SKKN Một số biện pháp rèn luyện văn hoá giao tiếp ứng xử học đường nhằm giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm 7B trường THCS Thọ Bình

SKKN Một số biện pháp rèn luyện văn hoá giao tiếp ứng xử học đường nhằm giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm 7B trường THCS Thọ Bình

 Xã hội ngày càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của con người ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, vấn đề mà giáo dục và xã hội quan tâm trong thời gian qua đó là văn hoá ứng xử, khả năng giao tiếp trong cuộc sống của giới trẻ, trong đó có học sinh, còn nhiều hạn chế. Vì thế, nhà trường là nơi tổ chức giáo dục và định hướng đúng đắn cho học sinh, phải là nền tảng vững chắc và trang bị cho các em kỹ năng giao tiếp trở thành kỹ năng sống trong học tập khi ở nhà trường và cuộc sống ngoài xã hội sau này.

 Giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo 4 trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI đó là “Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống”[1]. Mục tiêu của giáo dục phổ thông đã và đang chuyển hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị kỹ năng sống nhằm đào tạo những con người toàn diện đáp ứng được yêu cầu của xã hội mới. Vậy, việc rèn luyện kỹ năng sống là việc rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Vì thế, nhà trường phải xác định mục tiêu trong giai đoạn hiện nay là đào tạo những con người toàn diện và là nơi giáo dục và định hướng đúng đắn cho học sinh, trang bị đầy đủ cho học sinh kiến thức và kỹ năng sống, đặc biệt là kỹ năng giao tiếp ứng xử để nó trở thành vốn sống trong học tập và cuộc sống của các em sau này.

 Để tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục toàn diện cho học sinh thì phải bắt đầu từ việc xây dựng chuẩn hành vi đạo đức và thực hiện các quy tắc giao tiếp ứng xử có văn hóa. Làm được điều đó chúng ta sẽ thực hiện tốt chức năng của nhà trường, tạo ra không gian văn hóa học đường, góp phần đào taọ thế hệ trẻ vừa hồng vừa chuyên, đóng góp ngày càng nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển Giáo dục và Đào tạo. Hơn nữa, trường THCS Thọ Bình ở địa bàn miền núi các em còn nhiều hạn chế trong giao tiếp ứng xử, nghèo về vốn sống. Bản thân tôi làm công tác chủ nhiệm nhiều năm, tôi luôn nhận thấy việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho học sinh lớp chủ nhiệm trong giai đoạn hiện nay là cần thiết hơn bao giờ hết. Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “ Một số biện pháp rèn luyện văn hoá giao tiếp ứng xử học đường nhằm giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm 7B trường THCS Thọ Bình” làm sáng kiến kinh nghiệm của mình trong năm học 2016 - 2017.

 

doc 20 trang thuychi01 40014
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp rèn luyện văn hoá giao tiếp ứng xử học đường nhằm giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm 7B trường THCS Thọ Bình", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU
 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1
1
1
2
B. NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
2
2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ 
4
2.1. Thuận lợi
4
2.2. Khó khăn
4
3. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
6
4. BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
7
4.1. Vai trò và trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm trong việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử học đường. 
7
4.2. Phân loại từng nhóm học sinh cần tác động, tìm hiểu nguyên nhân và biện pháp giáo dục. 
7
4.3. Xây dựng nội dung và thực hành rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử học đường cho học sinh. 
10
4.4. Tăng cường phối hợp với giáo viên bộ môn đặc biệt là giáo viên bộ môn Văn, bộ môn GDCD để rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử cho học sinh.
12
4.5. Phối kết hợp với phụ huynh trong việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử cho học sinh.
12
5. KIỂM NGHIỆM THỰC TẾ
13
5.1. Phương pháp kiểm nghiệm
13
5.2. Kết quả kiểm nghiệm
14
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
15
 A. MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
 Xã hội ngày càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của con người ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, vấn đề mà giáo dục và xã hội quan tâm trong thời gian qua đó là văn hoá ứng xử, khả năng giao tiếp trong cuộc sống của giới trẻ, trong đó có học sinh, còn nhiều hạn chế. Vì thế, nhà trường là nơi tổ chức giáo dục và định hướng đúng đắn cho học sinh, phải là nền tảng vững chắc và trang bị cho các em kỹ năng giao tiếp trở thành kỹ năng sống trong học tập khi ở nhà trường và cuộc sống ngoài xã hội sau này.
 Giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo 4 trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI đó là “Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống”[1]. Mục tiêu của giáo dục phổ thông đã và đang chuyển hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị kỹ năng sống nhằm đào tạo những con người toàn diện đáp ứng được yêu cầu của xã hội mới. Vậy, việc rèn luyện kỹ năng sống là việc rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Vì thế, nhà trường phải xác định mục tiêu trong giai đoạn hiện nay là đào tạo những con người toàn diện và là nơi giáo dục và định hướng đúng đắn cho học sinh, trang bị đầy đủ cho học sinh kiến thức và kỹ năng sống, đặc biệt là kỹ năng giao tiếp ứng xử để nó trở thành vốn sống trong học tập và cuộc sống của các em sau này.
 Để tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục toàn diện cho học sinh thì phải bắt đầu từ việc xây dựng chuẩn hành vi đạo đức và thực hiện các quy tắc giao tiếp ứng xử có văn hóa. Làm được điều đó chúng ta sẽ thực hiện tốt chức năng của nhà trường, tạo ra không gian văn hóa học đường, góp phần đào taọ thế hệ trẻ vừa hồng vừa chuyên, đóng góp ngày càng nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển Giáo dục và Đào tạo. Hơn nữa, trường THCS Thọ Bình ở địa bàn miền núi các em còn nhiều hạn chế trong giao tiếp ứng xử, nghèo về vốn sống. Bản thân tôi làm công tác chủ nhiệm nhiều năm, tôi luôn nhận thấy việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho học sinh lớp chủ nhiệm trong giai đoạn hiện nay là cần thiết hơn bao giờ hết. Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “ Một số biện pháp rèn luyện văn hoá giao tiếp ứng xử học đường nhằm giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm 7B trường THCS Thọ Bình” làm sáng kiến kinh nghiệm của mình trong năm học 2016 - 2017.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
 Khảo sát, tìm hiểu thực trạng giao tiếp ứng xử học đường của học sinh hiện nay cụ thể là học sinh lớp chủ nhiệm 7B . Từ đó để tìm ra các giải pháp hợp lý nhằm rèn luyện kỹ năng gao tiếp ứng xử giữa “Học sinh và học sinh; học sinh và thầy cô giáo, cán bộ công nhân viên trong nhà trường”.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
 Để có cơ sở đánh giá về hiệu quả của việc áp dụng đề tài vào công tác chủ nhiệm, tôi chọn 2 lớp của trường THCS Thọ Bình, cụ thể:
- Lớp đối chứng : Lớp 7 A năm học 2016 - 2017. 
- Lớp thực nghiệm: Lớp 7 B năm học 2016 – 2017. 
Là học sinh cùng khối , lại chủ yếu là con em nông thôn nên có nét tương đồng giống nhau.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
 Chủ yếu là phương pháp thực nghiệm, đối chứng.Tôi tận dụng tối đa thời gian trong các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ, tiết sinh hoạt cuối tuần với lớp chủ nhiệm để rèn luyện kỷ năng giao tiếp cho học sinh. Ngoài ra còn tôi còn phối hợp với giáo viên bộ môn để thảo luận một số hình thức cũng như tìm hiểu một số nội dung phù hợp để tiến hành thực nghiệm.
B. NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái quát chung về kỹ năng sống:
1.1.1. Kỹ năng sống là gì?
- Quan niệm của UNESCO:
 Kỹ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, đó là: Học để biết (Learning to know); Học để làm (Learning to do); Học để chung sống với người khác (Learning to live together); Học để tự khẳng định mình (Learning to be). Có thể hiểu KNS là: kỹ năng học tập, kỹ năng làm chủ bản thân, kỹ năng thích ứng và hòa nhập với cuộc sống, kỹ năng làm việc.[1]
- Quan niệm của WHO:
 Từ góc độ sức khỏe, WHO xem KNS là những kỹ năng thiết thực mà con người cần có để có cuộc sống an toàn và khỏe mạnh. Rộng hơn, KNS là những năng lực mang tính tâm lí xã hội và kỹ năng về giao tiếp để tương tác hiệu quả với người khác và giải quyết hiệu quả những vấn đề, những tình huống của cuộc sống hàng ngày.[1]
- Quan niệm của UNICEF:
 KNS là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng. Tóm lại: KNS ở đây là năng lực tâm lí xã hội, tính thích ứng giúp cá nhân có khả năng làm chủ bản thân, đối phó và giải quyết hiệu quả trước các nhu cầu (sinh sống, học tập, lao động) và các thách thức (tệ nạn, căng thẳng, mâu thuẫn) hay biến cố nào đó xảy ra trong cuộc sống. KNS chính là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh.[1]
1.1.2. Phân loại kỹ năng sống:
- Theo WHO, KNS được chia thành 3 nhóm:
+ Kỹ năng nhận thức, bao gồm các kỹ năng cụ thể như: tư duy phê phán, tư duy phân tích, khả năng sáng tạo, giải quyết vấn đề, nhận thức hậu quả, ra quyết định, tự nhận thức, đặt mục tiêu, xác định giá trị
+ Kỹ năng đương đầu với xúc cảm, bao gồm: ý thức trách nhiệm, cam kết, kiềm chế căng thẳng, kiểm soát được cảm xúc, tự quản lí, tự giám sát và tự điểu chỉnh
+ Kỹ năng xã hội (hay kỹ năng tương tác), bao gồm: giao tiếp; tính quyết đoán; thương thuyết, từ chối, hợp tác; sự cảm thông, chia sẻ; khả năng nhận thấy
sự thiện cảm của người khác[1]
- Theo UNESCO, KNS gắn với 4 trụ cột giáo dục của thế kỷ XXI:
+ Học để biết: gồm các kỹ năng tư duy như: tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề, nhân thức được hậu quả
+ Học để làm:gồm các kỹ năng thực hiện công việc và các nhiệm vụ như: kĩ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm
+ Học để chung sống với người khác: gồm các kỹ năng xã hội như: giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông.
+ Học để tự khẳng định mình: gồm các kỹ năng cá nhân như: ứng phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin[1]
- Theo lí thuyết của Bloom, KNS được phân loại:
+ Nhóm các kỹ năng thuộc lĩnh vực nhận thức: Kỹ năng tư duy sáng tạo và tư duy phê phán.
+ Nhóm các kỹ năng thuộc lĩnh vực tình cảm: kỹ năng tự nhận thức và thấu cảm, tự trọng và trách nhiệm xã hội.
+ Nhóm các kỹ năng thuộc lĩnh vực tâm vận động:
 * Ra quyết định và giải quyết vấn đề.
 * Quan hệ liên nhân cách và giao tiếp.
 * Tự nhận thức.
 * Thấu cảm.
 * Tư duy sáng tạo.
 * Tư duy phê phán.
 * Đương đầu với cảm xúc và căng thẳng.
 * Trách nhiệm xã hội.
 * Tự trọng.[1]
 Kỹ năng sống chính là năng lực của mỗi người giúp giải quyết những nhu cầu và thách thức của cuộc sống một các có hiệu quả.
 Văn hóa học đường ở Việt Nam cần đảm bảo ba yếu tố: Cơ sở vật chất đảm bảo, môi trường giáo dục tốt và văn hóa ứng xử giao tiếp. Qua cách nhìn nhận ấy, chúng ta thấy rằng học đường là môi trường góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. 
 Giáo sư – Tiến sĩ khoa học Lê Ngọc Trà khẳng định: Trong văn hóa có giáo dục, giáo dục không chỉ là nội dung mà còn là con đường giữ gìn và phát triển văn hóa. “Giao tiếp có quan hệ chặt chẽ đến giáo dục. Ở một phương diện nào đó giáo dục chính là giao tiếp. Giao tiếp không chỉ là hình thức phương tiện của giáo dục mà còn là nội dung quan trọng của giáo dục” và “Giao tiếp ứng xử có quan hệ chặt chẽ với giáo dục”. Hay nói cụ thể hơn thì ở phương diện nào đó giáo dục chính là giao tiếp. Không có giao tiếp không có giáo dục. Theo giáo sư thì giáo dục văn hóa giao tiếp ứng xử trong nhà trường hiện nay cần chú ý tới 2 điểm:
 Thứ nhất là truyền thống và hiện đại. Ở đây vai trò của nhà trường rất quan trọng trong quá trình rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử cho các em. Chính nhà trường chứ không phải Chính phủ, báo chí hay dư luận xã hội quyết định vấn đề này. Chào như thế nào, thưa như thế nào, xưng hô ra sao... nhà trường sẽ lựa chọn và quy định. Quy định này không phải do Hiệu trưởng quy định mà dựa trên cơ sở khoa học, trên các nghiên cứu, tham vấn... 
 Thứ hai là dân tộc và quốc tế, theo giáo sư chính công cuộc hội nhập và phát triển một cách ồ ạt của công nghệ thông tin đã tạo ra một “Thế giới phẳng” khiến cho khoảng cách giữa các dân tộc, Quốc gia và con người được rút ngắn lại rất nhiều, cử chỉ, xưng hô cũng ảnh hưởng, pha trộn nhau khiến cho tính nhân văn, đạo đức trong ngôn ngữ giao tiếp có ít nhiều ảnh hưởng.[2]
 Có thể nói văn hóa giao tiếp ứng xử của học sinh là tổng hợp các giá trị, các chuẩn mực, niềm tin và hành vi ứng xử của các thành viên trong và ngoài nhà trường phù hợp với các chuẩn mực văn hóa. Văn hóa giao tiếp ứng xử trong nhà trường bao gồm văn hóa chấp hành pháp luật; văn hóa giao tiếp, ứng xử với người xung quanh; văn hóa bảo vệ môi trường... 
 Trong xã hội tiên tiến, học sinh ngày nay càng thông minh nhạy bén, dễ tiếp thu cái mới, cái đẹp nhưng cũng dễ nhiễm cái xấu. Nhân cách của học sinh được hình thành qua hai con đường cơ bản trong nhà trường: Con đường dạy học và con đường giáo dục kỹ năng sống, trong đó kỹ năng giao tiếp ứng xử đóng vai trò quan trọng. 
2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
2.1.Thuận lợi: 
 Được sự quan tâm, ủng hộ của Ban giám hiệu cùng với sự nhiệt tình giúp đỡ của đồng nghiệp.
 Sự ủng hộ của phụ huynh học sinh trong lớp.
 Bản thân tôi là người công tác nhiều năm trong ngành giáo dục và làm công tác chủ nhiệm nhiều năm, nên đã có nhiều kinh nghiệm, có vốn sống và luôn mẫu mực trong lời nói và gương mẫu trong việc làm.
 Các em là con em nông thôn nên có nhiều em ngoan, vâng lời thầy cô giáo. Đây là những thuận lợi để giáo dục các em ngay trong thời gian đầu năm học. 
2.2. Khó khăn:
Trường THCS Thọ Bình là trường thuộc xã miền núi của huyện Triệu Sơn. Học sinh của trường toàn là con em nông thôn, điều kiện kinh tế nghèo nàn. Vì vậy điều kiện học tập và môi trường rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử còn rất nhiều hạn chế.
 Vì là một trường miền núi nên điều kiện tiếp cận của học sinh với sách báo ,các kênh truyền thông, mạng internet còn hạn chế.
 Được sự phân công của nhà trường, năm 2016- 2017 tôi làm công tác chủ nhiệm lớp 7 B. Lớp 7 B sĩ số 42 trong đó có 20 em nam và 22 em nữ. 
 Đối tượng học sinh của lớp chủ nhiệm 7B rất đông và đa dạng, mỗi học sinh là một cá tính, một hoàn cảnh sống, có phản ứng khác nhau đối với việc học tập, tìm hiểu thế giới bên ngoài và đặc biệt là khác nhau về phong cách, thái độ giao tiếp ứng xử. Nên quá trình hình thành nhân cách, suy nghĩ và nhận thức của các em không giống nhau, môi trường hoàn cảnh khác nhau ấy lại thường cùng mang đến cho các em một thiếu sót lớn trong từng bước trưởng thành, đó là kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp ứng xử học đường. Tôi xác định việc rèn luyện văn hóa giao tiếp ứng xử học đường cho các em học sinh lớp chủ nhiệm là một quá trình lâu dài, tỉ mỉ, công phu chứ không phải là bước một, bước hai là đã có kết quả ngay được. Bởi vì, bản thân các em được tác động rất lớn bởi môi trường giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội. Do đặc điểm của lớp như vậy tôi xác định công tác chủ nhiệm lớp sẽ gặp không ít khó khăn. 
 Tôi quan sát các hoạt động của các em, chú ý đến cách giao tiếp ứng xử của các em với thầy cô giáo, giữa các em với bạn bè, tôi nhận thấy tất cả các em có kỹ năng giao tiếp ứng xử không đồng đều trong đó một số em có rất nhiều hạn chế. Ngay đầu năm học tôi tiến hành điều tra ở 2 lớp , một là lớp tôi chủ nhiêm và một là lớp tôi không chủ nhiệm. Tôi giành 10 phút trong tiết sinh hoạt cuối tuần để điều tra sự hiểu biết của các em về văn hóa giao tiếp ứng xử học đường, nhận thức về vai trò của giao tiếp ứng xử trong giai đoạn hiện nay còn hạnh kiểm của các em trong năm học lớp 6 tôi điều tra qua học bạ để từ đó có cơ sở đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả rèn luyện. 
Lưu ý: Phiếu điều tra không yêu cầu ghi tên người được điều tra để đảm bảo tính bí mật.
Bảng 1
Lớp
Sĩ số
Mức độ hiểu về kỹ năng giao tiếp ứng xử
Hiểu đúng
Hiểu gần đúng
Hiểu sơ sài
Không hiểu gì
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
7B
42
0
0
5
11,9
33
78,6
4
9,5
7A
44
0
0
5
11,3
30
68,2
9
20,5
Bảng 2
 Lớp
Sĩ số
Nhận thức về việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử học đường trong giai đoạn hiện nay
Rất cần thiết
 Cần thiết
Bình thường
Không cần thiết
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
7B
42
4
9,5
14
33,3
18
42,9
6
14,3
7A
44
5
13,4
15
34,1
18
40,9
6
13,6
Bảng 3
Lớp
SS
Hạnh kiểm lớp 6 
Tốt
Khá
Trung bình
Yếu-Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
7 B
42
30
71,4
10
23,8
2
4,8
0
0
7 A
44
15
34,1
25
56,8
4
9,1
0
0
 Từ kết quả điều tra trên tôi nhận thấy dù ở các em đa số đều được xếp hạnh kiểm loại Tốt – Khá , số ít xếp loại TB nhưng khi khảo sát về kỹ năng nhận thức , giao tiếp của các em vẫn còn hạn chế do những nguyên nhân sau:
 - Trong nhà trường, giáo viên chỉ chủ yếu quan tâm đến việc dạy kiến thức cho học sinh, chưa quan tâm nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. 
- Cách giáo dục, uốn nắn của gia đình chưa đúng mức. Sự nhận thức của một số bậc phụ huynh còn nhiều hạn chế nên dẫn đến xem nhẹ việc giáo dục cho con em mình về văn hóa giao tiếp ứng xử. Hơn nữa, do ảnh hưởng văn hóa tiêu cực của gia đình như bố mẹ không hạnh phúc, bố thường xuyên say rượu, các thành viên trong gia đình thường sảy ra xung đột...
 - Đại đa số các em đều là con nông thôn, chưa được va chạm nhiều, không có môi trường để rèn luyện, nên khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ kém.
 - Cũng như các lĩnh vực khác trong xã hội, văn hóa giao tiếp ứng xử học đường cũng bị chi phối bởi: Mặt trái của kinh tế thị trường, do tác động của khoa học công nghệ, do văn hóa phẩm không lành mạnh Vậy nên nó sẽ tác động tiêu cực tới việc hoàn thiện nhân cách của học sinh.
 Thực tế học sinh ở lớp 7 B, khi chào hỏi thầy cô giáo thái độ chưa nghiêm túc, chưa lễ phép. Khi bạn bè nói chuyện với nhau chưa đúng cách xưng hô, hay dùng những từ như “mi ”, “tao”, đôi khi còn xử dụng các từ mang tính văng tục, thiếu văn hoá. Một số em thiếu bản lĩnh nên dễ bị lôi kéo dẫn đến đua đòi, bắt chước, nhiễm các thói hư tật xấu của nhóm bạn chưa ngoan. Một số học sinh khác ngại phát biểu bài hoặc khi phát biểu bài thì giọng nói lí nhí, câu trả lời không rõ ràng mạch lạc. Trong tập thể ít đấu tranh, không mạnh dạn, không dám nói lên suy nghĩ của mình, ít xây dựng ý kiến, có những em không biết bắt đầu một câu chuyện dù là đơn giản nhất. Còn một số học sinh nữa là chưa được giáo dục kỹ năng sống một cách toàn diện của nhà trường và gia đình biểu hiện thái độ phân biệt giữa các thầy cô đang dạy mình hay không giảng dạy mình, giữa các thầy cô dạy các môm chính ( Toán ,Văn ,Anh) và thầy cô không dạy các môn phụ, giữa các thầy cô bộ môn và thầy cô chủ nhiệm.Trước những thuận lợi và khó khăn trên, tôi đã đưa ra một số giải pháp phù hợp nhằm nâng cao kỹ năng giao tiếp ứng xử cho học sinh lớp chủ nhiệm.
3. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
3.1. Vai trò và trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm trong việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử học đường. 
3.2. Phân loại từng nhóm học sinh cần tác động, tìm hiểu nguyên nhân và biện pháp giáo dục. 
3.3. Xây dựng nội dung và thực hành rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử học đường cho học sinh. 
3.4. Tăng cường phối hợp với giáo viên bộ môn đặc biệt là giáo viên bộ môn Văn, bộ môn GDCD để rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử cho học sinh.
3.5. Phối kết hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội trong việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử cho học sinh.
4. BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
4.1. Vai trò và trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm trong việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử học đường. 
 Trong ca dao có câu “Chim khôn kêu tiếng rảnh rang, người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe” hay “ Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Giao tiếp ứng xử học đường đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đời của mỗi người học sinh. Giao tiếp tốt giúp các em xây dựng và duy trì những mối quan hệ hữu ích giữa các em với bạn bè và thầy cô, thành công trong học tập. Mục đích cuối cùng của việc rèn luyện và học tập đó là tạo vốn sống để tìm một công việc thật tốt sau này. Hiện nay một trong 3 yêu cầu hàng đầu của nhà tuyển dụng là giao tiếp ứng xử. Có kỹ năng giao tiếp ứng xử tốt nó tạo cho ta nhiều cơ hội tốt sau này. Vậy, giao tiếp ứng xử là hành trang không thể thiếu của những con người thành đạt. 
 Như người ta thường nói “Nếu dạy chữ, dạy kiến thức là thuần trí tuệ thì dạy lễ, dạy nghĩa lại cần đến cả trái tim, tâm hồn, tình cảm, dạy bằng cả nhân cách của chính mình”. 
 Để làm tốt công tác chủ nhiệm đòi hỏi người giáo viên phải hội tụ đươc nhiều yếu tố như đạo đức tốt; có đức tính kiên trì và nhẫn nại; mẫu mực về lời nói, hành vi, cử chỉ trong giao tiếp ứng xử, tác phong làm việc, trình độ chuyên môn, trang phục, luôn trau dồi về kiến thức tâm lý lứa tuổi; luôn tự rèn luyện và nâng cao kỹ năng giao tiếp của bản thân, coi việc rèn luyện giao tiếp ứng xử cho học sinh phải trở thành thói quen của mình; luôn tìm hiểu các thế hệ học sinh đã thành đạt của nhà trường để rút ra bài học kinh nghiệm cho thế hệ học sinh sau này. 
 4.2. Phân loại từng nhóm học sinh cần tác động, tìm hiểu nguyên nhân và biện pháp giáo dục. 
 Tôi phân thành 3 nhóm học sinh cần tác động:	
 Nhóm 1: Là những học sinh có học lực khá, hạnh kiểm tốt. Ngoan hiền, lễ phép, đi đứng nghiêm túc, xưng hô đúng mực. Tham gia tích cực các hoạt động, thường xuyên nhắc nhở những bạn hay có thái độ không nghiêm túc. 
 Nhóm 2: Bộc lộ cá tính trong giao tiếp nhưng chưa được định hướng, là những học sinh có những biểu hiện như: Không đứng dậy chào thầy cô khi thầy cô vào lớp, một số em đứng không nghiêm túc, nói năng vô tổ chức hoặc khi nói với thầy cô không phân biệt trên dưới, nói ngang, nói tự do trong lớp. Khi tan học vội vàng gấp sách vở và phóng chạy ra khỏi lớp không cần sự cho phép của thầy cô giáo. Trong các hoạt động vui chơi, giao tiếp ứng xử với bạn bè các em nói tục, nói bậy, bè phái, tính tình nóng nảy và chưa biết quan tâm chia sẽ với các bạn trong lớp khi tham gia các hoạt động giáo dục 
 Nhóm 3: Là những học sinh không có chứng kiến: nhút nhát, ít nói; không gần gũi bạn bè và thầy cô; ít chia sẻ, ngại phát biểu bài; không giám phát biểu ý kiến; không có quan điểm rõ ràng và dễ nản lòng khi gặp khó khăn. 
 Những học sinh ở nhóm 1: Là những gia đình có cuộc sống khá ổn định, trình độ nhận thức của bố mẹ rất cao, thường xuyên chăm lo việc học tập của con cái. Những học sinh ở nhóm này được giáo dục trong một môi trường tốt. Vì vậy, lời nói và hành động của các em chững trạc hơn.
 Những học sinh ở nhóm 2: Hoàn cảnh gia đình các em thường xảy ra xung đột, trình độ nhận thức của bố mẹ rất nhiều hạn chế, khi gặp phụ huynh để trao đổi về tình hình học tập và rèn luyện của con em. Tôi nhận thấy bản thân phụ huynh còn có quá nhiều hạn chế trong giao tiếp ứng xử. Vì vậy, các em bị ảnh hưởng văn hóa tiêu cực của gia đình 
 Những học sinh ở nhóm 3: Một số em thiếu tự tin về năng lực học tập, về ngoại hình, về hoàn cảnh gia đình. Hoặc có năng lực học tập nhưng chưa cân bằng được việc tiếp thu kiến thức và rèn luyện kỹ năng sống, chưa được nhà trường và gia đình giáo dục một các toàn diện. 
 Vậy tôi đưa ra các b

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_ren_luyen_van_hoa_giao_tiep_ung_xu_hoc.doc