SKKN Sử dụng phương pháp trò chơi nhằm tạo hứng thú học tập góp phần nâng cao chất lượng đại trà môn toán của học sinh lớp 7A trường THCS Nga Trường - Nga Sơn

SKKN Sử dụng phương pháp trò chơi nhằm tạo hứng thú học tập góp phần nâng cao chất lượng đại trà môn toán của học sinh lớp 7A trường THCS Nga Trường - Nga Sơn

Trong những năm gần đây ngành Giáo dục và Đào tạo đã và đang tiến hành đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, trong đó có đổi mới PPDH nhưng đổi mới PPDH như thế nào để vận dụng có hiệu quả, nâng cao hứng thú và khơi dậy được năng lực học tập của tất cả các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh yếu kém? Câu hỏi này cần được mọi giáo viên đặt ra cho mình và cách giải quyết.

Toán học là môn học quan trọng trong các bộ môn văn hóa, là một môn học đóng vai trò quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu giáo dục của nhà trường. Những kiến thức, kĩ năng và phương pháp làm việc. Toán học giúp học sinh phát triển năng lực tư duy như phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khát quát hóa Rèn luyện những phẩm chất tốt đẹp của người lao động mang tính cẩn thận, chính xác, kỷ luật, phê phán và sáng tạo Qua đó góp phần hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh.

Thực tế hiện nay cho thấy hứng thú học môn Toán của học sinh ở nhiều trường THCS nhìn chung vẫn còn hạn chế, không ít em “sợ” toán, coi việc học toán là một công việc nặng nhọc, căng thẳng dẫn đến kết quả học tập thấp kém. Nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên thì có nhiều nhưng tựu chung lại là môn Toán chưa thực sự hấp dẫn các em đặc biệt là đối với các em học yếu kém.

Muốn cải thiện tình trạng trên người thầy phải không ngừng sáng tạo, đổi mới phương pháp dạy học để có thể tạo ra các giờ học Toán hấp dẫn, lôi cuốn học sinh. Tôi thiết nghĩ “Tổ chức trò chơi học tập” là sự lựa chọn thông minh để thu hút học sinh và đạt mục tiêu bài dạy. Nó là chiếc cầu nối đắc lực, hữu hiệu và tự nhiên giữa thầy và trò. Thông qua trò chơi, mục tiêu bài học được truyền tải đến học sinh một cách nhẹ nhàng nhưng đầy sâu sắc, dễ hiểu. Nhận thức được điều đó, là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy môn Toán tại trường THCS Nga Trường Nga Sơn Thanh Hóa, trong những năm học gần đây, tôi đã mạnh dạn đưa trò chơi học tập vào trong giờ dạy môn Toán, điều đó đã đem lại hiệu quả rõ rệt trong việc nâng cao hứng thú và kết quả học tập môn Toán của các khối lớp mà tôi mà trực tiếp giảng dạy.

Năm nay tôi tiếp tục nghiên cứu và áp dụng kinh nghiệm “Sử dụng phương pháp trò chơi nhằm tạo hứng thú học tập góp phần nâng cao chất lượng đại trà môn toán của học sinh lớp 7A trường THCS Nga Trường - Nga Sơn”. Nhằm tích cực đổi mới phương pháp giúp đỡ học sinh đặc biệt là học sinh yếu kém có hứng thú học tập hoàn thành chương trình cấp học, hạn chế tình trạng bỏ học góp phần giữ vững tỉ lệ phổ cập THCS.

 

doc 17 trang thuychi01 51584
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Sử dụng phương pháp trò chơi nhằm tạo hứng thú học tập góp phần nâng cao chất lượng đại trà môn toán của học sinh lớp 7A trường THCS Nga Trường - Nga Sơn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
1. Mở đầu
1
1.1. Lí do chọn đề tài
1
1.2. Mục đích nghiên cứu
1
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
4
2.3.1. Cách tổ chức trò chơi học tập trong tiết Toán lớp 7
4
2.3.1.1. Những nguyên tắc khi sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy học môn Toán
4
2.3.1.2. Cách lựa chọn trò chơi
5
2.2.1.3 Hướng dẫn cách chơi
5
2.3.2. Một số trò chơi đã sử dụng trong tiết dạy học Toán 7 ở trường THCS Nga Trường
5
2.3.2.1. Trò chơi "Chạy tiếp sức"
5
2.3.2.2. Trò chơi “Sai ở đâu? Sửa thế nào?”
7
2.3.2.3. Trò chơi "Đoán ý đồng đội"
9
2.3.2.4. Trò chơi "Ai nhanh mắt hơn?"
10
2.3.2.5. Trò chơi "Thử tài ghi nhớ"
12
2.3.2.6. Trò chơi "Thi viết nhanh"
12
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 
14
3. Kết luận, kiến nghị
15
3.1. Kết luận
15
3.2. Kiến nghị 
16
1 . Mở đầu
1.1 . Lí do chọn đề tài
Trong những năm gần đây ngành Giáo dục và Đào tạo đã và đang tiến hành đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, trong đó có đổi mới PPDH nhưng đổi mới PPDH như thế nào để vận dụng có hiệu quả, nâng cao hứng thú và khơi dậy được năng lực học tập của tất cả các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh yếu kém? Câu hỏi này cần được mọi giáo viên đặt ra cho mình và cách giải quyết. 
Toán học là môn học quan trọng trong các bộ môn văn hóa, là một môn học đóng vai trò quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu giáo dục của nhà trường. Những kiến thức, kĩ năng và phương pháp làm việc. Toán học giúp học sinh phát triển năng lực tư duy như phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khát quát hóaRèn luyện những phẩm chất tốt đẹp của người lao động mang tính cẩn thận, chính xác, kỷ luật, phê phán và sáng tạoQua đó góp phần hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh.
Thực tế hiện nay cho thấy hứng thú học môn Toán của học sinh ở nhiều trường THCS nhìn chung vẫn còn hạn chế, không ít em “sợ” toán, coi việc học toán là một công việc nặng nhọc, căng thẳng dẫn đến kết quả học tập thấp kém. Nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên thì có nhiều nhưng tựu chung lại là môn Toán chưa thực sự hấp dẫn các em đặc biệt là đối với các em học yếu kém.
Muốn cải thiện tình trạng trên người thầy phải không ngừng sáng tạo, đổi mới phương pháp dạy học để có thể tạo ra các giờ học Toán hấp dẫn, lôi cuốn học sinh. Tôi thiết nghĩ “Tổ chức trò chơi học tập” là sự lựa chọn thông minh để thu hút học sinh và đạt mục tiêu bài dạy. Nó là chiếc cầu nối đắc lực, hữu hiệu và tự nhiên giữa thầy và trò. Thông qua trò chơi, mục tiêu bài học được truyền tải đến học sinh một cách nhẹ nhàng nhưng đầy sâu sắc, dễ hiểu. Nhận thức được điều đó, là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy môn Toán tại trường THCS Nga Trường Nga Sơn Thanh Hóa, trong những năm học gần đây, tôi đã mạnh dạn đưa trò chơi học tập vào trong giờ dạy môn Toán, điều đó đã đem lại hiệu quả rõ rệt trong việc nâng cao hứng thú và kết quả học tập môn Toán của các khối lớp mà tôi mà trực tiếp giảng dạy. 
Năm nay tôi tiếp tục nghiên cứu và áp dụng kinh nghiệm “Sử dụng phương pháp trò chơi nhằm tạo hứng thú học tập góp phần nâng cao chất lượng đại trà môn toán của học sinh lớp 7A trường THCS Nga Trường - Nga Sơn”. Nhằm tích cực đổi mới phương pháp giúp đỡ học sinh đặc biệt là học sinh yếu kém có hứng thú học tập hoàn thành chương trình cấp học, hạn chế tình trạng bỏ học góp phần giữ vững tỉ lệ phổ cập THCS.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề xuất nội dung biện pháp tổ chức trò chơi vào dạy học môn toán 7, góp phần đổi mới phương pháp dạy học truyền thống sang phương pháp dạy học tích cực, nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh yếu kém vào dạy và học môn toán 7 ở trường THCS Nga Trường Huyện Nga Sơn. 
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Hoạt động dạy, học môn toán 7 của Trường THCS Nga Trường, Huyện Nga Sơn.
- Học sinh lớp 7 A khối 7 Trường THCS Nga Trường.
- Các tiết dạy theo thời khóa biểu chính khóa, học thêm và học phụ đạo.
- Các nội dung liên quan đến vấn đề: “Học mà chơi , chơi mà học”. 
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu các lí luận cơ bản về phương pháp dạy học; về vấn đề tạo hứng thú và tăng tính tích cực cho học sinh yếu kém trong việc học tập bộ môn Toán.
- Quan sát và điều tra khảo sát quá trình học tập môn Toán lớp của học sinh lớp 7A; đặc biệt chú trọng đến đối tượng các em học sinh yếu kém. 
- Phương pháp thực nghiệm: Được sử dụng trong quá trình áp dụng đề tài đối với lớp 7A. 
- Phương pháp so sánh: Được sử dụng trong quá trình so sánh đối chiếu kết quả bài kiểm tra trước và sau khi áp dụng phương pháp sử dụng trò chơi. 
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Được sử dụng trong quá trình khảo sát, phân tích kết quả thực nghiệm và tổng hợp kết quả thực nghiệm. 
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến
- Căn cứ vào định hướng đổi mới phương pháp dạy học môn Toán trong giai đoạn hiện nay, đã được xác định là “ Phương pháp dạy học Toán trong nhà trường các cấp phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học; hình thành và phát triển năng lực tự học, trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy”- ( chương trình giáo dục phổ thông môn Toán của Bộ GD & ĐT ban hành theo quyết định số 16/2006/QĐ-BGD&ĐT).
-Theo phương hướng đổi mới phương pháp dạy học này, giáo viên phải là người tổ chức, điều khiển; phát huy tính tích cực chủ động trong lĩnh hội tri thức Toán học của học sinh; còn học sinh là chủ thể nhận thức, đòi hỏi phải có hứng thú trong học tập, từ đó mới tích cực tự học, tự rèn luyện và có được các năng lực cần thiết trong học tập cũng như trong lao động sản xuất.
- Do đặc điểm tâm sinh lí ở lứa tuổi học sinh lớp 7 cũng có những khác biệt: học sinh dễ bị phân tán, mất tập chung chú ý; những kiến thức thoáng qua, không hấp dẫn lôi cuốn các em sẽ mau quên; vốn kiến thức và hiểu biết còn ít; khả năng diễn đạt còn hạn chế; nhất là với những học sinh yếu, nhận thức chậm các em dễ tự ti, không dám mạnh dạn phát biểu ý kiến của mình do sợ sai.v.vCòn khi có hứng thú học tập các em sẽ tập trung chú ý vào đối tượng nhận thức, nhờ đó quan sát của các em trở nên nhạy bén và chính xác, chú ý trở nên bền vững, việc ghi nhớ dễ dàng và sâu hơn, quá trình tư duy sẽ tích cực hơn, óc tưởng tượng sẽ phong phú hơn. Các em sẽ tự giác, sáng tạo, say sưa trong quá trình tìm đến với tri thức, và sự vận dụng những điều lĩnh hội được vào giải các bài tập một cách linh hoạt, sáng tạo hơn. Nhờ đó mà kết quả học tập của các em sẽ ngày càng nâng cao, năng lực từng bước được hình thành, phát triển một cách tích cực.
- Phương pháp trò chơi là phương pháp tổ chức cho người học tìm hiểu một vấn đề, thực hiện một nhiệm vụ học tập hay thể nghiệm những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi học tập nào đó. Trò chơi học tập là hoạt động được diễn ra theo trình tự hoạt động của một trò chơi. Trò chơi học tập có những đặc điểm sau:
+ Nội dung trò chơi gắn với kiến thức, kĩ năng, thái độ của một môn học hoặc một bài học cụ thể.
+Trò chơi học tập thường được diễn ra trong thời gian, không gian nhất định
của một giờ học.
+ Mọi người học đều thu nhận được những nội dung học tập chứa đựng trong trò chơi phù hợp với trình độ và lứa tuổi.
- Khác với trò chơi rèn luyện sức khỏe và giải trí, trò chơi học tập nhằm hướng tới sự nhận biết, thông hiểu, vận dụng kiến thức gắn với các nội dung học tập cụ thể của môn học, bài học, lớp học.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm tại trường THCS Nga Trường, Nga Sơn
2.2.1. Thuận lợi
- Bản thân là một giáo viên đã có nhiều năm giảng dạy bộ môn Toán ở trường THCS. Được đào tạo cơ bản dạy đúng chuyên nghành đào tạo, thường xuyên được tham gia các lớp tập huấn chuyên đề. Luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của cấp trên, trực tiếp là bộ phận chuyên môn nhà trường; sự phối hợp, cộng tác và giúp đỡ của các đồng chí, đồng nghiệp, sự tin yêu và kính trọng của học sinh.
- Chương trình Toán lớp7 theo quy định về chuẩn kiến thức kỹ năng của Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện nay là khá phù hợp với đa số đối tượng học sinh.
- Cách trình bày của sách giáo khoa thuận lợi cho việc thiết kế bài học theo tinh thần phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
- Phần lớn học sinh lớp 7 trong nhà trường đều chăm ngoan, có ý thức trong việc học tập, trong đó nhiều em yêu thích học tập môn Toán, đặc biệt một số em say mê môn Toán.
- Kiến thức Toán học là những vấn đề khoa học lôgic chặt chẽ. Nên nó đòi hỏi người học phải có tư duy tương đối sáng sủa, sắc bén thì mới có thể tiếp thu được. 
2.2.2. Khó khăn
- Chương trình Toán lớp 7 THCS hiện nay theo quy định chuẩn kiến thức kỹ năng của Bộ Giáo dục và Đào tạo tuy đã có giảm tải nhiều lần song nhìn chung để học tốt môn Toán vẫn là điều khó khăn đối với một bộ phận không nhỏ học sinh khối 7 nói chung và học sinh khối 7 trường THCS Nga Trường nói riêng.
- Việc vận dụng các phương pháp dạy học mới của giáo viên đôi khi còn cứng nhắc, chưa linh hoạt, nhiều tiết học còn khô khan, chưa tạo ra được không khí nhẹ nhàng, hấp dẫn vui tươi trong giờ học, việc tổ chức các hoạt động học tập của học sinh có khi còn mang tính hình thứcDẫn đến hiệu quả dạy học chưa được như mong muốn. 
- Một bộ phận không nhỏ học sinh chưa hứng thú với việc học tập bộ môn Toán, biểu hiện qua việc: 
 + Học tập một cách thụ động, thiếu phương pháp và động cơ học tập, chưa tích cực, chủ động tham gia vào quá trình tự tìm tòi lĩnh hội kiến thức;
 + Rụt rè, thiếu tự tin, ngại phát biểu ý kiến, ít tranh luận, ngại lên bảng;
 + Mất tập trung thậm chí làm việc riêng hoặc ngồi lì trong giờ học;
 + Không làm bài tập về nhà, không chuẩn bị bài mới, thiếu đô dùng học tập;
 + Không hồ hởi, hay căng thẳng, lo lắng khi đến giờ học, thấy học Toán là một gánh nặng, có cảm giác sợ giờ Toán thậm chí dẫn đến hiện tượng nghỉ học với lí do không chính đáng hoặc bỏ tiết vô lí do...
2.2.3. Kết quả của thực trạng trên
Từ thực trạng trên đầu năm học 2016 - 2017 tôi đã tiến hành quan sát, theo dõi; kết hợp với điều tra lấy ý kiến của 25 học sinh lớp 7A về mức độ hứng thú và khảo sát kết quả đầu năm về môn Toán của học sinh lớp 7A. Kết quả cụ thể là:
Số HS
Kết quả điều tra hứng thú học tập môn Toán lớp 7A 
năm học 2016 -2017
Rất thích (%)
Thích (%)
Bình thường (%)
Không thích (%)
 25
12
28
36
24
Nhận xét: 
- Tỉ lệ học sinh không mấy hứng thú với việc học tập môn Toán là khá cao 60% trong đó có đến 24% không thích học Toán điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dạy học môn Toán tại đơn vị.
- Có tình trạng trên là do nhiều nguyên nhân, trong đó: Do kiến thức tiền đề của các em ở các lớp dưới không tốt (mất gốc); Do hạm chơi, chưa quyết tâm kiên trì học tập chiếm; Do kiến thức môn Toán quá khó, khô khan và kém hấp dẫn chiếm; Do hoàn cảnh gia đình và điều kiện xã hội tác động; Do giáo viên dạy khó hiểu.
- Thực tế cho thấy nguyên nhân dẫn đến các em chưa hứng thú với việc học tập môn Toán chủ yếu là do các em bị mất gốc và thấy kiến thức môn học khó và khô khan kém hấp dẫn thể hiện ở kết quả khảo sát đầu năm.
Lớp
Số HS
Kết quả khảo sát đầu năm học 2016-2017
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu – Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
7A
25
1
4
5
20
10
40
9
36
Kết quả chất lượng môn Toán lớp 7A đầu năm học 2016 - 2017 năm học cho thấy tỉ lệ học sinh khá giỏi Toán là khá khiêm tốn (chỉ chiếm khoảng 24%), trong khi đó tỉ lệ học sinh yếu môn Toán khá cao (chiếm 36%) so với mặt bằng chung chất lượng của nhà trường.
2.3. Các giải pháp đã được sử dụng để giải quyết vấn đề 
2.3.1. Cách tổ chức trò chơi học tập giờ Toán lớp 7
2.3.1.1. Những nguyên tắc khi sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy học Toán
- Cần có sự chuẩn bị tốt, mọi học sinh đều hiểu trò chơi và tham gia dễ dàng. học sinh phải nằm được quy tắc chơi và phải tôn trọng, tuân thủ luật chơi.
- Phải quy định rõ thời gian, địa điểm chơi. Không lạm dụng quá nhiều kiến thức và thời lượng bài học.
- Phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh tham gia tổ chức, điều khiển tất cả các khâu: từ chuẩn bị, tiến hành trò chơi và đánh giá sau khi chơi.
- Giáo viên phải có tác phong chững chạc, nghiêm túc nhưng lại vui vẻ, gần gũi, hòa đồng với hoc sinh; Lời nói phải rõ ràng, dễ hiểu, ấn tượng, luôn gây tạo sự hấp dẫn và pha trộn ít hài hước trong mỗi trò chơi. Nhằm tác động đến tình cảm, tâm lí và đem lại niềm vui tươi, sự hứng thú trong học tập cho học sinh.
- Sau mỗi trò chơi phải có thưởng phạt phân minh. Tuy nhiên nên tránh xử phạt đối với đội thua, người thua, mà tập trung tuyên dương, khen thưởng (nếu có) đối với người thắng, đội thắng. Nhằm động viên, khích lệ tinh thần các em một cách kịp thời, kích thích sự phấn chấn, hào hứng học tập cho học sinh.
 - Sau khi chơi, giáo viên cần cho học sinh thảo luận để nhận ra ý nghĩa giáo dục của trò chơi.
2.3.1.2. Cách lựa chọn trò chơi 
- Giáo viên xác định được mục tiêu của trò chơi đưa ra là gì? (Hình thành, luyện tập, cũng cố kiến thức nào? Giáo dục kĩ năng gì? Phẩm chất gì?) điều này được xác định dựa trên mục tiêu bài học.
- Trò chơi đưa ra phải đa dạng, phong phú, hấp dẫn; luật chơi đơn gỉan dễ hiểu, dễ chơi, phải phù hợp với chủ đề bài học với đặc điểm và trình độ học sinh, với quỹ thời gian, với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của lớp học, có tác dụng khích lệ tinh thần học tập cho tất cả các đối tượng học sinh trong lớp, tránh bỏ rơi học sinh yếu kém ngoài cuộc, đặc biệt trò chơi phải không gây nguy hiểm cho học sinh và môi trường xung quanh.
- Không nên chọn những trò chơi chỉ được mặt vui nhộn, nhưng lại thiếu tác dụng giáo dục về kiến thức, phẩm chất cũng như kĩ năng học tập.
- Trò chơi phải được luân phiên thay đổi một cách hợp lí để không gây nhàm chán cho học sinh.
2.3.1.3. Hướng dẫn cách chơi 
- Trước hết, giáo viên phải chia được các đội chơi cho phù hợp, cân đối lực lượng, hợp với yêu cầu trò chơi.
- Giới thiệu trò chơi, luật chơi, quán triệt ý thức kỷ luật khi chơi. Đây là khâu rất quan trọng, giáo viên nên giới thiệu trò chơi một cách ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, thu hút và hấp dẫn người chơi (nếu luật chơi khó thi giáo viên có thể chơi mẫu trước).
- Nhận xét kết quả, thái độ của người tham dự, giáo viên có thể nêu những kiến thức được học tập qua trò chơi, những sai lầm cần tránh. Động viên học sinh chơi nhiệt tình, hết mình, chơi đẹp, đảm bảo nề nếp, nội qui nhà trường. Có thưởng phạt phân minh đúng luật chơi sao cho người chơi chấp nhận một cách thoải mái và tự giác làm trò chơi thêm hấp dẫn kích thích hứng thú học tập của học sinh. Phần thưởng là một tràng pháo tayHình thức phạt học sinh phạm luật bằng những hình thức đơn giản, vui (như hát một bài, đứng một chân, nhảy lò cò).
- Thời gian từ 5 đến 7 phút.
2.3.2. Một số trò chơi đã sử dụng trong tiết dạy học môn Toán tại lớp 7A ở trường THCS Nga Trường 
2.3.2.1. Trò chơi “Chạy tiếp sức”
 * Tác dụng của trò chơi: 
- Rèn luyện tính trách nhiệm, ý thức tập thể cho học sinh.
- Thay vì dùng phương pháp thảo luận nhóm nhỏ thông thường thì trò chơi “Chạy tiếp sức”sẽ giúp học sinh thảo luận nhóm một cách nhẹ nhàng, hiệu quả, không bị gò ép, rập khuôn. Nhờ sự “tiếp sức” của mỗi thành viên, nhất là sự đóng góp, diễn giải của những học sinh tích cực, học sinh khá-giỏi, các em học sinh trung bình, yếu, kém sẽ có thêm cơ hội để nắm bắt kiến thức đã học, có cơ hội để được làm việc, được hoạt động nhiều hơn.
- Trò chơi này rất dễ chuẩn bị, dễ chơi, áp dụng được cho nhiều bài
* Chuẩn bị:
- Giáo viên chuẩn bị sẵn một số bài toán hoặc câu hỏi có nội dung liên quan đến tiết dạy chia làm hai (hoặc 3 tổ tương đương nhau, có thể chuẩn bị sẵn vào bảng phụ).
- Học sinh chuẩn bị bảng nhóm, phấn, bút dạ.
* Cách chơi:
- Giáo viên đưa đề bài lên bảng phụ (hoặc màn hình chiếu).
- Cho các đội thảo luận làm bài theo dãy hoặc khu vực (tương đương với số nhóm đề bài GV đưa ra).
- Học sinh trao đổi một số phút (tuỳ mức độ yêu cầu).
- Bốc thăm chọn ra 2 (hoặc 3) đội chơi.
- Khi có hiệu lệnh của giáo viên, lần lượt từng thành viên của 2 (hoặc 3) đội dùng phấn (bút) của đội mình lên viết đáp án tương ứng vào phần bảng của đội mình, mỗi lần lên bảng chỉ được ghi một câu trả lời (hoặc một bước trong toàn bộ công việc của đội) cứ học sinh này ghi xong chạy về trao phấn cho bạn thì học sinh tiếp theo mới được lên bảng, người lên sau có thể sửa kết quả của người lên trước, nhưng khi sửa thì không được làm thêm việc khác, hết lượt có thể vòng lại lượt 2, 3...).
- Thời gian chơi được quy định trước (nên từ khoảng 3 - 5 phút), đội nào xong trước là đội giành chiến thăng về mặt thời gian, khi hết giờ chơi giáo viên ra hiệu lệnh dừng cuộc chơi. Giáo viên và cả lớp cùng đánh giá, cho điểm, đội chiến thắng là đội hết ít thời gian mà có kết quả tốt nhất.
 Ví dụ : Khi dạy tiết 16 “Ôn tập chương I - Đại số 7” để giúp học sinh hệ thống kiến thức của chương, tôi đã cho học sinh chơi trò chơi với yêu cầu sau:
Điền biểu thức thích hợp vào chỗ trống () dưới đây:
 Nhóm (tên nhóm)
Nhóm (tên nhóm)
Với a, b, c, d, m >0 
Phép lũy thừa: Với x,yQ; m, n N
Phép cộng: 
xm . xn =...
Phép trừ: 
xm: xn =... (... , ... )
 Phép nhân: với (b,d)
( xm)n = ...
Phép chia:= với (b, c, d )
(x . y )n = 
n = ( ... )
2.3.2.2. Trò chơi “Sai ở đâu? Sửa thế nào?”
* Tác dụng của trò chơi:
- Thông qua việc suy nghĩ, lập luận, thảo luận để tìm ra chỗ sai (học sinh thường mắc phải) trong lời giải của một bài toán đã có lời giải sẵn, từ đó giúp học sinh nắm chắc và hiểu đúng, hiểu sâu sắc kiến thức đã học, rèn luyện kỹ năng trình bày.
- Rèn luyện tư duy khoa học biện chứng, kỹ năng đánh giá, lập luận.
- Trò chơi này dễ chơi, dễ chuẩn bị và áp dụng dược trong nhiều tiết dạy.
* Chuẩn bị:
Giáo viên chuẩn bị sẵn một số bài toán có lời giải sai ở một vài bước trên bảng phụ (bố trí những chỗ sai là những sai lầm mà học sinh thường hay mắc phải khi làm kiểu bài này).
* Cách chơi:
- Tùy vào lúc thích hợp của tiết học, giáo viên đưa các bài toán có lời giải như đã nói ở trên lên bảng chính.
- Các đội thảo luận trong vài phút để truy tìm ra chỗ sai của bài giải và đưa ra phương án sửa sai. Đội tìm ra và có phương án sửa sai nhanh nhất sẽ trình bày đáp án, nếu chưa đúng các đội sau có quyền xin trả lời, khi nào lời giải đã đúng thì trò chơi dừng lại. Giáo viên yêu cầu những đội có câu trả lời đúng chỉ ra nguyên nhân sai lầm từ đó nhấn mạnh để cả lớp rút kinh nghiệm.
- Đội chiến thắng là đội tìm ra nhanh nhất những chỗ sai, chỉ ra nguyên nhân sai và sửa lại cho đúng.
 * Ví dụ: Đại số - Tiết 6: Luyện tập 
 Để giúp khắc sâu kiến thức và tránh một số sai lầm thường mắc phải khi giải toán về giá trị tuyệt đối, giáo viên có thể cho học sinh chơi theo luật chơi trên với các bài giải như sau: 
Bài tập: Tìm x biết. 
a) | x| = 0.5; b) | x| = - 0.5; c) | x+ 1| = 16
Bạn Anh đã giải như sau, em giúp Anh tìm ra chỗ sai và sửa lại cho đúng. Bài giải của Anh:
| x| = 0.5 => x = 0.5 
Vậy x = 0.5 
 | x| = - 0.5 => x = - 0.5 
Vậy x = - 0.5 
| x + 1| = 16 x + 1 = 16 x = 15 
 Vậy x = 15 
Sai lầm:
Sai lầm ở đây là khi áp dụng | x| bạn Anh lấy thiếu một trường hợp
 x = - 0,5
Sai của Anh là giá trị tuyệt đối của một số hữu tỉ thì luôn không âm
Sai lầm ở đây là bạn Anh mới xét có một trường hợp biểu thức trong giá trị tuyệt đối không âm ( x +1≥0) và thiếu trường hợp x+1<0
Lời giải đúng:
 a) | x| = 0.5 => x = 0,5 hoặc x = - 0,5
 b) Vì giá trị của một số thì luôn không âm nên không có giá trị nào của x thỏa mãn | x| = - 0.5
 c) | x+ 1| = 16 
 Vậy x = 15 và x = -17
Ví dụ: Khi dạy thêm về “Lũy thừa của một số hữu tỉ” Giáo viên khắc sâu kiến thức cho học sinh thông qua một số bài tập tổ chức dưới hình thức trò chơi như sau.
Bài tập: Tìm n biết ( n N ) : 2n + 2n = 64
Bạn Hà đã tìm được n = 3 nhưng thử lại thì kết quả hai vế của biểu thức khác nhau. Vậy bạn Hà sai ở đâu? em sửa lại cho đúng.
Lời giải của Hà :	 2n + 2n = 64 
	 => 2n+n = 64 
	 => 22n = 26 
	 => 2n = 6
	 => n = 3 
Sai lầm: Bạn Hà

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_su_dung_phuong_phap_tro_choi_nham_tao_hung_thu_hoc_tap.doc