SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng bài viết văn biểu cảm cho học sinh lớp 7 ở trường THCS Dân tộc Nội Trú Bá Thước

SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng bài viết văn biểu cảm cho học sinh lớp 7 ở trường THCS Dân tộc Nội Trú Bá Thước

“Văn học là nhân học”. Văn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống, trong sự phát triển tư duy và nhân cách của con người .

 Vừa là bộ môn mang tính khoa học vừa là bộ môn mang tính nghệ thuật môn Văn không chỉ cung cấp cho các em các tri thức khoa học mà còn giúp các em hoàn thiện nhân cách hướng tới cái Chân- Thiện - Mĩ trong cuộc sống. Đồng thời việc học tốt môn Ngữ Văn sẽ giúp các em học tốt các môn học khác và nguợc lại.

Môn Văn trong nhà trường bậc THCS chia làm ba phân môn: Văn học, Tiếng việt, Tập làm văn. Trong thực tế dạy và học, phân môn tập làm văn có vai trò vô cùng quan trọng và vấn đề quan trọng nhất của phân môn Tập làm văn là giúp học sinh có những kĩ năng viết thành thạo các thể loại văn học. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Dạy làm văn chủ yếu là dạy cho học sinh diễn tả cài gì mình suy nghĩ, mình cần bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ chính xác, làm nổi bật điều mình muốn nói” ( Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện , Nghiên cứu giáo dục, số 28,11/1973) .

 

doc 18 trang thuychi01 10103
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng bài viết văn biểu cảm cho học sinh lớp 7 ở trường THCS Dân tộc Nội Trú Bá Thước", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
C¸c ®Ò môc
Trang
1. Mở đầu
- Lí do chọn đề tài.
- Mục đích nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu.
1
2
2
3
2. Nội dung sáng kiến
2.1. Cơ sở lí luận.	
3 - 4
2. 2. Thực trạng nghiên cứu:
- Thực trạng vấn đề.
- Kết quả của thực trạng.
 4 - 5
2. 3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
- Giải pháp 1: Hướng dẫn học sinh nắm vững bản chất của văn biểu cảm, cách thể hiện tình cảm, cảm xúc của bản thân.
- Giải pháp 2: Hướng dẫn cách làm bài văn biểu cảm.
- Giải pháp 3: Đọc cho học sinh nghe các bài văn mẫu, luyện viết văn biểu cảm cho học sinh, chấm chữa bài thật kĩ cho học sinh.
 6 - 16
2. 4. Hiệu quả trong việc triển khai SKKN.
	15 - 16
3. Kết luận
	16
1. Mở đầu
- Lí do chon đề tài:
 “Văn học là nhân học”. Văn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống, trong sự phát triển tư duy và nhân cách của con người .
 Vừa là bộ môn mang tính khoa học vừa là bộ môn mang tính nghệ thuật môn Văn không chỉ cung cấp cho các em các tri thức khoa học mà còn giúp các em hoàn thiện nhân cách hướng tới cái Chân- Thiện - Mĩ trong cuộc sống. Đồng thời việc học tốt môn Ngữ Văn sẽ giúp các em học tốt các môn học khác và nguợc lại. 
Môn Văn trong nhà trường bậc THCS chia làm ba phân môn: Văn học, Tiếng việt, Tập làm văn. Trong thực tế dạy và học, phân môn tập làm văn có vai trò vô cùng quan trọng và vấn đề quan trọng nhất của phân môn Tập làm văn là giúp học sinh có những kĩ năng viết thành thạo các thể loại văn học. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Dạy làm văn chủ yếu là dạy cho học sinh diễn tả cài gì mình suy nghĩ, mình cần bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ chính xác, làm nổi bật điều mình muốn nói” ( Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện , Nghiên cứu giáo dục, số 28,11/1973) .
Trong quá trình giảng dạy môn ngữ văn và cụ thể là nghiên cứu thể loại văn biểu cảm ở học kì I lớp 7. Có thể nói biểu cảm là một nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con người và học văn biểu cảm không chỉ giúp học sinh có thêm những kiến thức khoa học quan trọng mà văn biểu cảm còn như dòng suối ngọt lành bồi đắp những tình cảm đẹp cho tâm hồn các em, là cơ hội quan trọng để giáo viên xích lại gần học sinh của mình thông qua những tình cảm, cảm xúc của các em về bố mẹ, ông bà, thầy cô, bạn bè. Để đạt được điều đó học sinh phải biết cách để thể hiện tình cảm, cảm xúc của bản thân mình. Nhưng trong thực tế giảng dạy, đa số các em học sinh chưa biết cách bộc lộ cảm xúc của mình để “khơi gợi lòng đồng cảm nơi người đọc” ( Văn 7 – tập 1). Khi viết văn biểu cảm, các em còn lẫn lộn, chưa phân biệt rõ ràng, rạch ròi giữa văn biểu cảm với các thể loại văn khác đặc biệt là các em còn nhầm lẫn giữa văn biểu cảm với tự sự và miêu tả. Chính vì thế, điểm các bài kiểm tra và điểm trung bình môn văn của các em còn thấp. Mặt khác các tài liệu viết về vấn đề này có nhưng mới chỉ là lí thuyết suông, mang tính chung chung về thể loại. Trong tổ chuyên môn nhà trường cũng chưa có được kinh nghiệm và biện pháp hữu hiệu nào để khắc phục được vấn đề. Thực tế đó qủa là đáng lo ngại, thực trạng vấn đề này phải giải quyết ra sao? Vì sao học sinh gặp nhiều khó khăn trong việc làm văn biểu cảm? Cần phải làm gì để nâng cao chất lượng dạy và học văn biểu cảm cho học sinh THCS? Đó là những vấn đề tôi trăn trở, day dứt và là lý do để tôi chọn đề tài: Một số biện pháp nâng cao chất lượng bài viết văn biểu cảm cho học sinh lớp 7 ở trường THCS Dân tộc Nội Trú Bá Thước.
 ( Tập trung ở phần văn biểu cảm về con người, sự vật, thế giới xung quanh.)
- Mục đích nghiên cứu: 
Như phần lí do chọn đề tài đã trình bày, văn biểu cảm là văn viết ra nhằm biểu đạt tình cảm, cảm xúc, sự đánh giá của con người với thế giới xung quanh và khêu gợi lòng đồng cảm nơi người đọc. Văn biểu cảm đòi hỏi người viết phải thực sự có tình cảm, cảm xúc trước những vấn đề mình sẽ viết. Bởi tình cảm trong văn biểu cảm thường là những tình cảm đẹp thấm nhuần tư tưởng nhân văn sâu sắc. Rèn các kĩ năng làm văn nói chung và viết văn biểu cảm nói riêng không chỉ xuất phát từ mục đích, yêu cầu của môn học (mang tính thực hành tổng hợp cao) trong nhà trường THCS mà còn là trách nhiệm, nhiện vụ của người thầy giáo trong chương trình thay sách giáo khoa hiện nay. Làm sao đó trên mỗi trang giáo án, mỗi tiết dạy thực hành – kĩ năng làm bài văn cho học sinh đều in đậm nét tình cảm nghề nghiệp, tình yêu con trẻ và những dấu ấn cảm xúc cá nhân trong quá trình tìm hiếu, nghiên cứu, soạn giảng của người thầy. Xác định rõ mục đích trên, bản thân tôi khi nghiên cứu đề tài này là để giúp học sinh: Khi viết bài văn biểu cảm cần nắm rõ các thao tác, cách thức trình bày bài văn biểu cảm, để từ các kĩ năng đó mà phát triển thành kĩ xảo, thói quen làm văn. Có như vậy khi ra đời học sinh mới có năng lực thực hành về ngôn ngữ, về văn học cũng như tư duy lôgic.
- Đối tượng nghiên cứu: 
+ Nội dung biểu cảm rất phong phú, song đề tài này tập trung ở phần văn biểu cảm về con người, sự vật, thế giới xung quanh. Cụ thể là: Một số biện pháp nâng cao chất lượng bài viết văn biểu cảm cho học sinh lớp 7.
+ Học sinh lớp 7A, 7B trường THCS Dân Tộc Nội Trú.
- Phương pháp nghiên cứu: 
 Để tiến hành nghiên cứu đề tài, một đề tài có tính chất đúc rút kinh nghiệm trong thực tiễn đòi hỏi người nghiên cứu phải có tâm huyết với vấn đề đặt ra, đồng thời phải có phương pháp nghiên cứu một cách khoa học. Để đảm bảo vấn đề đặt ra trong đề tài có tính thực tiễn, tính khả thi đòi hỏi người nghiên cứu nghiên cứu kỹ lưỡng các vấn đề, phải có nhiều phương pháp nghiên cứu mới đem lại hiệu quả thiết thực. Và để thực hiện thành công sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã sử dụng các phương pháp như :
- Phương pháp quan sát khoa học.
- Phương pháp điều tra, thống kê, tổng hợp, phân tích, đánh giá.
- Phương pháp so sánh đối chứng, xử lý số liệu.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận.
Trong nhà trường nói chung, trong trường THCS nói riêng, Ngữ văn là môn học trang bị cho học sinh những tri thức để đánh giá đúng các vấn đề văn học (bao gồm: tác phẩm, tác giả, các quá trình văn học  ) có nghĩa là góp phần tạo cho học sinh khả năng khám phá vẻ đẹp của tác phẩm văn học trong việc tiếp nhận cũng như khả năng biết đánh giá đúng đắn, khoa học các hiện tượng cuộc sống xã hội.
Song song với nhiệm vụ trên là quá trình giúp học sinh hình thành và phát triển khả năng sản sinh văn bản mới ( nói và viết).
Làm văn là phân môn hướng tới nhiệm vụ thứ hai này. Nó giúp học sinh hình thành những kĩ năng cần thiết để làm được bài văn. Người học sinh từ tiểu học đến trung học (kể cả vào đại học) đã và sẽ được làm văn theo ba dạng sau đây:
Dạng sáng tác văn học như: miêu tả, tường thuật, kể chuyện( tự sự) , biểu cảm và một số thể thơ quen thuộc như : thơ 5 chữ, thơ tứ tuyệt, thơ lục bát 
Dạng bài nghị luận với hai nội dung chủ yếu là nghị luận xã hội và nghị luận văn học ( trong chương trình ở THCS là ở lớp 7, 8, 9).
Dạng văn hành chính công vụ như: đơn từ, biên bản, thông báo, báo cáo, hợp đồng.
Đặc trưng cơ bản của nhóm thứ nhất là kích thích trí tưởng tượng phong phú, xây dựng óc quan sát tinh tế cho học sinh. Đặc trưng của nhóm thứ hai là nhằm hình thành và phát triển tư duy lí luận với khả năng lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục. Loại văn hành chính công vụ thì có đặc trưng là khuôn mẫu, công thức.
Trong nhà trường phổ thông, nhìn chung không đặt ra việc sáng tác văn học. Tuy nhiên để phù hợp với lứa tuổi học sinh THCS được làm quen với kiểu sáng tác, tạo tiền đề cho các em có thể vận dụng tốt trong quá trình học sau này.
Những bài văn hay loại này là những bài văn viết đúng quy cách, chân thật, có những khám phá hồn nhiên về thiên nhiên và đời sống gia đình, xã hội 
Trong chương trình Ngữ văn THCS, ở lớp 7 học sinh được học văn biểu cảm chiếm thời lượng gần hết học kì I nhưng vì nhiều lí do nên các em viết loại văn này vẫn chưa tốt.
Thực tế là giáo viên dạy Ngữ văn, công tác tại trường THCS Nội Trú, tôi thấy các em viết bài văn biểu cảm chưa có cảm xúc, còn mắc nhiều lỗi mà nếu giáo viên có thể giúp học sinh khắc phục được thì các em sẽ làm tốt hơn. Những hạn chế trong bài làm văn biểu cảm của các em một phần do các em, một phần do chưa có tài liệu nào bàn sâu về vấn đề này, đồng nghiệp và nhà trường chưa có kinh nghiệm để khắc phục. Đặc biệt là giáo viên trực tiếp giảng dạy chưa có được biện pháp phù hợp để giúp các em trong quá trình viết bài.
2. 2. Thực trạng nghiên cứu:
Thực trạng vấn đề:
Về phía giáo viên: Đa số giáo viên khi dạy học văn biểu cảm vẫn chưa quan tâm một cách đúng mức tới việc hướng dẫn cho các em thật kỹ những kiến thức cơ bản và quan trọng về văn biểu cảm, những giờ học lý thuyết chỉ là những giờ học thoáng qua và dạy văn biểu cảm cũng theo khuôn mẫu như các thể loại văn khác trong khi đó thế giới tình cảm, cảm xúc của con người lại vô cùng phong phú, không có khuôn mẫu. Đồng thời trong quá trình dạy học văn biểu cảm giáo viên chưa thật quan tâm tới tình cảm, cảm xúc của các em nhiều.
Về phía học sinh: Nhiều em chưa nắm vững những đặc trưng và bản chất cơ bản của văn biểu cảm. Chính vì lẽ đó khi làm bài tập các em còn lúng túng trong việc nhận diện thể loại văn biểu cảm, còn lẫn lộn giữa văn tự sự, miêu tả và biểu cảm hoặc chưa biết cách để bày tỏ tình cảm, cảm xúc của bản thân hay có cảm xúc nhưng chỉ là cảm xúc vay mượn và việc viết bài của các em chỉ mang tính nghĩa vụ chứ các em không xem mỗi giờ học văn biểu cảm là một cơ hội để các em được chia xẻ tình cảm, cảm xúc của bản thân và một lần để thấy mình gắn bó hơn với cuộc sống xung quanh, với những người xung quanh mình. Khi các em làm bài viết Tập làm văn số 2 tôi ra đề “Loài hoa em yêu” có thể nói đây là một dạng bài tập cơ bản của văn biểu cảm nhưng kết quả bài làm của các em làm tôi thấy thất vọng. Gần như các em thiên về việc tả loài hoa đó hơn là bày tỏ cảm xúc của mình về loài hoa đó. Hoặc khi các em làm bài viết Tập làm văn số 3: “Biểu cảm về người thân” các em viết: “Bố tôi làm công nhân, thường ngày bố đi từ sáng đến tối mới về. Có những khi bố về là chúng tôi đã đi ngủ nên chúng tôi ít khi trò chuyện với bố. Nhưng tôi sợ nhất là những lần bố kiểm tra bài vở của tôi.Thể nào hôm đó tôi cũng được một trận nhớ đời”. Liệu khi đọc đoạn văn trên, các đồng nghiệp của tôi có cho rằng đó là một đoạn văn biểu cảm? Toàn bài viết của em học sinh đó đều là những lời văn, đoạn văn tương tự như thế. Cũng với đề văn như trên, một học sinh khác viết về ông nội: “Quê nội tôi ở xa nên thỉnh thoảng tôi mới về thăm ông. Ông tôi ở nhà không phải làm gì chỉ việc chăm sóc mấy cây cảnh.Tôi không hiểu sao ông có thể cắt là tỉa cành cho các cây hàng giờ mà không thấy chán”.
Kết quả của thực trạng:
Thực trạng trên dẫn tới kết quả sau:
Tổng số HS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
60
0
0
10
16,7
30
50
15
25
5
8,3
 Từ thực trạng trên tôi thiết nghĩ cần phải có những biện pháp để nâng cao chất lượng bài viết văn biểu cảm của các em.
2. 3. Các giải pháp: 
Giải pháp1: Hướng dẫn học sinh nắm vững đặc điểm của văn biểu cảm và cách thể hiện tình cảm, cảm xúc của bản thân: 
Bước 1: Hướng dẫn học sinh nắm vững những đặc điểm của văn biểu cảm:
Để giúp các em có thể tiếp nhận một cách dễ dàng và nắm vững đặc điểm của văn biểu cảm tôi sưu tầm một số bài thơ, bài văn , câu ca dao hay trình bày lên máy chiếu cho các em quan sát và từ việc quan sát đọc những bài thơ, bài văn đó tôi đưa ra các câu hỏi như: những bài thơ, bài văn đó thể hiện tình cảm , cảm xúc gì? Và người viết thổ lộ những tình cảm , cảm xúc đó làm gì? Đã bao giờ em viết những bài văn tương tự chưa? Em viết để làm gì? Tiếp đó tôi yêu cầu các em tự tìm và đọc một số bài ca dao, bài thơ. Những việc làm trên sẽ giúp các em thấy được nhu cầu bộc lộ tình cảm, cảm xúc là nhu cầu cần thiết và quan trọng của mỗi người trong cuộc sống hàng ngày. Sau khi cho các em thầy tầm quan trọng của việc bộc lộ tình cảm, cảm xúc tôi hướng dẫn các em những đặc điểm chung của văn biểu cảm.Tôi trình chiếu hai đoạn văn biểu cảm cho các em đọc thầm và gọi hai em có giọng đọc diễn cảm trong lớp lần lượt đọc hai đoạn văn:
Đoạn văn 1: “Thảo thương nhớ ơi! Mới ngày nào Thảo còn ngồi chung bàn với Hồng, Ngọc, Minh, thế mà nay Thảo đã theo cha mẹ vào Thành phố Hồ Chí Minh, để cho bọn mình xiết bao mong nhớ. Thảo có nhớ những lần chúng mình cùng dạo Hồ Tây, cùng chơi Thủ Lệ, cùng tham quan Ao Vua? Thảo có nhớ một lần mình ốm Thảo chép bài cho mình?"(Sgk Ngữ Văn 7 tập một).
Đoạn văn 2: "Trên đài một người con gái nào đó vừa hát một bài dân ca của đất nước ta trong đêm khuya. Bây giờ tất cả đã im lặng rồi, giọt sao ngoài khung cửa đọng lại, đứng im không nháy nữa, đêm đã đi vào chiều sâu, mà vẫn còn nghe âm vang mãi giọng hát của người con gái lúc nãy. Một giọng hát dân ca, ngân nga bát ngát như cánh cò trên đồng lúa miền Nam chạy tới chân trời, có lúc rụt rè, e thẹn như khóe mắt người yêu mới gặp, có lúc tinh nghịch duyên dáng như những đôi chân nhỏ thoăn gánh lúa chạy trên những con đường làng trộn lẫn bóng tre và bóng nắng...Có lẽ không phải là một người con gái đã hát trên đài. Đó chính là quê hương ta đang lên tiếng hát. Tiếng ngân nga dội lên từ lòng đất, ở trong đó một góc vườn có đôi cây sầu đông và một giàn bầu đong đưa quả nặng, một ngày đã xa mẹ ta đã chôn nhúm rau của ta thưở mới lọt lòng. Đó là tiếng ngân nga của mặt đất, của dòng sông, của những xóm làng và những cánh đồng sau một ngày lao động và chiến đấu."(Sgk Ngữ Văn 7 tập một).
Khi các em đã đọc và quan sát hai đoạn văn tôi đưa ra các câu hỏi: Hai đoạn văn trên biểu đạt nội dung gì? Em có nhận xét gì về những tình cảm thể hiện ở trong hai đoạn văn trên? Và để thể hiện những tình cảm ấy hai đoạn văn đã dùng phương thức biểu đạt gì? Trả lời cho các câu hỏi trên là các em đã xác định được nội dung của đoạn văn biểu cảm là thể hiện tình cảm, cảm xúc với bạn bè, với quê hương và đây là những tình cảm đẹp mang tính nhân văn trong cuộc sống, cách thể hiện tình cảm có thể thể hiện trực tiếp bằng lời kêu, lời than hoặc dùng phương thức tự sự và miêu tả để thể hiện tình cảm.Sau đó, tôi trình chiếu hai đoạn văn một đoạn văn tự sự và một đoạn văn miêu tả cho các em đọc và quan sát:
Đoạn văn miêu tả:
"Thảo là bạn thân của tôi. Bạn có dáng người dong dỏng cao, có mái tóc dài và đẹp lúc nào cũng được tết gọn gàng sau lưng. Nhưng nổi bật nhất là khuôn mặt bầu bĩnh, đôi mắt tròn đen láy ánh lên sự thông minh, nhanh nhẹn."
Đoạn văn tự sự:
	"Tôi và Thảo là đôi bạn thân của nhau, nhà hai chúng tôi sát cạnh nhau.Sáng sáng tôi cùng Thảo cùng dắt tay nhau đi học, hai đứa vừa đi vừa trò chuyện và đố nhau những bài tính nhanh. Chiều về tôi và Thảo lại cùng nhau ôn bài.Tôi có chuyện gì buồn hay vui cũng đều tâm sự với Thảo và khi được chia xẻ với cô bạn ấy niềm vui của tôi được nhân đôi và nỗi buồn vơi đi một nửa"
Sau đó tôi đưa ra hệ thống câu hỏi để các em so sánh và rút ra sự khác nhau giữa đoạn văn biểu cảm với đoạn văn tự sự và đoạn văn miêu tả: So sánh nội dung của các đoạn văn trên? Để thể hiện nội dung ấy các đoạn văn đã dùng phương thức biểu đạt chính nào? Qua đây các em sẽ so sánh và thấy được những điểm khác biệt giữa văn biểu cảm với văn tự sự và miêu tả. Sau bài phần hướng dẫn trên lớp tôi tổ chức thi đua giữa các tổ trong lớp bằng việc yêu cầu các em về sưu tầm những bài văn biểu cảm, những bài thơ, những bài ca dao tổ nào tìm được đúng, nhiều sẽ được cộng điểm thi đua. Ở tiết học sau về văn biểu cảm tôi kiểm tra phần việc này của các em và chọn ra một hai văn bản biểu cảm tiêu biểu để các em tự phân tích những đặc điểm của văn biểu cảm dựa vào các văn bản đó.
Những việc làm trên giúp các em học sinh nắm được đặc điểm của văn bản biểu cảm và những khác biệt quan trọng giữa văn biểu cảm với miêu tả, tự sự đồng thời các em cũng thấy được vai trò quan trọng của yếu tố miêu tả và tự sự trong văn biểu cảm văn biểu cảm.
Bước 2: Hướng dẫn cho học sinh cách thể hiện tình cảm, cảm xúc của bản thân và cách làm một bài văn biểu cảm.
Khi các em đã nắm vững những đặc điểm cơ bản của văn biểu cảm tôi bắt đầu hướng dẫn cho các em cách thể hiện tình cảm, cảm xúc của bản thân vì việc làm này sẽ giúp các em có được những định hướng quan trọng khi thực hiện bài viết văn biểu cảm.
Văn biểu cảm là văn trữ tình, là bộc lộ tình cảm, cảm xúc chủ quan của con người. Nhưng thể hiện tình cảm như thế nào để khêu gợi lòng đồng cảm nơi người đọc người nghe mới là điều quan trọng.Thông thường có hai cách để thể hiện tình cảm, cảm xúc trong văn biểu cảm đó là biểu cảm trực tiếp và biểu cảm gián tiếp. Biểu cảm trực tiếp là cách gọi tên rõ tình cảm, cảm xúc của mình bằng từ ngữ, câu chữ chứ không thông qua một hình thức nào khác. Đây là một cách phổ biến và gần với học sinh hơn cả nhưng nếu thể hiện không khéo thì tình cảm các em thể hiện dễ rơi vào giả tạo, gượng ép. Vì vậy tôi hướng dẫn các em một số cách để thể hiện trực tiếp tình cảm của bản thân: dùng những động từ chỉ cảm xúc để diễn tả những cung bậc trong trạng thái tình cảm của con người, dùng từ có tính biểu cảm đặc biệt là những từ láy, dùng các từ hay các câu cảm thán hoặc dùng những câu hỏi tu từ. Bên cạnh việc hướng dẫn các em cách thể hiện tình cảm trực tiếp tôi cũng giới thiệu và hướng dẫn cách thể hiện gián tiếp để có thể một số học sinh khá giỏi vận dụng vào bài viết của mình.
Giải pháp 2: Hướng dẫn cách làm một bài văn biểu cảm.
Để học sinh có những kĩ năng cơ bản để thực hành bài viết văn biểu cảm việc hướng dẫn chi tiết và tỉ mỉ cách làm bài văn biểu cảm là một việc làm vô cùng quan trọng.Tôi hướng dẫn học sinh tỉ mỉ theo từng bước sau:
Bước 1: Tìm hiểu đề và tìm ý.
- Tìm hiểu đề: 
Có thể nói bước quan trọng đầu tiên của việc viết một bài văn biểu cảm là bước tìm hiểu đề và tìm ý. Ở bước thứ nhất này, trước khi cho học sinh tìm hiểu một đề bài cụ thể tôi cho các em làm quen và tiếp xúc với các dạng đề văn biểu cảm bằng cách trình chiếu cho các em đọc và quan sát những đề văn này:
Ví dụ:
- Cảm nghĩ về dòng sông (cánh đồng, vườn cây, đêm trăng ...) quê hương.
- Cảm nghĩ về nụ cười của mẹ.
- Vui buồn tuổi thơ.
- Loài cây em yêu.
Khi học sinh đã quan sát và làm quen với các dạng đề văn biểu cảm tôi bắt đầu hướng dẫn cho các em các bước tìm hiểu một đề văn biểu cảm.Thông thường, đề bài thường ra dưới dạng khái quát nhằm thích hợp với tất cả đối tượng học sinh. Do đó, quá trình tìm hiểu đề bài sẽ diễn ra như một hoạt động nhằm cá thể hóa đề bài cho từng học sinh kết quả của quá trình này là mỗi học sinh có một bài tập cho riêng mình.Trong đề bài văn biểu cảm, tôi thường định hướng cho các em tìm hiểu đề bằng cách trả lời các câu hỏi sau:
 - Em định phát biểu cảm nghĩ, tình cảm, mong muốn về đồ vật (con vật, loài cây,cảnh vật . . .) nào? Về người nào?
- Em viết bài biểu cảm đó nhằm mục đích gì? (giãi bày cảm xúc, tình cảm nào?).
- Em viết bài biểu cảm đó để ai đọc ? (cô giáo, thầy giáo, bố mẹ, bạn bè...)
Lời giải đáp cho ba câu hỏi trên sẽ quyết định nội dung bài viết (trình bày cảm xúc gì ?) , giọng điệu bài viết. 
Ví dụ: 
Đề bài Cảm nghĩ về nụ cười của mẹ.
Tôi lựa chọn đề bài trên trình chiếu lên bảng cho các em quan sát, đọc kỹ và gọi một số em học sinh lần lượt đọc lại đề bài sau đó tôi hướng dẫn các em tìm hiểu đề bài theo hệ thống câu hỏi:
- Đề bài yêu cầu biểu cảm về đối tượng nào? Đối tượng ấy có quen thuộc với em không? Để bày tỏ cảm xúc về đối tượng em sẽ viết văn biểu cảm, miêu tả hay tự sự? Và em sẽ dùng những phương thức gì để làm cơ sở bày tỏ tình cảm, cảm xúc của bản thân?
Việc tìm hiểu đề bài sẽ giúp các em xác định được nội dung bài viết và lựa chọn thể loại bài viết phù hợp với yêu cầu của đề.
- Tìm ý :
 Bài phát biểu cảm nghĩ vốn là một kiểu bài lệ thuộc vào cảm hứng, cảm xúc của người viết chứ không có khuôn khổ sẵn nên rất khó tìm một hệ thống ý chung cho cả lớp.Vì vậy muốn tìm ý cho bài viết văn biểu cảm giáo viên phải hướng dẫn học sinh quan sát, hình dung cụ thể đối tượng biểu cảm ( cảnh vật, vật, sự việc, con người...) trong không gian, thời gian, trong từng hoàn cảnh cụ thể. Phải biết lắng nghe những cung bậc cảm xúc của bản thân khi giao hoà cùng đối tượng để từ đó bày tỏ những cảm xúc, ý nghĩ của chính bản thân 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_bai_viet_van_bieu.doc