SKKN Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc đúng, đọc tốt cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Thọ Tiến

SKKN Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc đúng, đọc tốt cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Thọ Tiến

 Trong chương trình môn Tiếng Việt ở nhà trường Tiểu học hiện nay, tập đọc là phân môn có tầm quan trọng bậc nhất, nếu học sinh đọc, viết kém thì khó mà học tốt được các môn học khác. Học sinh đọc tốt thì khi học các phân môn khác mới đọc đúng, hiểu đúng nội dung bài, hiểu đúng yêu cầu của bài tập để làm bài chính xác hiệu quả.

Tập đọc cung cấp cho học sinh cả 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Kỹ năng đọc được hình thành thông qua các bài học. Tính chất của việc thực hành đòi hỏi giáo viên cần coi trọng việc luyện đọc thật tốt cho học sinh qua phân môn tập đọc. Vì thế tập đọc là yêu cầu không thể thiếu được đối với người đi học. Đọc giúp trẻ chiếm lĩnh được ngôn ngữ dùng trong giao tiếp và học tập, nó không những có quan hệ mật thiết với chất lượng học tập ở các môn học khác mà còn góp phần rèn luyện một trong các kỹ năng hàng đầu của việc học Tiếng Việt trong nhà trường. Kỹ năng đọc - tập đọc giúp cho việc rèn năng lực đọc thông, viết thạo. Mặt khác, tập đọc còn hình thành cho các em phẩm chất mới như: tính kỷ luật, tính cần cù tỉ mỉ, tính năng động, sáng tạo.Việc dạy học tập đọc sẽ giúp các em hiểu nhiều hơn, bồi dưỡng cho các em lòng yêu cái thiện, cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách lô- gíc cũng như có hình ảnh. Như vậy dạy đọc mang một ý nghĩa vô cùng to lớn vì nó bao gồm các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.

 Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kĩ năng cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “đọc” đó là: đọc lưu loát, trôi chảy, đọc có ý thức và tiến tới đọc diễn cảm. Để góp phần nâng cao chất lượng học môn Tiếng Việt nói chung và đặc biệt là kĩ năng đọc nói riêng cho học sinh lớp 3 ở trường Tiểu học Thọ Tiến bản thân tôi đã thực hiện: “Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc đúng, đọc tốt cho học sinh lớp 3 ở trường Tiểu học Thọ Tiến” và đã đạt được hiệu quả cao trong dạy học.

 

doc 17 trang thuychi01 34275
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc đúng, đọc tốt cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Thọ Tiến", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Mục
Nội dung
Trang
Mục lục
1
1
PHẦN MỞ ĐẦU
2
1.1
Lí do chọn đề tài
2
1.2
Mục đích nghiên cứu
2
1.3
Đối tượng nghiên cứu 
2
1.4
Phương pháp nghiên cứu
3
2
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
3
2.1
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
3
2.2
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3
2.3
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
4
2.3.1
Biện pháp rèn cho học sinh đọc đúng các tiếng, từ.. dễ nhầm lẫn
4
2.3.2
Luyện ngắt, nghỉ hơi đúng trong câu, đoạn, bài tập đọc.
6
2.3.3
Biện pháp luyện đọc thành tiếng đoạn, bài 
8
2.3.4
Luyện đọc thầm
12
2.3.5
Luyện đọc qua các buổi sinh hoạt tập thể.
12
2.3.6
Luyện đọc qua tổ chức các trò chơi 
13
2.3.7
Luyện đọc ở nhà
13
2.4
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. 
13
3
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
14
Kết luận
14
Kiến nghị
14
Tài liệu tham khảo
16
Danh mục các đề tài sáng kiến kinh nghiệm.
17
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG ĐỌC ĐÚNG, ĐỌC TỐT 
CHO HỌC SINH LỚP 3 Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC THỌ TIẾN
1. PHẦN MỞ ĐẦU
 1.1. Lí do chọn đề tài
 Trong chương trình môn Tiếng Việt ở nhà trường Tiểu học hiện nay, tập đọc là phân môn có tầm quan trọng bậc nhất, nếu học sinh đọc, viết kém thì khó mà học tốt được các môn học khác. Học sinh đọc tốt thì khi học các phân môn khác mới đọc đúng, hiểu đúng nội dung bài, hiểu đúng yêu cầu của bài tập để làm bài chính xác hiệu quả.
Tập đọc cung cấp cho học sinh cả 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Kỹ năng đọc được hình thành thông qua các bài học. Tính chất của việc thực hành đòi hỏi giáo viên cần coi trọng việc luyện đọc thật tốt cho học sinh qua phân môn tập đọc. Vì thế tập đọc là yêu cầu không thể thiếu được đối với người đi học. Đọc giúp trẻ chiếm lĩnh được ngôn ngữ dùng trong giao tiếp và học tập, nó không những có quan hệ mật thiết với chất lượng học tập ở các môn học khác mà còn góp phần rèn luyện một trong các kỹ năng hàng đầu của việc học Tiếng Việt trong nhà trường. Kỹ năng đọc - tập đọc giúp cho việc rèn năng lực đọc thông, viết thạo. Mặt khác, tập đọc còn hình thành cho các em phẩm chất mới như: tính kỷ luật, tính cần cù tỉ mỉ, tính năng động, sáng tạo...Việc dạy học tập đọc sẽ giúp các em hiểu nhiều hơn, bồi dưỡng cho các em lòng yêu cái thiện, cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách lô- gíc cũng như có hình ảnh. Như vậy dạy đọc mang một ý nghĩa vô cùng to lớn vì nó bao gồm các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
 Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kĩ năng cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “đọc” đó là: đọc lưu loát, trôi chảy, đọc có ý thức và tiến tới đọc diễn cảm. Để góp phần nâng cao chất lượng học môn Tiếng Việt nói chung và đặc biệt là kĩ năng đọc nói riêng cho học sinh lớp 3 ở trường Tiểu học Thọ Tiến bản thân tôi đã thực hiện: “Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc đúng, đọc tốt cho học sinh lớp 3 ở trường Tiểu học Thọ Tiến” và đã đạt được hiệu quả cao trong dạy học.
 1.2. Mục đích nghiên cứu:
 Tôi nghiên cứu áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này để nâng cao chất lượng đọc cho học sinh lớp 3, từ kết quả đó đề xuất một số biện pháp thực hiện nhằm nâng cao chất lượng về đọc đúng, đọc tốt cho học sinh khói 3 nói riêng và học sinh trong trường Tiểu học Thọ Tiến nói chung.
 1.3. Đối tượng nghiên cứu:
 Các kĩ năng dạy đọc đúng, đọc tốt cho học sinh lớp 3 qua việc nghiên cứu cơ sở lí luận ngôn ngữ học, hiểu rõ quá trình đọc, nắm bản chất kỹ năng đọc phù hợp với lứa tuổi và đặc điểm vùng miền của học sinh ở địa phương.
 1.4. Phương pháp nghiên cứu
 Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
 Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
 Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
 Phương pháp nghiên cứu sản phẩm. 
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
 Sang lớp 3 yêu cầu về phân môn Tập đọc của học sinh cao hơn hẳn so với lớp 2. Từ chỗ chỉ cần đọc đúng và trôi chảy một đoạn văn, đoạn đối thoại hoặc một bài văn ngắn, bước đầu biết đọc thầm và hiểu được ý chính của đoạn ở lớp 2, đến lớp 3 các em cần đọc đúng, rõ ràng, rành mạch các đoạn đối thoại, các văn bản nghệ thuật, hành chính, báo chí,... với tốc độ từ 70 đến 80 tiếng/ phút. Đọc thầm có tốc độ nhanh hơn ở lớp 2, bên cạnh đó học sinh lớp 3 còn cần phải nắm được ý chính của của đoạn văn, biết đặt đầu đề cho đoạn văn, biết nhận xét về một số hình ảnh, nhân vật hoặc chi tiết trong bài đọc.
 Nói rộng ra, dạy Tập đọc ở lớp 3 nói riêng và bậc Tiểu học nói chung là nhằm hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt ngày càng cao hơn để các em học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi [1,5].
 2.2.Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
 a. Đối với giáo viên 
 Giáo viên chuẩn bị bài lên lớp đôi khi chưa thật sự chu đáo (như công tác chuẩn bị đồ dùng dạy học còn hạn chế...)
 Giáo viên sống ở vùng nông thôn chịu ảnh hưởng nhiều tiếng địa phương nên việc phát âm vẫn chưa được chuẩn.
 Khi học sinh đọc, giáo viên chưa kịp thời sửa sai cho học sinh, chưa động viên kịp thời cho các em.
 b. Đối với học sinh
 Học sinh phần đa là con gia đình nông thôn, gia đình hoàn cảnh khó khăn bố mẹ đi làm ăn xa, ở với ông bà như em: Vũ Văn Thắng, Lại Thị Thu Hường, Dương Văn Vũ..., Một số em phát âm không chuẩn vì quá ngọng: Lê Đình Việt, Lê Thị Huyền Trang, Đỗ Ngọc Thắng....
 Qua thực tế giảng dạy ở lớp vào đầu năm học, tôi nhận thấy trong lớp có nhiều học sinh đọc còn chậm, đọc còn sai, sót từ, đa số các em ngắt nghỉ hơi chưa đúng ở các dấu câu và giữa cụm từ, số học sinh có khả năng nắm được nội dung đoạn (bài) sau khi đọc còn ít. Khả năng đọc lưu loát bài văn, bài thơ còn vài em. Trong lớp có nhiều học sinh chưa tự giác học dẫn đến chất lượng học sinh khá thấp. Mặt khác trong môi trường giao tiếp tại gia đình các em hầu như ngôn ngữ nói chỉ dừng lại ở mức độ giao tiếp sơ đẳng hàng ngày trong mối quan hệ với người thân. Gia đình các em chưa quan tâm chỉ phó mặc cho giáo viên, nhiều em đến lớp còn thiếu sách vở, đồ dùng học tập...
 Trong mục 2.1 tham khảo SGV TV 3 tập 1, Chuẩn kiến thức kĩ năng lớp 3
Khảo sát chất lượng đọc của các em kết quả như sau:
Tổng số HS
Đọc đúng
Đọc diễn cảm
 Đọc sai vần, dấu
Đọc sai
phụ âm
Đọc ngọng
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
28
11
39,3%
3
10,7%
5
17,8%
5
17,8%
4
14,4%
 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
 2.3.1. Biện pháp rèn cho học sinh đọc đúng các tiếng, từ... dễ nhầm lẫn
 - Đối với các tiếng có phụ âm đầu dễ lẫn như: x/s, r/d, ch/tr,  
 Trong các bài dạy có âm dễ lần hoặc dễ đọc sai, giáo viên cần mô tả tỉ mỉ cách phát âm nhiều hơn. Cần so sánh để thấy sự khác nhau về cấu tạo, cách phát âm các âm đó, giáo viên phải phát âm chuẩn xác đồng thời nói rõ cách phát âm như thế nào để học sinh nắm bắt được, phân biệt được các âm sau đó yêu cầu học sinh phát âm lại, thi tìm tiếng có âm đó để học sinh nhớ kĩ. Mục đích là để học sinh nắm chắc cách phát âm cũng như phân biệt cấu tạo của âm dễ lẫn đó. Giáo viên cần phát âm nhiều lần cụ thể hai tiếng có âm đó để học sinh nhận rõ sự khác nhau như thế nào giữa cách phát âm của hai âm, từ đó học sinh có thể tự phát âm một cách chính xác.
 Cụ thể Phân biệt tr/ch, x/s, r/d...
 Giáo viên hướng dẫn học sinh:
 Khi phát âm tiếng có âm tr thì lưỡi phải cong lên, đầu lưỡi chạm vào hàm trên, miệng há to. 
 Học sinh tự phát hiện cách phát âm các âm này (cong lưỡi...), sau đó các em tự tập phát âm cho bạn quan sát.
 Học sinh phát âm đồng thanh, cá nhân, lớp nghe và phát hiện các lỗi sai khi bạn đọc, sửa sai cho bạn cũng chính là giúp các em luyện đọc đồng thời giáo viên theo dõi, sửa chữa phát âm cho học sinh. 
 Cần luyện nhiều cho những học sinh đọc còn hạn chế.	
 Ví dụ 1: Phân biệt tr/ch, x/s, r/d
 Từ: “trống trường” học sinh thường đọc là “chống chường”, trước hết giáo viên phát âm thật chính xác, yêu cầu học sinh nhìn miệng và nghe giáo viên phát âm, sau đó phân tích cụ thể, tỉ mỉ từng tiếng, cách phát âm “tr”, để học sinh nắm được cấu tạo đồng thời giải thích cho học sinh hiểu thêm về ý nghĩa của từ, tìm các từ có âm “tr”, các từ có âm “ch” để các em phân biệt được cách phát âm “tr” từ đó các em đọc sẽ đúng hơn.
 Sau đó tôi tổ chức cho các em thi tìm tiếng, từ có chứa âm tr/ch, s/x, r/d như: tranh/chanh, se/xe, xanh/sanh, ru/du... rồi cho các em so sánh và đọc lại. Từ đó khi đọc từ có tiếng chứa âm đầu tr/ch, s/x, r/d các em đọc sẽ không bị sai nữa [3].
 Ví dụ 1 tham khảo sách TV 3 tập 1.
 - Luyện đọc các tiếng có vần dễ lẫn
 Các tiếng có vần kết thúc là “i - y ; t - p, m - ng”... ; không những dễ lẫn mà các em còn đọc ngọng. Cho nên khi luyện đọc giáo viên phải cho học sinh phân tích cấu tạo tiếng rồi so sánh sự giống, khác nhau giữa các tiếng, kết hợp đọc nhiều lần để học sinh nhớ lâu. Đồng thời, giáo viên có thể sử dụng tranh minh hoạ để học sinh quan sát, phân biệt.
 Ví dụ 2: 
 Học sinh đọc tiếng “xoa” đọc thành “sao”, tiếng “khỏe” đọc thành “khẻo”, tiếng “máy bay” đọc thành “máy bai”, ....
 Thực tế khi tôi dạy đến những bài này rất vất vả, học sinh ban đầu đa số phát âm sai nhưng tôi không ngại khó đã kiên nhẫn luyện cho các em: Trước hết tôi đọc mẫu chính xác, cho học sinh luyện đọc nhiều lần đồng thời cho phân tích thật kĩ sau đó tìm các tiếng có các vần trên luyện đọc, cho học sinh đọc thầm và so sánh, phân biệt để học sinh thấy được sự khác nhau giữa các vần. Từ đó các em sẽ đọc tốt hơn. Kết quả cho thấy đa số các em đã đọc đúng. 
 Không chỉ luyện đọc đúng tiếng, từtrong các bài học mà trong các tiết tăng cường Tiếng Việt tôi cũng luôn đưa ra những bài tập phân biệt phụ âm đầu và vần để giúp các em phát âm tốt hơn [ 3]. 
 - Luyện đọc các tiếng, từ học sinh hay đọc nhầm lẫn
 Điều chỉnh mục tiêu luyện đọc các từ khó cần luyện đọc trong một số bài tập đọc cho phù hợp với trình độ học sinh, phù hợp với vùng, miền của lớp mình đang dạy, (không nhất thiết phải theo đúng yêu cầu của từng bài).
 Ví dụ 3: 
 Do đặc điểm của địa phương nên khi học sinh đọc từ “búp sen” đọc thành “bứp sen”, đọc từ “giúp đỡ” thành “giứp đỡ”, khoẻ - khẻo, mưa - mư, mai - may Để tránh đọc nhầm lẫn các tiếng này, tôi cho học sinh phân tích kĩ phần vần cụ thể vần “oe - eo”, so sánh vần để thấy được sự khác nhau với mục đích là để cho học sinh nắm được: cả hai vần đều có âm o và âm e nhưng vần oe được bắt đầu là âm o, còn vần eo thì bắt đầu bởi âm e. Tiếp theo cho học sinh thể hiện trên bảng cài: Ghép tiếng: khoẻ- khẻo để so sánh và tìm ra sự khác nhau luyện đọc cho đúng. Ngoài ra, khi so sánh hai tiếng giáo viên cũng có thể đưa ra tranh vẽ kèm theo lời giải thích rồi so sánh để học sinh thấy rõ sự khác nhau đó. Từ đó các em sẽ đọc đúng hơn [4].
 Cuối giờ học phần này, giáo viên kết hợp với trò chơi sẽ đem lại hiệu quả cao. 
 Ví dụ 4:
 - Thi tìm tiếng, từ có vần dễ lẫn.
 - Thi ghép tiếng với các tiếng để tạo thành từ.
 - Thi viết tiếng, từ dễ lẫn vào bảng con...
 Ví dụ 2 do tác giả tự viết
 Ví dụ 3 tham khảo sách TV 3 tập 2
 2.3.2. Luyện ngắt, nghỉ hơi đúng trong câu, đoạn, bài tập đọc 
 - Việc học sinh ngắt hơi chưa đúng chỗ phần lớn là do giáo viên hướng dẫn chưa kĩ. Trong mỗi giờ tập đọc, giáo viên cần coi việc hướng dẫn cách ngắt nghỉ hơi là tối quan trọng. Việc nắm bắt được ý nghĩa, nội dung của từ câu, đoạn văn giúp học sinh có thể đọc đúng và không khô khan. Để thực hiện được điều đó, giáo viên phải tạo ra sự cộng hưởng cảm xúc giữa học sinh và bài đọc. Giọng đọc của mỗi bài, mỗi đoạn mang một màu sắc riêng, định ra giọng đọc là kết quả của quá trình tìm hiểu và cảm thụ bài.
 Ví dụ 5 : Câu trong bài: “Cóc kiện trời’’ 
 “Cóc thấy nguy quá,/ bèn lên thiên đình kiện trời.//” 
 Câu trong bài: “Ở lại với chiến khu’’ trang 13, Sách TV 3- Tập 2). 
 “Những lời van xin thơ ngây mà thống thiết, van xin được chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc của các chiến sĩ nhỏ tuổi/ làm trung đoàn trưởng rơi nước mắt [4].
 Sau khi học sinh phát hiện câu dài, giáo viên ghi vào băng giấy hoặc bảng phụ gọi 1, 2 em đọc. Các em khác nhận xét bạn ngắt nghỉ đúng chưa, ngắt hơi, nghỉ hơi sau với những tiếng nào, em có đồng ý không ? Mời em đó đọc lại. Học sinh đọc và ngắt hoặc nghỉ để các bạn khác nhận xét bổ sung và giáo viên thống nhất cách đọc. 
 - Đối với bài: có người dẫn truyện các nhân vật trong truyện cho học sinh đóng vai và đọc theo lời nhân vật và người dẫn truyện. Gọi học sinh lên đọc, các em ở dưới là giám khảo nghe, chấm, nhận xét xem bạn nào, nhóm nào, đọc hay. Giáo viên cùng cả lớp động viên khuyến khích học sinh đọc tốt để các em đọc tốt hơn.
 Ví dụ 6:
 Khi dạy bài “Cuộc chạy đua trong rừng” (trang 80, Sách TV 3- Tập 2) tôi hướng dẫn học sinh thể hiện cách đọc như sau:
 Giọng người dẫn chuyện: Giọng đọc vui vẻ 
 Giọng Ngựa cha ôn tồn 
 Giọng Ngựa Con ngúng nguẩy...
 Giáo viên hướng dẫn cho học sinh đọc phân vai sẽ gây hứng thú cho các em nhiều hơn và từ đó luyện cho các em đọc đúng các câu hỏi, câu trả lời trong bài [4].
 Luyện cho học sinh có ý thức về ngữ điệu khi đọc. Sau này tôi hướng dẫn học sinh đọc kĩ bài. Hướng dẫn luyện đọc nhiều lần các câu dài có nhiều dấu phẩy hoặc những câu có những chỗ cần ngắt giọng theo yêu cầu nội dung bài, cũng cần rèn cho học sinh đọc các câu hỏi, câu cầu khiến, câu cảm. 
 Trong các bài Tập đọc thường cho sẳn chỗ ngắt, nghỉ bằng dấu phẩy, dấu chấm. Tôi nhắc học sinh biết và nhớ quy tắc gặp dấu phẩy, dấu chấm đều nghỉ hơi. Dấu phẩy nghỉ hơi bằng nửa dấu chấm. Đặc biệt có một số bài có câu dài, học sinh phải nghỉ hơi ngay cả khi không có dấu câu.
 Ví dụ 5, ví dụ 6 tham khảo sách TV 3 tập 2
 Từ việc hướng dẫn cụ thể như vậy, học sinh biết ngắt nghỉ hơi đúng chỗ, nên giọng đọc chuẩn xác, có ý thức phát âm tốt. Trong khi tiến hành luyện đọc cho các em. Tôi thường tổ chức cho các đọc nối tiếp các câu trong bài. Khi tổ chức hình thức này tôi thường qui định các em ngồi cùng dãy (ngang, dọc) tự động đọc, tôi có thể linh hoạt khi thì gọi em đầu tiên theo dãy dọc, lúc thì gọi em ngồi phía bên trái theo dãy hàng ngang. Bằng cách này tôi yêu cầu tất cả học sinh trong lớp phải chú ý bạn khác đọc. Cuối mỗi giờ học tôi thường tổ chức cho các em thi đọc diễn cảm hay học thuộc lòng một đoạn thơ, đoạn văn theo nhiều hình thức như cá nhân, tổ, nhóm. Với hình thức này lớp tôi đã nâng cao chất lượng đọc rõ rệt.
 - Rèn đọc diễn cảm, đọc hay.
 §èi víi häc sinh líp 3. Yªu cÇu häc sinh ®äc ®óng, diÔn c¶m lµ yªu cÇu träng t©m, nªn ph¶i dµnh thêi gian thÝch hîp.
 Đối với văn bản nghệ thuật, các bài văn xuôi
 Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm thông qua việc dẫn dắt gợi mở để học sinh thể hiện tình cảm, thái độ qua giọng đọc phù hợp với hình ảnh, cảm xúc trong bài thơ, phù hợp tính cách nhân vật trong bài văn (Bước đầu biết làm chủ được giọng đọc đối với ngữ điệu, tốc độ, cao độ, trường độ, âm sắc nhằm diễn tả đúng nội dung bài. Đọc diễn cảm phù hợp với sự cảm nhận riêng của từng cá nhân. Giáo viên có thể viết khổ thơ ra bảng, giấy gắn trên bảng để học sinh tìm ra cách đọc).
 Ví dụ 7: Bài: “Mặt trời xanh của tôi” Gọi 1, 2 em học sinh đọc tốt đọc diễn cảm; nếu HS chưa đọc được thì GV đọc, kết hợp hướng dẫn với Giọng nhẹ nhàng, trìu mến, nghỉ hơi dài khi kết thúc. Sau đó gọi một em đọc lại: Đọc bốn câu thơ sau: 
Đã có ai lắng nghe/ 
Tiếng mưa trong rừng cọ/
Như tiếng thác dội về/ 
Như ào ào trận gió.//
 Trong khi đọc giáo viên hướng dẫn đọc đúng đối với những câu thơ sau dấu chấm. Đối với các câu cảm, câu hỏi trong bài, giáo viên hướng dẫn các em đọc đúng giọng của từng loại câu đó thì mới bộc lộ được cảm xúc của từng cảnh vật và của tác giả [4].
 Giáo viên hướng dẫn các học sinh cần đọc đúng ngữ điệu khi đọc câu hỏi 
như nhấn giọng từ để hỏi, cao giọng ở cuối câu. Nếu học sinh đọc chưa hay giáo viên có thể đọc mẫu cho học sinh để học sinh nghe giọng đọc, để tự điều chỉnh mình đọc theo giáo viên. Để Học sinh đọc tốt giáo viên cần tạo niềm say mê hứng thú cho học sinh.
 Đối với văn bản phi nghệ thuật
 Hướng dẫn học sinh đọc xác định ngữ điệu đọc sao cho phù hợp với nội dung thông báo làm rõ thông tin cơ bản giúp người nghe tiếp nhận được những vấn đề quan trọng hay nổi bật trong văn bản. 
 Ví dụ 7 tham khảo sách TV 3 tập 2
 Đọc diễn cảm sau khi học sinh đã tóm tắt hiểu được nội dung của văn bản. 
 Khi rèn đọc lần cuối tiết học, học sinh phải thể hiện được cảm xúc của tác giả khi biết bài văn, bài thơ đó.
 Giáo viên tổ chức cho học sinh thi đọc theo nhóm, mỗi nhóm cử một em lên thi đọc. 
 Đối với thời gian một tiết tập đọc chỉ trong vòng 40 phút mà gồm nhiều đối tượng học sinh, ngoài chức năng chủ yếu là rèn đọc, luyện đọc là chính ở trong cả quá trình tiết học học sinh phải được luyện đọc nhiều lần. Học sinh nào cũng phải được đọc trong giờ học ít nhất một lần. Trong giờ học giáo viên luôn tuân theo nguyên tắc học sinh là chủ thể của giờ học. Muốn vậy, giáo viên phải nắm chắc từng đối tượng học sinh. Giáo viên cần chú ý rèn đọc nhiều đối với học sinh đọc chưa đạt. Rèn từ thấp đến cao, từ phát âm đúng, đọc đúng, ngắt nghỉ đúng câu dài, tiến tới rèn đọc diễn cảm.
 Sau khi tìm hiểu kĩ càng đặc điểm, trình độ của học sinh và hướng dẫn cho các em thành thạo cách phát âm tiếng khó, cách ngắt nghỉ hơi, tôi chú trọng rèn hai kĩ năng chính cho các em đó là đọc thành tiếng và đọc thầm cả đoạn, bài. 
 2.3.3. Biện pháp luyện đọc thành tiếng đoạn, bài:
 Để rèn đọc cho học sinh có hiệu quả, tôi đã phải xác định đúng yêu cầu cần đạt của Chuẩn kiến thức kĩ năng trong phân môn Tập đọc đối với học sinh lớp 3, và như đã nói ở trên, ngay từ đầu năm học tôi theo dõi để nắm được thực trạng kĩ năng đọc của từng học sinh rồi phân loại các đối tượng học sinh và có những biện pháp luyện đọc cho phù hợp với trình độ của các em [5].
 Ví dụ 8: Đối với những học sinh đọc ở mức độ chưa hoàn thành: các em thường mắc những lỗi như đọc chậm, sai hoặc sót nhiều từ, ngắt nghỉ không đúng chỗ, ...tôi không yêu cầu các em đọc quá nhiều hoặc đọc đoạn dài. Nếu bắt đọc nhiều các em sẽ chán và đâm ra sợ đọc. Đối với những học sinh này tôi luyện cho các em đọc từng câu hoặc đoạn ngắn, khi học sinh đọc có tiến bộ thì nâng dần cho học sinh đọc đoạn, đến bài. Tùy theo trình độ đọc của từng em mà có biện pháp rèn phù hợp cho các em.
 Ví dụ 9: Với học sinh đọc sai nhiều từ, đọc còn chậm, ngắt nghỉ hơi không đúng chỗ không thể một lúc sửa sai hết lỗi của học sinh, mà tôi chọn một lỗi nào cần sửa trước. Trong trường hợp này tôi đã sửa lỗi phát âm cho học sinh trước. Trong quá trình học sinh đọc,tôi theo dõi phát hiện lỗi sai và sửa kịp thời cho học sinh. Khi học sinh đọc sai, đợi cho học sinh đó đọc xong mới sửa sai. Nếu sửa cắt ngang ngay chỗ đọc sai sẽ làm mất hứng thú cho các em khi đọc. Đối với những học sinh khả năng đọc ở mức độ hoàn thành bài như em: Nguyễn Khánh Linh, Nguyễn Thị Hồng Nhung, Hoàng Vũ Như Quỳnh, An Long Bình,...những em đọc đúng tốc độ rành mạch, đúng quy định, có thể sai hoặc vấp một số từ, ngắt nghỉ hơi tương đối đúng chỗ. Những em 
Mục 2.3.3 tham khảo sách Chuẩn kiến thức kĩ năng lớp 3.
này tôi tập trung cho các em luyện đọc đoạn hoặc đọc bài nhiều hơn ở trước lớp. Ngoài ra khi tổ chức cho các em đọc phân vai hoặc kể chuyện trước lớp, tôi luôn tạo cơ hội cho các em được tham gia để lôi cuốn các em thích đọc.
 Đối với học sinh hoàn thành tốt: Là học sinh có khả năng đọc rõ ràng rành mạch; ngắt nghỉ hơi đúng chỗ như các em Lê Gia Anh Đạt, Lê Thị Hà Anh, Đỗ Thanh Hải, Lê Thị Mỹ Giang, ...có thể đọc diễn cảm được bài văn, bài thơ. Khi luyện đọc tôi đã bỏ qua cho các em bỏ qua bước đọc câu mà các em có thể đọc đoạn hoặc cả bài. Với học sinh này tôi yêu cầu cao hơn về tốc độ đọc, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ, thể hiện tình cảm được qua giọng đọc. 
 Ví dụ 10: Khi dạy luyện đọc đoạn khó trong bài Lời kêu gọi toàn dân tập thể dục sách TV3 tập 2 trang 94 “ Giữ gìn dân chủ,/ xây dựng nước nhà, / gây đời sống mới,/việc gì cũng cần có sức khỏe mới làm thành công. // Mỗi một người dân yếu ớt/ tức là cả nước yếu ớt, / mỗi một người dân mạnh khỏe/ tức là cả nước mạnh khỏe.//” sau khi hướng dẫn học sinh tìm những chỗ cần ngắt nghỉ hơi trong bài, tôi gọi vài học sinh ở mức độ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_doc_dung_doc_tot_cho_hoc_s.doc