SKKN Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ độ tuổi 24 - 36 tháng ở trường Mầm non Thiết Ống huyện Bá Thước
Ngôn ngữ là hiện tượng lịch sử - xã hội nảy sinh trong hoạt động thực tiễn của con người. Trong quá trình cùng nhau lao động, loài người có nhu cầu trao đổi ý nghĩ, dự định, nguyện vọng, tâm tư tình cảm. Nhờ đó đến một giai đoạn phát triển nhất định đã xuất hiện những dấu hiệu quy ước chung để giao tiếp, trong đó có những dấu hiệu âm thanh, từ những tín hiệu này dần dần tạo thành từ ngữ và một hệ thống quy tắc ngữ pháp.[1]
Ngôn ngữ là phương tiện tư duy và công cụ giao tiếp xã hội, ngôn ngữ bao gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách, ngôn ngữ có vai trò là một phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh. Ngôn ngữ giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và nhận thức về môi trường xung quanh, thông qua cử chỉ và lời nói của người lớn trẻ làm quen với các sự vật hiện tượng có trong môi trường xung quanh, trẻ hiểu những đặc điểm, tính chất,công dụng của sự vật cùng với từ tương ứng với nó. Nhờ có ngôn ngữ mà trẻ nhận biết ngày càng nhiều các sự vật, hiện tượng mà trẻ tiếp xúc trong cuộc sống hang ngày.
Ngôn ngữ là giáo dục tình cảm, thẩm mỹ cho trẻ. Như vậy vấn đề phát triển ngôn ngữ một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng.
Nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể trao đổi với nhau nhưng kinh nghiệm tâm sự với nhau nỗi niềm thầm kín. Chính vì thế mà ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục phát tiển toàn diện cho trẻ. Thông qua ngôn ngữ, trẻ có thể nhận thức về thế giới xung quanh một cách sâu rộng, rõ ràng, chính xác. Ngôn ngữ giúp trẻ tích cực sáng tạo trong mọi hoạt động. Vì vậy việc phát triển toàn diện cho trẻ không thể tách rời với việc phát triển ngôn ngữ.
Nhờ có ngôn ngữ mà thông qua các câu chuyện trẻ dễ dàng tiếp nhận những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hoà nhập vào xã hội tốt hơn. Mà cũng nhờ có ngôn ngữ trẻ đã thể hiện được đầy đủ những nhu cầu, nguyện vọng và tình cảm của mình cũng nhờ có ngôn ngữ mà các nhà giáo dục, bậc phụ huynh có điều kiện hiểu con mình hơn, để uốn nắn, giáo dục và xây dựng cho trẻ những chuẩn mực đạo đức trong sáng chuẩn mực nhất.[2]
Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong quá trình giáo dục trẻ trở thành con người phát triển toàn diện. Sự phát triển chậm trễ về mặt ngôn ngữ có ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của trẻ.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÁ THƯỚC TRƯỜNG MẦM NON THIẾT ỐNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ ĐỘ TUỔI 24-36 THÁNG Ở TRƯỜNG MẦM NON THIẾT ỐNG, HUYỆN BÁ THƯỚC Người thực hiện: Phạm Thị Nguyên. Chức vụ: Giáo viên. Đơn vị công tác: Trường Mầm Non Thiết Ống. SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn. THANH HOÁ, NĂM 2018 Mục lục TT NỘI DUNG TRANG 1 1. Mở Đầu 1 2 1.1. Lí do chọn đề tài 1 3 1.2. Mục đích nghiên cứu 2 4 1.3. Đối tượng nghiên cứu. 2 5 1.4. Phương pháp nghiên cứu 2 6 2. Nội dung 2 7 2.1. Cơ sở lí luận 2 8 2.2. Thực trạng của vấn đề 3 9 2.2.1. Thuận lợi 3 10 2.2.2 Khó khăn 3 11 2.2.3 Khảo sát chất lượng đầu năm (tháng 9) với tổng số là: 20 trẻ 4 12 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vắn đề. 4 13 2.3.1. Biện pháp1: Nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. 5 14 2.3.2. Biện pháp 2: phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các trò chơi. 5 15 2.3.3. Biện pháp 3: Phát triển ngôn ngữ thông qua việc phối hợp với phụ huynh. 7 16 2.3.4. Biện pháp 4: Giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi. 8 17 2.3.5 Biện pháp 5: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các giờ hoạt động học. 11 17 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. 16 18 3. Kết luận, kiến nghị. 17 19 3.1. Kết luận 17 20 3.2. Kiến nghị 18 1. Mở Đầu 1.1. Lí do chọn đề tài Ngôn ngữ là hiện tượng lịch sử - xã hội nảy sinh trong hoạt động thực tiễn của con người. Trong quá trình cùng nhau lao động, loài người có nhu cầu trao đổi ý nghĩ, dự định, nguyện vọng, tâm tư tình cảm... Nhờ đó đến một giai đoạn phát triển nhất định đã xuất hiện những dấu hiệu quy ước chung để giao tiếp, trong đó có những dấu hiệu âm thanh, từ những tín hiệu này dần dần tạo thành từ ngữ và một hệ thống quy tắc ngữ pháp.[1] Ngôn ngữ là phương tiện tư duy và công cụ giao tiếp xã hội, ngôn ngữ bao gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách, ngôn ngữ có vai trò là một phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh. Ngôn ngữ giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và nhận thức về môi trường xung quanh, thông qua cử chỉ và lời nói của người lớn trẻ làm quen với các sự vật hiện tượng có trong môi trường xung quanh, trẻ hiểu những đặc điểm, tính chất,công dụng của sự vật cùng với từ tương ứng với nó. Nhờ có ngôn ngữ mà trẻ nhận biết ngày càng nhiều các sự vật, hiện tượng mà trẻ tiếp xúc trong cuộc sống hang ngày. Ngôn ngữ là giáo dục tình cảm, thẩm mỹ cho trẻ. Như vậy vấn đề phát triển ngôn ngữ một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể trao đổi với nhau nhưng kinh nghiệm tâm sự với nhau nỗi niềm thầm kín. Chính vì thế mà ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục phát tiển toàn diện cho trẻ. Thông qua ngôn ngữ, trẻ có thể nhận thức về thế giới xung quanh một cách sâu rộng, rõ ràng, chính xác. Ngôn ngữ giúp trẻ tích cực sáng tạo trong mọi hoạt động. Vì vậy việc phát triển toàn diện cho trẻ không thể tách rời với việc phát triển ngôn ngữ. Nhờ có ngôn ngữ mà thông qua các câu chuyện trẻ dễ dàng tiếp nhận những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hoà nhập vào xã hội tốt hơn. Mà cũng nhờ có ngôn ngữ trẻ đã thể hiện được đầy đủ những nhu cầu, nguyện vọng và tình cảm của mình cũng nhờ có ngôn ngữ mà các nhà giáo dục, bậc phụ huynh có điều kiện hiểu con mình hơn, để uốn nắn, giáo dục và xây dựng cho trẻ những chuẩn mực đạo đức trong sáng chuẩn mực nhất.[2] Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong quá trình giáo dục trẻ trở thành con người phát triển toàn diện. Sự phát triển chậm trễ về mặt ngôn ngữ có ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của trẻ. Chính vì vậy mà phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một việc làm cần thiết. Đối với trẻ nhà trẻ phát triển ngôn ngữ chính là phát trienr các khả năng nghe hiểu, nói của trẻ.vì thế nên tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ độ tuổi 24- 36 tháng ở trường Mầm non Thiết Ống huyện Bá Thước” nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ đối với chương trình giáo dục mầm non hiện nay 1.2. Mục đích nghiên cứu: Tìm ra những biện pháp phù hợp để phát triển ngôn ngữ mạch lạc, cung cấp nhiều vốn từ cho trẻ 24-36 tháng tại trường Mầm Non Thiết Ống, giúp trẻ bạo dạn tự tin trong giao tiếp và trẻ lĩnh hội được các kiến thức ở lớp học sau này của trẻ 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Tìm ra một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ độ tuổi 24- 36 tháng ở trường Mầm non Thiết Ống 1.4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Tham khảo nghiên cứu tài liệu, SGK, SGV hướng dẫn về sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin. - Phương pháp thống kê sử lý số liệu - Phương pháp quan sát sư phạm: Quan sát sự hứng thú của trẻ khi tham gia hoạt động. - Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm dạy và học: Tích luỹ các giờ dạy trên lớp, dự giờ tham khảo các tiết dạy mẫu. - Phương pháp thực nghiệm: Lựa chọn lớp thực nghiệm dạy và lớp đối chứng áp dụng dạy thử nghiệm trên lớp. - Phương pháp phân tích: So sánh chất lượng giờ dạy, lực học, mức độ độ hứng thú của học sinh và sự phát triển ngôn ngữ của học sinh khi chưa áp dụng sáng kiến với khi áp dụng sáng kiến. 2. Nội dung 2.1. Cơ sở lí luận Bác Hồ đã dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó.”[3] Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người nói chung và trẻ mầm non nói riêng thì ngôn ngữ có một vai trò rất quan trọng không thể thiếu được. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đối với trẻ nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoà nhập với cộng đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn của người lớn mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của xã hội mà mọi người đều phải thực hiện theo những quy định chung đó. Ngôn ngữ còn là phương tiện giúp trẻ tìm hiểu khám phá, nhận thức về môi trường xung quanh, thông qua cử chỉ lời nói của người lớn trẻ sẽ được làm quen với các sự vật, hiện tượng có trong môi trường xung quanh. Nhờ có ngôn ngữ mà trẻ sẽ nhận biết ngày càng nhiều màu sắc, hình ảnh của các sự vật hiện tượng trong cuộc sống hàng ngày. Ngôn ngữ bao gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Ngôn ngữ nói là ngôn ngữ âm thanh,dùng trong giao tiếp tự nhiên hàng ngày; trong đó người nói người nghe tiếp xúc trực tiếp với nhau, có thể thay phiên nhau trong vai nói và vai nghe. Ngôn ngữ viết là thứ ngôn ngữ được thể hiện bằng chữ viết trong văn bản và được tiếp nhận bằng thị giác. Nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ bao gồm nội dung nghe, nói, và làm quen với sách. Đối với trẻ từ 24 -36 tháng tuổi là trẻ nghe và thực hiện các yêu cầu bằng lời nói, trẻ được nghe các bài đồng dao, ca dao, hò vè, câu đố, bài hát và hiểu được nội dung câu truyện ngắn. Trẻ phải các từ chỉ đồ vật, con vật, đặc điểm, hành động quen thuộc trong giao tiêp, thể hiện nhu cầu, mong muốn và hiểu biết bằng 1-2 câu đơn giản và câu dài, trẻ đọc được bài thơ ngắn có 3-4 tiếng, kể lại đoạn truyện được nghe nhiều lần, trẻ biết sử dụng các từ thể hiện sự lễ phép khi nói chuyện với người lớn. Khi làm quen với sách trẻ chú ý lắng nghe người lớn đọc sách, xem tranh và gọi tên các nhân vật, sự vật, hành động gần gũi[4] 2.2. Thực trạng của vấn đề Trường mầm non Thiết Ống đạt chuẩn quốc gia mức độ I. Nhà trường có một đội ngũ cán bộ giáo viên trẻ nhiệt tình, ham học hỏi và luôn cầu thị tiến bộ. Ban giám hiệu luôn quan tâm chỉ đạo về chuyên môn rất sát sao, do vậy giáo viên nắm vững về chuyên môn, tổ chức các hoạt động có hiệu quả Bản thân đã vào ngành được 23 năm. Hiện tại, tôi được phân công chủ nhiệm nhóm 24-36 tháng tuổi với tổng số là: 20 cháu. Trong quá trình tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ tôi gặp phải những thuận lợi và khó khăn sau: 2.2.1. Thuận lợi: Phòng nhóm đảm bảo diện tích khá rộng rãi, thoáng mát. Trẻ được phân chia theo đúng độ tuổi. Đa số trẻ đi học rất đều. Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho tổ chức các hoạt động giáo dục phong phú về màu sắc và hình ảnh, hấp dẫn thu hút trẻ. Nhà trường thương xuyên lên kế hoạch và tổ chức các giờ mẫu để giáo viên trong trường dự giờ trao đổi rút kinh nghiệm một số hoạt động giáo dục do nhà trường tổ chức. Bản thân luôn nhiệt tình ham học hỏi, thường xuyên làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo phục vụ cho việc cung cấp và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 2.2.2. Khó khăn: - Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học còn thiếu. - Đa số trẻ chưa học qua chương trình 18-24 tháng nên khả năng nhận thức còn hạn chế các cháu bắt đầu đi học nên còn nhút nhát, khóc nhiều, chưa mạnh dạn hát và biểu diễn trước nhiều người nên việc giúp trẻ tự tin và mạnh dạn hơn cần có biện pháp và có thời gian - Chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ diễn ra thường xuyên, liên tục, để bám sát vào các hoạt động trên thì giáo viên có ít thời gian làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo. - Khả năng phát âm của trẻ còn chưa rõ ràng, cơ quan phát âm của trẻ chưa thực sự hoàn chỉnh, âm phát ra yếu. - Phụ huynh đa phần làm nông nghiệp nên chưa giành nhiều thời gian quan tâm nhiều đến việc học của con nên sự phối kết hợp trong vấn đề giáo dục còn hạn chế. - Đồ dùng phục vụ cho từng tiết dạy còn chưa đủ nên chưa thu hút được sự chú ý của trẻ chưa đủ để đáp ứng được sự đổi mới của môn học. -Trí nhớ của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ chưa nhớ hết trật tự của các âm khi sắp xếp thành câu vì thế trẻ thường xuyên bỏ bớt từ, bớt âm khi nói, còn nhiều trẻ phát âm chưa chính xác, nói ngọng dấu ngã - dấu sắc, dấu hỏi - dấu nặng. - Lớp học tương đối đông và liên tục nhận cháu mới nên việc rèn nề nếp rất vất vả, trẻ còn khóc nhiều chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt của lớp nên còn bỡ ngỡ. Mỗi trẻ lại có những sở thích và cá tính khác nhau. - Do sự cưng chiều của gia đình đôi khi còn dùng những lời nói nhịu để nịnh trẻ khiến cho trẻ bắt chiếc theo. 2.2.3. Khảo sát chất lượng đầu năm (tháng 9) với tổng số là: 20 trẻ Trước khi áp dụng một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động âm nhạc cho trẻ tôi đã tiến hành khảo sát trên trẻ và được kết quả như sau: Phân loại khả năng Tốt Khá TB Yếu Sl % Sl % Sl % Sl % Khả năng nghe hiểu ngôn ngữ và phát âm 2/20 10 5/20 25 9/20 45 4/20 20 Vốn từ 2/20 10 5/20 25 9/20 45 4/20 20 Khả năng nói đúng ngữ pháp 2/20 10 7/20 35 9/20 45 4/20 20 Khả năng giao tiếp 3/20 15 8/20 40 7/20 35 2/20 10 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là giáo dục khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ và phát âm chuẩn, phát triển vốn từ, dạy trẻ nói đúng ngữ pháp, phát triển ngôn ngữ mạch lạc, giáo dục văn hoá giao tiếp lời nói. Ngoài ra ngôn ngữ còn là phương tiện phát triển thẩm mỹ, tình cảm, đạo đức. Đặc biệt nhờ có ngôn ngữ mà trẻ dễ dàng tiếp nhận những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hoà nhập vào xã hội tốt hơn. Chính vì vậy mà trong quá trình dạy trẻ tôi đã mạnh dạn áp dụng một số biện pháp dạy trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua một số hoạt động sau: 2.3.1. Biện pháp 1: Nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ: Ở lứa tuổi 24-36 tháng vốn từ của trẻ đang phát triển, khả năng phát âm của trẻ chưa cao, trẻ chỉ thuộc những bài thơ ngắn lời, câu từ dễ. Khả năng chú ý, ghi nhớ chưa cao, trẻ chỉ có thể tập trung tối đa 15 đến 20 phút, trẻ thường dễ chịu ảnh hưởng tác động từ bên ngoài, (ngồi không ngay ngắn trong khi học, mất trật tự, không kiềm chế các hoạt động cá nhân). Trong khi đó việc trẻ tập trung, ghi nhớ có chủ đích và hứng thú trong giờ hoạt động chung là rất quan trọng. Chính vì vậy mà giáo viên cần hiểu tâm sinh lý của trẻ. * Đặc điểm phát âm: Đa số trẻ đã phát âm được các âm khác nhau. Trẻ đã phát âm được các âm của lời nói nhưng vẫn còn ê a. Trẻ hay phát âm sai ở những từ khó, những từ có 2/3 âm tiết, * Đăc điểm vốn từ : Ở lứa tuổi này vốn từ của trẻ còn rất ít mà danh từ và động từ ở trẻ chiếm ưu thế. Trẻ đã sử dụng chính xác các từ chỉ đồ vật trong giao tiếp sinh hoạt hàng ngày, những từ chỉ khái niệm tương đối như hôm qua, hôm nay trẻ đã biết sử dụng những từ lễ phép như cháu chào ông,cháu xin lỗi, cháu cảm ơn. Ngoài ra một số trẻ đã biết sử dụng các từ chỉ màu sắc như màu xanh, màu đỏ, màu vàng. * Sắp xếp cấu trúc lời nói. Có một số trẻ biết cách diễn đạt nội dung sự liên kết các câu nói lại với nhau tạo thành chuỗi lời nói nhằm diễn tả chọn vẹn một ý để giúp người nghe hiểu được. Đối với lứa tuổi này yêu cầu trẻ kể lại một câu chuyện hay tả lại một sự kiện hiện tượng xẩy ra thì còn gặp khó khăn phải tập dần dần. * Diễn đạt nội dung nói: ở lứa tuổi này khi diễn đạt trẻ còn ê, a, ậm ừ, có khi còn chưa diễn đạt được ý muốn của mình bằng những câu đơn giản, còn rụt rè chưa mạnh dạn trong giao tiếp. * Đặc điểm ngữ pháp: trẻ lứa tuổi này đã nói được một số câu đơn giản, biết thể hiện nhu cầu mong muốn và hiểu biết của mình ví dụ cô ơi con muốn uống sữa Khi đã nắm bắt được tâm lý của lứa tuổi để cô tổ chức giáo dục trẻ thì cái hiệu quả của sự chú ý của trẻ sẽ tập trung và đạt hiệu quả cao hơn. 2.3.2. Biện pháp 2: phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các trò chơi Đối với trẻ nhà trẻ, được phát triển ngôn ngữ thông qua trò chơi là một biện pháp tốt nhất. Trò chơi đã trở thành phương tiện để cung cấp, tích luỹ được nhiều vốn từ và trên cơ sở hiểu biết đầy đủ ý nghĩa của những từ đó trẻ biết sử dụng “số vốn từ ”đó một cách thành thạo. Từ trò chơi,trẻ khám phá ra những hiện tượng rồi liên hệ đến từ. Trong trò chơi trẻ liên hệ thường xuyên với trò chơi đồ vật, màu sắc, cấu tạo, công dụng của vật thể để được tiếp nhận được ghi nhớ. Qua trò chơi trẻ sẽ được giao tiếp mạnh dạn hơn, ngôn ngữ cũng lưu loát hơn, vốn từ của trẻ cũng được tăng lên. Và tôi nhận thấy rằng khi trẻ chơi trò chơi xong sẽ gây sự hứng thú lôi cuốn trẻ vào các hoạt động khác. Như vậy trẻ sẽ tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng và thoải mái Bản thân tôi đã tìm tòi, tham khảo, đọc những tài liệu sách và tôi thấy rằng trò chơi này thực sự có hiệu quả làm tăng thêm vốn từ cho trẻ, từ đó ngôn ngữ của trẻ ngày càng phong phú. *Trò chơi 1: “Con gì kêu như thế?” Mục đích của trò chơi này là tôi muốn trẻ luyện tai nghe với các âm thanh khác nhau nhận biết tiếng kêu của một số con vật quen thuộc được một số đồ dùng quen thuộc từ đó ngôn ngữ của trẻ cũng được phát triển: Chuẩn bị: + Máy chiếu + Các slide tranh các con vật chó, mèo, vịt. + Hiệu ứng tiếng kêu của các con vật chó, mèo, vịt. Tiến hành: Tôi cho trẻ ngồi chiếu xung quanh cô. Cô mở hiệu ứng tiếng kêu của các con vật như “meo meo” và hỏi trẻ: Con gì kêu đấy? “gâu gâu” và hỏi trẻ: Con gì sủa đấy? “Cạc cạc” và hỏi trẻ: Con gì kêu đấy? Cô lần lượt đưa tranh các con vât cho trẻ xem và hỏi trẻ: + Con mèo kêu như thế nào? + Con chó sủa ra sao? + Con vịt kêu như thế nào? Sau khi hỏi trẻ xong tôi vận dụng trò chơi này để rèn sự nhanh nhẹn và tư duy của trẻ. Tôi yêu cầu trẻ làm theo yêu cầu của cô khi cô nói tên con vật trẻ làm tiếng kêu và ngược lại cô làm tiếng kêu của các con vật trẻ nói tên các con vật đó. + Trò chơi 2: “Con muỗi ” Mục đích của trò chơi này là tôi muốn trẻ đọc theo cô và biết thực hiện theo lời nói của cô Cách chơi: - Cô đứng phía trước trẻ, cô cho trẻ đọc và làm động tác theo cô. - Cô cho trẻ đọc từng lời một có kèm theo động tác: + Có con muỗi vo ve, vo ve (trẻ giơ ngón tay trỏ ra trước mặt vẫy qua vẫy lại theo nhịp đọc) + Đốt cái tay, đốt cái chân, rồi bay đi xa. (lấy ngón tay trỏ vào cánh tay đối diện, chỉ xuống đùi rồi dang 2 tay sang ngang). + Úi chà! úi chà! Dang tay ra đánh cái bép, con muỗi xẹp. Rửa tay (nhún vai 2 lần, dang 2 tay sang ngang, vỗ tay một cái rồi chỉ vào chóp mũi. Sau đó xoa 2 tay vào nhau vờ rửa tay) Khi trẻ chơi tôi nhận thấy tất cả các trẻ đều tham gia đọc cùng cô, có trẻ đọc được cả câu, có trẻ bập bẹ bớt một hai từ. Nhưng qua đó cũng giúp ngôn ngữ của trẻ dần dần được hình thành trọn vẹn hơn . +Trò chơi 3: “Bé muốn gì ”. Mục đích giúp trẻ sử dụng từ và câu đơn giản để bày tỏ mong muốn, trả lời một số câu hỏi + Chuẩn bị: - Một số đồ vật, đồ chơi đẹp hấp dẫn + Tiến hành: Cô cho các đồ vật, đồ chơi vào một cái hộp. Cô mở hộp và lấy lần lượt các đồ vật đồ chơi ra cho trẻ xem. Cô nói với trẻ: Các con có thích chơi các đồ chơi này không ? Khi muốn cô đưa đồ chơi, các con nói như thế nào nhỉ? Tôi chỉ đưa đồ chơi, đồ vật khi trẻ nói được tên đồ vật, đồ chơi đó hoặc nói “cho con” “con xin” Khi trẻ đang chơi tôi đến gần và hỏi trẻ: “Cái gì đây” “con đang làm gì”.[5] 2.3.3. Biện pháp 3: Phát triển ngôn ngữ thông qua việc phối hợp với phụ huynh Sự phối kết hợp giữa gia đình và cô giáo là một mắt xích rất quan trọng nếu chỉ có cô dạy thì chưa đủ mà việc phối hợp với phụ huynh cùng dạy là một vấn đề quan trọng. Bởi vậy, hằng ngày vào giờ đón trả trẻ tôi thường xuyên trao đổi về tình hình học tập của trẻ với phụ huynh. Mỗi chủ điểm tôi thường tạo môi trường cho trẻ học, tuyên truyền về công tác chăm sóc giáo dục trẻ, từng ngày, từng tuần, để phụ huynh nắm được chương trình học của con em mình. Mặt khác trong khoảng thời gian trẻ ở trường giáo viên là người luôn bên cạnh trẻ, hiểu được những tâm tư tình cảm của trẻ, do đó mà giáo viên luôn muốn các con trong lớp mình có thêm vốn từ. Nên tôi thường xuyên thông báo ,trao đổi với phụ huynh về những trẻ có khả năng phát âm còn chưa rõ ràng để gia đình có hướng bồi dưỡng thêm cho trẻ ở nhà, tuyên truyền với các bậc phụ huynh mua băng đĩa nhạc có các bài hát mầm non thuộc chủ đề, chủ điểm để các con được luyện tập ở nhà và kể các câu chuyện ngắn, đọc bài thơ câu đố để trẻ nghe và đọc theo. Hơn nữa để kích thích thích hứng thú say mê phát triển vốn từ của trẻ thì rất cần phụ huynh giúp đỡ hỗ trợ về mặt kinh phí cũng như đồ dùng, đồ chơi giảng dạy hoặc mang đến cho các cô những nguyên vật liệu mở như lon bia, hộp sữa, chai nhựa, Để cô và trẻ có thể tự tạo ra những đồ dùng, đồ chơi để phục vụ cho việc dạy và học của trẻ. Như vậy việc phối kết hợp giữa phụ huynh và nhà trường sẽ tạo điều kiện cho trẻ phát triển vốn từ một cách tốt nhất.[4] Khi áp dụng phương pháp này thì phụ huynh đã có ý thức và chú trọng hơn trong việc phát triển lời nói cho trẻ từ đó vốn từ của trẻ đã được tăng lên và nói ngọng, nói lắp giảm dần. 2.3.4. Biện pháp 4: Giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi: + Giờ đón trẻ: Giờ đón trẻ là lúc cần tạo không khí vui vẻ, lôi cuốn trẻ tới trường, tới lớp cô phải thật gần gũi, tích cực trò chuyện với trẻ. Vì trò chuyện với trẻ là hình thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ cho trẻ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là ngôn ngữ mạch lạc. Bởi qua cách trò chuyện với trẻ cô mới có thể cung cấp, mở rộng vốn từ cho trẻ. Ví dụ: Cô trò chuyện với trẻ về gia đình của trẻ: + Gia đình con có mấy người? + Trong gia đình con yêu ai nhất? + Ai là người hay đưa con đến trường? + Bố mẹ con thường đưa con đi đến trường bằng phương tiện gì? Khi trẻ được chơi, được trò chuyện với cô trẻ tự tin vào vốn từ của mình, ngôn ngữ của trẻ nhờ đó mà được mở rộng và phát triển hơn. Ngoài ra trong giờ đón trẻ, trả trẻ tôi luôn nhắc trẻ biết chào ông, bà, bố mẹ như vậy kích thích trẻ trả lời câu trọn vẹn bên cạnh đó giáo dục trẻ có thói quen lễ phép, biết vâng lời. Hình ảnh cô trò chuyện với trẻ trong giờ đón trẻ + Giáo dục ngôn ngữ thông qua chơi ngoài trời: Hàng ngày đi dạo chơi quanh sân trường tôi thường xuyên đặt câu hỏi để trẻ được gọi tên các đồ chơi quanh sân trường như: Đu quay, cầu trượt, bập bênh Ngoài ra tôi còn giới thiệu cho trẻ biết vườn cổ tích của trường và hỏi trẻ: + Đây là gì? (trẻ trả lời vườn cổ tích) + Trong vườn cổ tích có câu chuyện gì ? (tấm cám, nàng bạch tuyết và bảy chú lùn) + Đây là nhân vật gì trong chuyện “Tấm cám”? (Cô tấm) + Cô Tấm đang làm gì? + Còn đây là cái gì? (cái giếng) + Cô Tấm nuôi con gì trong giếng này? (con cá) Giáo dục: Các con nhớ khi vào vườn cổ tích chơi các con kh
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_phat_trien_ngon_ngu_cho_tre_do_tuoi_24.doc