. PHẦN NỘI DUNG:
1.Cơ sở lý luận
 	 Môn Tiếng Việt theo chương trình trường tiểu học mới VNEN có một vị trí quan trọng trong giáo dục ở Tiểu học, điều đó được thể hiện ở thời lượng giảng dạy trong từng khối lớp và nó làm công cụ để học các môn học khác. Mục tiêu của môn Tiếng Việt ở tiểu học là:
- Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt ( nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt theo chương trình trường tiểu học mới VNEN góp phần rèn luyện cho học sinh các thao tác của tư duy.
 	- Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hoá, văn học của Việt Nam và nước ngoài.
- Bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách của người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
 	Để thực hiện tốt mục tiêu của môn Tiếng Việt, người giáo viên phải thực hiện đổi mới các phương pháp dạy học theo mô hình học tập kiểu mới VNEN, sao cho học sinh là người chủ động nắm bắt kiến thức của môn học một cách tích cực, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề đặt ra trong bài học. Từ đó chiếm lĩnh nội dung mới của bài học, môn học.
2. Thực trạng
2.1. Thuận lợi- khó khăn.
 *) Thuận lợi:
 - Về phía GV
+ Được sự quan tâm của Phòng giáo dục và Ban giám hiệu nhà trường, sự đồng thuận, vào cuộc của cha mẹ học sinh .
+ Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm chỉ đạo sâu sắc qua các buổi thăm lớp dự giờ, xây dựng các bước dạy cũng như bài dạy , môn học , cách tổ chức lớp học theo đúng với mô hình học tập VNEN.
+ Giáo viên dễ dàng hơn khi tổ chức dạy học trên lớp, khắc phục được tình trạng truyền thụ kiến thức. Dựa vào thời lượng, có thể soạn bài bổ sung hoặc điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học cho phù hợp đối tượng học sinh, đặc điểm, điều kiện cụ thể của địa phương.
- Về phía học sinh:
+ Học sinh có cơ hội chia sẻ những trải nghiệm, được thực hành và vận dụng kiến thức,kĩ năng đã học vào đời sống hàng ngày.
+Học sinh chủ yếu làm việc theo nhóm nhỏ, được tranh luận và đánh giá lẫn nhau.
*) Khó khăn:
Đối với giáo viên : 
+ Giáo viên chưa linh hoạt và làm chủ thời gian trong việc hỗ trợ từng cá nhân, từng nhóm để em nào cũng cảm thấy mình được thầy cô quan tâm.
+ Giáo viên chưa điều hành hợp lí hoạt động giữa các cá nhân, các nhóm học sinh. Chính vì vậy mà nhịp độ học tập có độ chênh lệch nhau.
Đối với học sinh:
 	+ Học sinh còn quen phong cách chờ đợi giáo viên hướng dẫn từng thao tác, từng nhiệm vụ học tập, rất khó quen với tài liệu tự học.
 + Một số em chưa đủ mạnh dạn để hỏi thầy cô những nội dung, yêu cầu chưa hiểu trong tài liệu, các em sẽ không làm việc dẫn đến hiệu quả thảo luận trong các nhóm chưa cao.
+ Một số học sinh ( nhóm trưởng) không đủ mạnh dạn để đặt các câu hỏi gợi mở cho các bạn trong nhóm, chưa đủ tự tin để bảo nhau điều hành hoạt động nhóm.
- Đối với phụ huynh:
+ Một số phụ huynh học sinh chưa thực sự vào cuộc và chưa có nhiều hiểu biết về mô hình trường học mới VNEN . Chính vì vậy khi học sinh chia sẻ các bài tập ứng dụng với người thân thì kết quả chưa cao, còn mang tính đại khái.
2.2. Các nguyên nhân:
Trong quá trình giảng dạy và dự giờ các đồng nghiệp trong trường .Tôi nhận thấy rằng giáo viên chưa thường xuyên tổ chức các trò chơi Tiếng Việt cho học sinh trong giờ dạy do một số nguyên nhân sau đây:
- Giáo viên ngại vận dụng và tổ chức trò chơi vì thời gian của mỗi tiết học là có hạn, cơ sở vật chất không đáp ứng tốt cho việc tổ chức trò chơi .
- Để chuẩn bị cho một trò chơi trong tiết học người giáo viên phải chuẩn bị rất nhiều( đồ dùng học tập, các thiết bị dạy học, hình thức tổ chức, cách tổchức.) Vì vậy mỗi giáo viên khi tiến hành dạy học đều ngại vận dụng hơn.
- Khi tổ chức trò chơi giáo viên chưa hiểu hết mục đích của trò chơi ấy mang lại ý nghĩa gì? Vận dụng kiến thức gì cho môn học. Khi tổ chức các trò chơi thì giáo viên giao việc cho học sinh chưa rõ ràng, cụ thể . Thời gian quy định cho mỗi hoạt động chơi chưa rõ ràng.
 	- HS chưa nắm được cách chơi, luật chơi, học sinh chưa mạnh dạn, tự tin để tham gia trò chơi..
 	Chính vì những nguyên nhân đó bản thân tôi cần nhận thấy phải có những phương pháp dạy học phù hợp hơn trong quá trình giảng dạy môn Tiếng Việt 3 theo mô hình trường học mới VNEN.
3. Giải pháp, biện pháp:
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
 	 Lấy học sinh làm trung tâm, học sinh được học theo khả năng của riêng mình tự quản, hợp tác và tự giác cao trong học tập. Nội dung học gắn bó chặt chẽ với đời sống hằng ngày của học sinh. Từ đó góp phần hình thành nhân cách, giá trị dân chủ, ý thức tập thể theo xu hướng thời đại cho học sinh.
 HS phải tham gia các hoạt động học tập một cách tích cực, hứng thú, tự tin và tự nhiên. Tạo cho học sinh tính tự giác, tích cực trong học tập.Nhóm trưởng đóng vai trò chính trong tiết học hướng dẫn, điều hành tiết học hướng dẫn nhẹ nhàng dưới sự trợ giúp đúng mức, đúng lúc của giáo viên, sách giáo khoa, đồ dùng dạy học Tiếng Việt, để từng học sinh (từng nhóm học sinh) tự phát hiện, phân tích và tự giải quyết vấn đề của bài học, tự chiếm lĩnh nội dung kiến thức và có thể vận dụng được kiến thức đó vào luyện tập thực hành, giúp cho việc phát triển năng lực cá nhân học sinh.
Giáo viên cần linh hoạt về nhịp độ học tập tùy theo đối tượng học sinh. 
Phụ huynh và cộng đồng phối hợp chặt chẽ với giáo viên giúp đỡ học sinh một cách thiết thực trong các hoạt động giáo dục; tham gia giám sát việc học tập của con em mình. 
 Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng trường học kiểu mới VNEN. Thay thế các phương pháp dạy học đơn điệu ít tác dụng bằng các phương tiện kĩ thuật hiện đại. Giúp học sinh hứng thú trong học tập, hiểu sâu, nhớ lâu kiến thức.
Trò chơi học tập là trò chơi mà luật của nó bao gồm các qui tắc gắn với kiến thức kĩ năng có được trong hoạt động học tập, gắn với nội dung bài học, giúp học sinh khai thác vốn kinh nghiệm của bản thân để chơi, thông qua chơi học sinh được vận dụng các kiến thức kĩ năng đã học vào các tình huống trò chơi và do đó học sinh được luyện tập thực hành củng cố, mở rộng kiến thức, kĩ năng đã học.
 	Trò chơi học tập làm thay đổi hình thức hoạt động của học sinh, tạo ra bầu không khí dễ chịu thoải mái trong giờ học,giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự giác tích cực.Giúp học sinh rèn luyện củng cố kiến thức đồng thời phát triển vốn kinh nghiệm được tích luỹ qua hoạt động chơi.
 	Trò chơi học tập rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, thúc đẩy hoạt động trí tuệ, nhờ sử dụng trò chơi học tập mà quá trình dạy học trở thành một hoạt động vui và hấp dẫn hơn, cơ hội học tập đa dạng hơn.
 	Trò chơi không chỉ là phương tiện mà còn là phương pháp giáo dục. Như Bác Hồ đã nói: “Trong lúc học cũng cần cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần cho chúng học”.
3.2: Nội dung và các cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
3.2.1 Nội dung chương trình, tài liệu học tập 3 trong 1 ở các bài A, B, C môn Tiếng Việt lớp 3:
1. Thời lượng hướng dẫn học tập Tiếng Việt 3- Bài A (Thời lượng 2 tiết):
- Đọc và hiểu một văn bản (văn bản đọc dạy trong 1,5 tiết của SGK TV 3 hiện hành)
- Luyện tập kĩ năng nói về chủ điểm mới.
 2. Thời lượng hướng dẫn học tập Tiếng Việt 3- Bài B (Thời lượng 3 tiết):
- Kể chuyện (kể câu chuyện đã đọc ở bài A).
- Củng cố chữ viết hoa: chữ cái, từ ngữ, câu.
- Nghe viết, nhớ viết đoạn văn,thơ.
 3.Thời lượng hướng dẫn học tập Tiếng Việt 3- Bài C (Thời lượng 3 tiết):
- Đọc và hiểu một văn bản (văn bản đọc dạy trong 1 tiết của SGK TV 2 hiện hành).
- Luyện tập về từ và câu.
- Luyện nói theo chủ điểm mới để chuẩn bị cho bài viết đoạn văn.
- Viết đoạn văn về chủ điểm mới.
- Luyện tập viết từ đúng quy tắc chính tả.
3.2.2.Nội dung học tập ở các bài A,B, C :
 - Mỗi hoạt động học tập là một đơn vị bài học Tiếng Việt
 - Mỗi cụm bài học dùng trong 1 tuần gồm 3 bài với 3 hoạt động học tập (Ví dụ : bài 1A, 1B, 1C) 
 - Mỗi hoạt động học tập gồm 2 phần :
+ Phần Mục tiêu : nêu yêu cầu về kiến thức, kĩ năng học sinh cần đạt sau khi học xong bài.
+ Phần Hoạt động bao gồm 3 loại hoạt động :
 A. Hoạt động cơ bản với các chức năng : 
- Khơi dậy hứng thú, đam mê của học sinh với bài mới . 
- Giúp học sinh tái hiện những kiến thức và kĩ năng học sinh đã có.
- Giúp học sinh kết nối những kiến thức, kĩ năng đã có với kiến thức, kĩ năng mới .
- Giúp học sinh thu nhận kiến thức, kĩ năng mới qua các hoạt động cụ thể như : quan sát, thảo luận,phân tích.
- Giúp học sinh củng cố kiến thức, kĩ năng mới một cách thú vị qua các trò chơi, qua đọc sáng tạo, qua chia sẻ kinh nghiệm và vốn sống của cá nhân.
 B. Hoạt động thực hành với chức năng : củng cố kiến thức, kĩ năng mới bằng cách quan sát để nhận diện kiến thức, kĩ năng mới trong bối cảnh khác .
 C. Hoạt động ứng dụng với chức năng : hướng dẫn học sinh áp dụng những kiến thức, kĩ năng mới vào cuộc sống thực của các em tại gia đình, cộng đồng. 
3.2.3 Cách hình thức dạy học theo mô hình VNEN:
Trong dạy học Tiếng Việt người giáo viên cần biết vận dụng linh hoạt và lựa chọn các phương pháp vào từng hoạt động của các dạng bài học, để hướng dẫn học sinh tự tìm tòi chiếm lĩnh kiến thức mới, hướng dẫn học sinh thực hành hình thành và rèn luyện kĩ năng Tiếng Việt, hướng dẫn học sinh giảng giải kết hợp việc vận dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ, hay trò chơi Tiếng Việt, nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới trong dạy học Tiếng Việt 3. 
 Tổ chức dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động là mấu chốt của vấn đề đổi mới.Vì vậy khi giảng dạy giáo viên cần kết hợp các hình thức tổ chức dạy học: 
1. Qui trình 5 bước dạy của giáo viên:
Bước 1: Tạo hứng thú cho học sinh.
Bước 2. Tổ chức cho học sinh trải nghiệm.
Bước 3. Phân tích khám phá rút ra kiến thức mới.
Bước 4. Thực hành.
Bước 5. Ứng dụng.
2. 10 Bước học tập của học sinh:
+ Bước 1. Chúng em làm việc nhóm. Nhóm trưởng lấy tài liệu và đồ dùng học tập cho cả nhóm.
+ Bước 2. Em đọc tên bài học rồi viết tên bài học vào vở ô li (lưu ý không được
viết vào sách).
+ Bước 3. Em đọc mục tiêu của bài học.
+ Bước 4. Em bắt đầu hoạt động cơ bản (nhớ xem phải làm việc cá nhân hay theo nhóm).
+ Bước 5. Kết thúc hoạt động cơ bản em gọi thầy, cô giáo để báo cáo những gì em đã làm được để thầy, cô ghi vào bảng đo tiến độ.
+ Bước 6. Em thực hiện hoạt động thực hành:
- Đầu tiên em làm việc cá nhân. 
- Em chia sẻ với bạn ngồi cùng bàn (giúp nhau sửa chữa những bài làm còn sai sót).
- Em trao đổi với cả nhóm. Chúng em sửa cho nhau, luân phiên nhau đọc... (lưu ý không làm ảnh hưởng đến nhóm khác).
+ Bước 7. Hoạt động ứng dụng (gắn liền với gia đình và địa phương).
+ Bước 8. Chúng em đánh giá cùng thầy, cô giáo.
+ Bước 9. Kết thúc bài, em viết vào bảng đánh giá (nhớ suy nghĩ kĩ khi viết và lưu ý về đánh giá của thầy, cô giáo).
 + Bước 10. Em đã học xong bài mới hoặc em phải học lại phần nào.
3.2.4. Một số nguyên tắc thiết kế trò chơi học tập
 Tổ chức trò chơi học tập mỗi chúng ta phải dựa vào nội dung bài học, điều kiện thời gian trong mỗi tiết học cụ thể để đưa ra các trò chơi cho phù hợp, song muốn tổ chức được trò chơi trong dạy luyện từ và câu có hiệu quả cao thì đòi hỏi mỗi giáo viên phải có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, cặn kẽ và đảm bảo các yêu cầu sau:
- Trò chơi mang ý nghĩa giáo dục.
- Trò chơi phải nhằm mục đích củng cố, khắc sâu nội dung bài học.
- Trò chơi phải phù hợp với tâm sinh lí của học sinh lớp, phù hợp với khả năng người hướng dẫn và cơ sở vật chất của nhà trường.
- Hình thức tổ chức trò chơi phải đa dạng, phong phú.
- Trò chơi phải chuẩn bị chu đáo .
- Trò chơi phải gây hứng thú với học sinh.
 3.2.5.Cấu trúc của trò chơi học tập.
- Tên trò chơi.
- Mục đích: Nêu rõ mục đích của trò chơi nhằm ôn luyện, củng cố kiến thức, kĩ năng nào. Mục đích của trò chơi sẽ qui định hành động chơi được thiết kế trong trò chơi.
- Đồ dùng, đồ chơi: Mô tả đồ dùng, đồ chơi được sử dụng trong trò chơi học tập.
- Nêu lên luật chơi: Chỉ rõ qui tắc của hành động chơi qui định đối với người chơi, qui định thắng thua của trò chơi.
- Số người tham gia chơi: Cần chỉ rõ số người tham gia chơi.
2.3.6.Cách tổ chức chơi:
- Thời gian tiến hành thường từ 5-7 phút.( tiến hành ngay đầu tiết học hoặc có thể lồng ghép trong mỗi bài tập, cuối bài học) nhằm thu hút sự chú ý và củng cố kiến thức một cách vững chắc hơn qua mỗi loại bài tập tương ứng với mỗi loại kiến thức.
- Đầu tiên là giới thiệu trò chơi : 
+ Nêu tên trò chơi.
+ Hướng dẫn trò chơi bằng cách vừa mô tả vừa thực hành, nêu rõ qui định chơi.
- Chơi thử và qua đó nhấn mạnh luật chơi .
- Chơi thật.
- Nhận xét kết quả chơi, thái độ của người tham dự, giáo viên có thể nêu thêm những tri thức được học tập qua trò chơi, những sai lầm cần tránh.
- Thưởng - phạt: phân minh, đúng luật chơi, sao cho người chơi chấp nhận thoải mái và tự giác làm trò chơi thêm hấp dẫn, kích thích học tập của học sinh.Phạt những học sinh phạm luật chơi bằng những hình thức đơn giản, vui như hát một bài, nhảy cò cò
3.2.7. Một số trò chơi được áp dụng trong quá trình học môn Tiếng Việt 3
1. Trò chơi:” XẾP ĐÚNG TRANH”
*Mục đích:
- HS xếp được đúng các tranh theo thứ tự đúng với trình tự câu chuyện.
* Chuẩn bị :
- Các bộ tranh rời ứng với mỗi câu chuyện.
* Cách tổ chức:
- Số đội chơi: Chơi theo vị trí nhóm của mô hình VNEN.
- Thời gian chơi: 3-5 phút.
- Cách chơi:
+ Nhóm trưởng nhận bảng nhóm và bộ tranh rời từ góc học tập. 
+ Cho các bạn trong nhóm quan sát nhanh và nêu được tranh đó ứng với nội dung của đoạn nào trong câu chuyện đã học.
+ Xếp tranh và đoạn ứng với nội dung câu chuyện.
+ Báo cáo kết quả nhóm thực hiện với thầy cô.
+ Cách đánh giá hoàn thành: nhóm nào dán nhanh và đúng với thứ tự nội dung câu chuyện nhóm đó sẽ nhận được 3 tràng pháo tay khen ngợi.
-Với trò chơi này tôi áp dụng trong các bài: Bài 2B “ Ai là con ngoan- HĐ 2- HĐCB” Bài 5B “ Biết nhận lỗi và sử lỗi- HĐ1 của HĐCB” Bài 6B “ Em là con ngoan, trò giỏi- HĐ1 của HĐCB”.
 2. Trò chơi “ HÁI HOA” 
* Mục đích:
- Giúp HS ôn lại các bài tập đọc và học thuộc lòng đã học trong chương trình.
- Trả lời được các câu hỏi có liên quan đến bài đọc .
* Chuẩn bị:
- Chuẩn bị các bông hoa giấy để làm phiếu. Trên mỗi bông hoa ghi tên 1 bài hoặc 1 đoạn của bài tập đọc đã học trong chương trình.
*Cách tổ chức:
- Số lượng học sinh : từng các nhân tham gia chơi ( khoảng từ 10- 12 em chơi).
- Thời gian chơi : 20- 25 phút.
- Cách chơi: 
+ Giáo viên treo phiếu hoa lên cây để hái.
 + Từng em lên bốc hoa nhận yêu cầu của mình,thực hiện các yêu cầu ghi trên phiếu.
 + Học sinh khác nghe và nhận xét về giọng đọc của bạn và câu trả lời của bạn - Giáo viên nhận xét đánh giá.
 + Bình chọn bạn đọc hay và trả lời đúng- Tuyên dương trước lớp.
Với trò chơi này tôi tổ chức trong các bài : Bài 18 A “ Ôn tập 1- HĐCB” Bài 27 A” Ôn tập 1- HĐ 1 của HĐCB” bài 27 C “ Ôn tập 3- HĐ1 của HĐCB”
3. Trò chơi “ GHÉP CHỮ”
* Mục đích:
- Tìm tiếng có thể ghép với mỗi tiếng để tạo thành từ ngữ
- Luyện trí thông minh nhanh tay,nhanh mắt.
* Chuẩn bị: Bảng nhóm và thẻ tiếng
*Cách tổ chức:
Ví dụ : Bài 2C: THẬT LÀ NGOAN!
B. Hoạt động thực hành
1. Tìm các tiếng có thể ghép với mỗi tiếng sau để tạo từ ngữ.
 - xét, sét.
 xào, sào.
 xinh, sinh.
 - Số đội chơi: 6 đội.Mỗi đội gồm 3 em tham gia.(HS cả lớp cổ vũ và làm trọng tài)
-Thời gian chơi từ 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_to_chuc_tro_choi_nham_gay_hung_thu_cho.doc