SKKN Một số biện pháp làm giảm tình trạng stress trong giờ Ngữ văn tại lớp 10B trường THPT Như Xuân II

SKKN Một số biện pháp làm giảm tình trạng stress trong giờ Ngữ văn tại lớp 10B trường THPT Như Xuân II

Ngành giáo dục đang trên chặng đường đổi mới. Đó là nhu cầu và đòi hỏi tất yếu. Mặc dù vậy đội ngũ giáo viên đang đối mặt với nhiều vấn đề, từ trong mỗi người và bên ngoài xã hội. Trên lý thuyết thầy cô giáo hiểu mình cần đổi mới tư duy, phương pháp dạy học, rèn luyện kỹ năng, tiếp cận công nghệ và học ngoại ngữ. Nhưng trên thực tế có một khoảng trống trong việc giáo dục học sinh với nhiều vấn đề nổi cộm. Theo tôi có 2 nguyên nhân chính.

Thứ nhất: tâm lý học sinh ngày càng phức tạp, xã hội có sự phân hóa trong mức sống và nhận thức, phụ huynh nhiều mong muốn với người dạy học nhưng cũng đặt lên họ những áp lực nặng nề. Thứ hai: Bản thân người thầy người cô còn lúng túng khi thực hiện nhiệm vụ, sự tự thay đổi diễn ra còn chậm và không đồng đều. Mỗi người đều có những vấn đề cá nhân, không dễ dàng đặt nó ở ngoài cửa lớp học.

Qua thực tế dạy học và công tác đoàn thể, tôi nhận thấy vấn đề đang diễn ra âm ỉ đó là tình trạng stress ở cả giáo viên và học sinh. Tình trạng stress sẽ gây ra không khí nặng nề trong giờ học, tạo ra sự xa cách giữa giáo viên và học sinh, sự hợp tác giữa thầy và trò mang tính chất đối phó, gượng gạo.

 

docx 15 trang thuychi01 9535
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp làm giảm tình trạng stress trong giờ Ngữ văn tại lớp 10B trường THPT Như Xuân II", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT NHƯ XUÂN II
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP LÀM GIẢM TÌNH TRẠNG STRESS TRONG GIỜ NGỮ VĂN TẠI LỚP 10B TRƯỜNG THPT NHƯ XUÂN II
 	Người thực hiện: Võ Thị Thanh Xuân
 	 Chức vụ: Giáo viên
 	 SKKN thuộc môn: Ngữ văn
THANH HÓA NĂM 2019
Mục lục
Trang
1.
Mở đầu
1
1.1.
Lí do chọn đề tài
1
1.2.
Mục đích nghiên cứu
2
1.3.
Đối tượng nghiên cứu
2
1.4.
Phương pháp nghiên cứu
2
1.5.
Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
2
2
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
3
2.1.
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
3
2.2.
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
4
2.3.
Các biện pháp đã áp dụng
4
2.3.1.
Giao tiếp bằng mắt
4
2.3.2.
Sử dụng lời phê phù hợp trong bài viết
4
2.3.3.
Giao nhiệm vụ học tập kết hợp các kĩ năng nói, viết, xem, nghe, đọc
5
2.3.4.
Sử dụng biện pháp đọc diễn cảm và các kỹ thuật dạy học tích cực
6
2.4.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
10
3.
Kết luận , kiến nghị
10
3.1
Kết luận
10
3.2
Kiến nghị
10
BIỆN PHÁP GIẢM STRESS TRONG GIỜ HỌC NGỮ VĂN
TẠI LỚP 10B TRƯỜNG THPT NHƯ XUÂN II
1.Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Ngành giáo dục đang trên chặng đường đổi mới. Đó là nhu cầu và đòi hỏi tất yếu. Mặc dù vậy đội ngũ giáo viên đang đối mặt với nhiều vấn đề, từ trong mỗi người và bên ngoài xã hội. Trên lý thuyết thầy cô giáo hiểu mình cần đổi mới tư duy, phương pháp dạy học, rèn luyện kỹ năng, tiếp cận công nghệ và học ngoại ngữ. Nhưng trên thực tế có một khoảng trống trong việc giáo dục học sinh với nhiều vấn đề nổi cộm. Theo tôi có 2 nguyên nhân chính.
Thứ nhất: tâm lý học sinh ngày càng phức tạp, xã hội có sự phân hóa trong mức sống và nhận thức, phụ huynh nhiều mong muốn với người dạy học nhưng cũng đặt lên họ những áp lực nặng nề. Thứ hai: Bản thân người thầy người cô còn lúng túng khi thực hiện nhiệm vụ, sự tự thay đổi diễn ra còn chậm và không đồng đều. Mỗi người đều có những vấn đề cá nhân, không dễ dàng đặt nó ở ngoài cửa lớp học. 
Qua thực tế dạy học và công tác đoàn thể, tôi nhận thấy vấn đề đang diễn ra âm ỉ đó là tình trạng stress ở cả giáo viên và học sinh. Tình trạng stress sẽ gây ra không khí nặng nề trong giờ học, tạo ra sự xa cách giữa giáo viên và học sinh, sự hợp tác giữa thầy và trò mang tính chất đối phó, gượng gạo.
Môn văn là một trong những môn thi bắt buộc của kỳ thi THPT quốc gia. Đây là môn học đặc biệt quan trọng giúp học sinh phát triên các năng lực giao tiếp, thẩm mỹTuy nhiên việc học văn ở các nhà trường còn đối diện với nhiều vấn đề trong đó có phương pháp dạy của giáo viên và tâm lý của học sinh. Giáo viên thường tập trung dạy kiến thức do áp lực điểm số, chỉ tiêu các kỳ thi. Trong khi đó, tình trạng căng thẳng trong học tập của học sinh có dấu hiệu gia tăng. Học sinh THPT có 13 môn học, đa số các em đều học ngày 2 buổi. Học sinh chịu sự quá tải của môn học và chương trình phổ thông hiện hành. Mục tiêu học tập của học sinh không có hoặc không rõ ràng. Một số khác lực học yếu sinh ra chán nản. Bên cạnh đó học sinh gặp phải nhiều vấn đề của cuộc sống gia đình, quan hệ bạn bè phức tạp, ảnh hưởng trái chiều của mạng xã hội. Học sinh rơi vào tình trạng stress ngày càng nhiều.
1.2.Mục đích nghiên cứu 
Từ thực trạng trên, tôi chọn nghiên cứu vấn đề biện pháp giảm Stress trong giờ Ngữ văn tại lớp 10B trường THPT Như Xuân II nhằm khắc phục tình trạng căng thẳng trong giờ học, thay đổi thái độ và nhận thức của học sinh về bộ môn ngữ văn nói riêng và việc học nói chung.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Nhóm học sinh bị stress ở lớp 10B trường THPT Như Xuân II, tìm nguyên nhân học sinh bị stress và đưa ra giải pháp để khắc phục tình trạng đã nêu; dần thay đổi cách thức dạy học va giáo dục học sinh.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh
1.5.Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
	Các sáng kiến kinh nghiệm của đồng nghiệp chủ yếu nghiên cứu khảo sát về biểu hiện stress, không thể hiện trong phạm vi môn học cụ thể và chỉ ra biện pháp khắc phục.SKKN của tôi tập trung vào nhóm đối tượng cụ thể là học sinh lớp 10B trường Như Xuân II; Tìm biện pháp khắc phục và đã có những chuyển biến tích cực và hiệu quả nhất định. Kinh nghiệm này có thể sử dụng cho nhiều bộ môn và nhiều hoạt động giáo dục trong nhà trường.
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Stress là phản ứng của cơ thể trước bất cứ một yêu cầu, áp lực hay một yếu tố tác động nào đe dọa đến sự tồn tại lành mạnh của con người cả về thể chất lẫn tinh thần. Stress là một khái niệm đa hình. Trong thường ngày chúng ta đều trải nghiệm stress  ở nhiều khía cạnh khác nhau trong các hoạt động của chúng ta:ở trường, ở nhà,  nơi công sở và thậm chí cả trong các hoạt động thể dục thể thao cũng có stress,stress luôn luôn tồn tại quanh ta. Bất kỳ ai cũng có thể rơi vào trạng thái stress. Stress có 4 dạng biểu hiện về cơ thể, cảm xúc, hành vi, trí tuệ, cụ thể: 
Stress cơ thể: mệt mỏi, đau đầu, đau lưng, đau cơ bắp, chóng mặt đổ mồ hôi, tức ngực - khó thở, tay chân bủn rủn, bụng cồn cào, tim đập nhanh – thở gấp, tiêu chảy táo bón.
Stress cảm xúc: Lo âu, dễ nổi cáu, hồi hộp, chán nản, sợ hãi, không hài lòng, trống rỗng, mất phương hướng, cảm thấy dễ tổn thương, căng thẳng,
Stress trí tuệ: Mất khả năng tập trung, liên tưởng chậm, trí nhớ giảm, đánh giá nhận định kém.
Stress hành vi: Hạn chế tham gia các hoạt động, hay tranh luận quá khích, né tránh học tập, diễn đạt không lưu loát, ngại tiếp xúc, trêu bạn, cãi thầy cô, mắt nhìn vô định, uống rượu bia.
Các nguyên nhân dẫn đến tình trạng stress của học sinh thường là do: chương trình nặng, khó, lịch học dày; giáo viên cứng nhắc, quá nghiêm khắc; Học sinh thiếu kỹ năng sống, không có động cơ học tập; rắc rối trong quan hệ với bạn bè, gia đình hoặc không có mục tiêu học tập, mất phương hướng, lực học yếu dẫn đến chán nản, buông xuôi, nghiệm games, mạng xã hội.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trong quá trình dạy học, quan sát, theo dõi học sinh tham gia các hoạt động, tôi nhận thấy luôn có một nhóm học sinh stress trong học tập. Lớp 10B có 45 học sinh, số học sinh nữ gấp đôi số học sinh nam. Nhìn chung các em có lực học trung bình khá, thiên về các môn thuộc khối xã hội. Trong lớp có nhiều em được lựa chọn tham gia kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh. Bên cạnh đó có một nhóm tôi xếp vào đối tượng bị stress. Các em lười học thường xuyên tỏ ra uể oải, ủ rũ, ngồi học thường khồng đúng tư thế (nằm xoài ra bàn hoặc dựa lưng vào tường), thậm chí là ngủ một cách tự nhiêm, hoặc nghịch phá hoặc lơ đễnh nhìn ra ngoài, không trả lời bài, không học bài cũ
- Nguyễn Như Quỳnh: lơ đễnh, nằm ngủ, luôn buồn bã vì chia tay bạn trai
- Phạm Thùy Trang: thường không trả lời được câu hỏi của giáo viên do không tập trung, lực học yếu.
- Nguyễn Thu Hoài: nằm xoài ra bàn, ngủ, không ghi bài, không trả lời được bài
- Đoàn Thị Trang; Nguyễn Bích Ngọc: ghi bài nhưng không tập trung
- Trần Thị Hằng: nói tự do, nói to trong lớp, nổi cáu với bạn.
- Cao Thế Hải, Nguyễn Tài Trường: gây gổ, đánh nhau, bỏ tiết.
- Trần Thế Anh, Mai Thanh Bách: không hợp tác với giáo viên, ra vào lớp tự do
Nhìn chung thái độ hợp tác của nhóm học sinh này rất thấp, không học bài cũ, thầy cô giáo bộ môn thường xuyên than phiền về thái độ, ý thức và kết quả học tập. Giáo viên chủ nhiệm áp dụng nhiều hình thức phạt, kỷ luật, trò chuyện, can thiệp tâm lý, phối hợp với phụ huynh nhưng sự thay đổi của các em không đáng kể. Tôi đã tìm hiểu và rút ra kết luận:
Nguyên nhân trực tiếp: từ lớp 9 các em đã không ham học, một số em đã có người yêu nên càng xao nhãng bài vở, bên cạnh đó các em đã được gán mác “ dốt”, “nhác”và không có động lực để gỡ cái mác ấy ra.
Nguyên nhân sâu xa: không hứng thú với việc học nói chung và môn văn nói riêng , không có mục tiêu, không tìm thấy niềm vui trong giờ học, sự tin tưởng với thầy cô cũng không nhiều.
Với nhóm học sinh này, thầy cô thường kêu ca phàn nàn nên các em thêm phần chán nản. Muốn thay đổi các em cần cho các em thấy mình được quan tâm, được ghi nhận. Các biện pháp kỷ luật không có nhiều hiệu quả mà phải tác động vào tâm lý và cảm xúc trước. Môn văn có ưu thế hơn các bộ môn khác trong việc tiếp cận con người bên trong của học sinh.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc giải pháp đã áp dụng
2.3.1. Tích cực giao tiếp bằng ánh mắt với học sinh 
 	Quan sát học sinh và cho học sinh biết mục đích của việc quan sát. Bao quát lớp là nhiệm vụ của người dạy học. Tuy nhiên không phải giáo viên nào cũng tuân thủ điêu này. Nhiều giáo viên hoặc quan sát lớp nhưng gây sự căng thẳng, lo âu; hoặc không để ý đến nhóm học sinh không hợp tác để giờ học không bị gián đoạn.
Tôi cho rằng giao tiếp bằng mắt với học sinh là một biện pháp hiệu quả để kéo học sinh trở lại với nhiệm vụ học tập. Giáo viên dùng mắt bao quát lớp, hướng đến những học sinh có vấn đề , ngầm nhắc học sinh quay về nhiệm vụ hiện tại, bày tỏ sự không hài lòng. Hoặc giáo viên hướng vào một đối tượng duy nhất, khuyến khích: chờ đợi câu trả lời, khích lệ khi học sinh còn rụt rè, làm đồng minh khi các bạn có ý cười cợt; dùng ánh mắt tán thưởng với những việc làm đúng, chào đón những học sinh yếu thế trong lớp (bị các bạn xem thường, kỳ thị, tẩy chay) khi các em đến lớp.
2.3.2. Sử dụng lời phê phù hợp
Học sinh lớp 10 có tổng số 7 bài viết hệ số 2, 7 bài viết hệ số 1. Như vậy mỗi học sinh được nhận ít nhất 14 lời phê trong bài kiểm tra. Nếu tận dụng lời phê để uốn nắn học sinh, giáo viên có cơ hội đến gần các em hơn. Bởi lời phê cho học sinh trong bài như một kênh giao tiếp chỉ giáo viên và học sinh đó biết nội dung. Lời phê cần: nhận xét về bài làm, những lỗi phải khắc phục; nhận biết vấn đề của học sinh: về động cơ học tập, rắc rối riêng tư, khó khăn mà các em đang phải đối diện. Lời phê tạo ra sự tin tưởng giáo viên là người quan sát, khích lệ, dõi theo quá trình học tập và rèn luyện của học sinh. Tôi đã áp dụng cách này nhiều năm và thực tế đã thay đổi thái độ của nhiều học sinh. Nhiều em viết bài văn như một sự giãi bày về bế tắc của bản thân, xung đột của gia đình, ước mơ không được cổ vũ, khích lệKhi đọc được những bài viết như vậy nhất định giáo viên phải đóng vai là người lắng nghe, tin vào điều các em viết và gợi cho các em suy nghĩ tích cực.
Học sinh A viết: Thuở bé em rất sợ hãi khi nghe thấy mẹ cha cãi vã, đánh nhau. Em chỉ mong muốn có một cuộc sống bình thường như những bạn bè khác. Tôi phê trong bài viết là: Em không thay đổi được quá khứ, thay đổi bố mẹ mình nhưng tương lai vẫn là của em em nhé!
Học sinh B: Thất vọng về bản thân vì không đạt giải trong kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh. Em có thể làm lại. Thầy cô đủ kiên nhẫn để chờ vì vậy em cũng phải đủ quyết tâm và sự chăm chỉ
Học sinh C: Em mơ ước trở thành cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp. Nhưng em thấy đau khổ vì gia đình và bạn bè không ai tin vào ước mơ ấy. Tôi đã phê: Yêu thể thao là một cách để mạnh mẽ và biết sống tử tế, nhưng không nhất thiết phải là cầu thủ chuyên nghiệp nhất là khi không đủ điều kiện. Em có thể làm nhiều công việc khác để lan tỏa tình yêu bóng đá
Đã có học sinh nữ cá biệt đến lớp chỉ ngủ, gặp thầy cô không muốn chào nhưng rất ăn diện, sành điệu. Tôi đã tâm sự với em và tìm lí do để khen ngợi em trước lớp học. Em dần thiện chí hơn trong giờ học. Trong bài viết hệ số 2, em viết về ước mơ của mình : em không mơ ước cao sang làm bác sĩ hay công an, em chỉ thích thú với việc pha chế các loại đồ uống, trở thành một người pha chế đồ uống chuyên nghiệp. Tôi phê rằng: lựa chọn này rất thực tế. Biết đâu em sẽ làm việc ở khách sạn quốc tế. Hãy áp dụng lời khuyên: trở thành con người lớn bằng cách làm việc nhỏ với tình yêu cực lớn. Đây là học sinh có nhiều thay đổi nhất trong giờ ngữ văn tại lớp 10B.
2.3.3.Giao nhiệm vụ học tập cụ thể kết hợp kĩ năng đọc – nghe - xem 
Nhận thức và trình độ học sinh trong lớp học không giống nhau, nhóm học sinh ở trạng thái stress lại càng không như các bạn khác. Do đó, các em thường không hoàn thành nhiệm vụ học tập chung. Muốn các em hợp tác, tham gia vào quỹ đạo, giáo viên phải giao nhiệm vụ cụ thể để học sinh phải hoàn thành về nội dung và thời gian. Nhận thức và trình độ học sinh trong lớp học không giống nhau, nhóm học sinh ở trạng thái stress lại càng không như các bạn khác. Do đó, các em thường không hoàn thành nhiệm vụ học tập chung. Nhiều em thản nhiên trả lời em không học bài, chưa học bài, không ghi bài, không làm bài kiểm tra. Với những trường hợp như vậy, tôi có nguyên tắc không cho điểm ngay lập tức, kiên nhẫn chờ đợi sự thay đổi. 
Muốn các em hợp tác, tham gia vào quỹ đạo, giáo viên phải giao nhiệm vụ cụ thể để học sinh phải hoàn thành về nội dung và thời gian. Khi giao nhiệm vụ phải gắn với nội dung bài học và mức độ nhận thức.
+ Những học sinh không học bài cũ, hẹn ngày trả bài. Khi các em đã thuộc lần 1, yêu cầu lên bảng lần 2 vì lúc này em đã tự tin hơn.
+ Những học sinh không viết bài đưa ra yêu cầu: bài này em chỉ cần viết cho cô 10 dòng hoặc 20 dòng. Theo dõi em khi đã viết được số dòng đó khuyến khích viết thêm 5 đến 10 dòng nữa.
 Lưu ý: các nhiệm vụ phải từ dễ đến khó và liên tục. Khi giao nếu học sinh vẫn không thể hoàn thành, giáo viên cho phép các em được lựa chọn. Chẳng hạn: lựa chọn văn bản thơ học thuộc, nói hoặc viết về một chủ đề mà em thích, một con người em thần tượng, nỗi buồn khó nói của em
Một thực tế hiện nay là văn hóa nghe nhìn đang lấn át văn hóa đọc. Những học sinh bị stress sẽ gặp nhiều khó khăn với văn bản văn học. Giáo viên có thể giao nhiệm vụ để phát triển kĩ năng nghe và nhìn.
Chẳng hạn: Xem MV Bánh trôi nước của Hoàng Thùy Linh, đặt câu hỏi về việc chuyển thể văn bản thơ Bánh trôi nước của nữ sĩ Hồ Xuân Hương thành lời bài hát của tác giả; Xem MV Anh ơi ở lại của Chipu và nhận xét việc sử dụng cốt truyện Tấm Cám; Xem những chương trình truyền hình giàu tính nhân văn như: Như chưa hề có cuộc chia ly, Việc tử tế, Cặp lá yêu thươngSau khi xem học sinh nói, viết cảm nhận của cá nhân. Nếu học sinh chưa tự tin nói trước lớp học, có thể trả lời riêng với giáo viên. Những yêu cầu này rèn luyện các kĩ năng giao tiếp cơ bản, học sinh cũng không có cảm giác nhàm chán, gò bó khi nghĩ đến môn học.
2.3.4. Khuyến khích năng lực riêng
Dù mỗi môn học có một nhiệm vụ riêng nhưng đều dựa trên mục tiêu chung là phát triển con người toàn diện. Quan điểm dạy học của giáo viên cần phải linh hoạt, tạo điều kiện để học sinh tự tin phát huy thế mạnh riêng của mình. Những học sinh stress không hẳn các em yếu kém. Hơn thế các em có nhu cầu giải tỏa bản thân rất lớn. Tôi thường tìm cách nhận ra thế mạnh của các em và khuyến khích các em thể hiện. Giáo viên cần củng cố niềm tin ở học sinh về giá trị mỗi con người và 8 dạng trí thông minh. Nhất định mỗi học sinh sẽ sở hữu ít nhất một trong số đó. Tôi đã quan sát, theo dõi việc học tập và tham gia các hoạt động của học sinh để nhận ra năng khiếu và sở thích của những em thuộc nhóm stress.
TT
Họ tên
Năng khiếu
1
Lê Như Quỳnh
Hát
2
Trần Thị Hằng
Hát, nấu ăn
3
Nguyễn Thu Hoài
Pha chế đồ uống
4
Lê Thị Chúc
Múa
5
Mai Thanh Bách
Bóng chuyền
6
Trịnh Mỹ Linh
Múa
7
Đỗ Thị Ngọc Ly
Vẽ
8
Nguyễn Thế Anh
Bóng chuyền
9
Nguyễn Tài Trường
Chạy bền
Những em có năng khiếu ca hát sẽ được mời hát, giao nhiệm vụ từ trước tiết học để biêu diễn trong giờ học( hát tiếng Việt hoặc tiếng Anh). Lưu ý bài hát cần phù hợp với chủ đề của bài học. Chẳng hạn học trích đoạn Trao duyên học sinh Như Quỳnh hát bài mylove, a time for us
Trong các giờ học tự chọn hoặc ôn tập cuối năm giáo viên giao nhiệm vụ chuyển thể tác phẩm văn học thành tranh. Học sinh có thể tạo một bức tranh hoàn chỉnh hoặc trình bày ý tưởng với những tác phẩm thơ như: Thơ Haiku của basho; Cảnh ngày hè (Nguyễn Trãi)với những em thật sự đam mê hội họa, giáo viên đưa ra nhiệm vụ khó và dài hơi hơn như: chuyển một tác phẩm cổ tích hoặc truyền thuyết thành truyện tranh (An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy; Tấm Cám)
Bên cạnh đó, tôi khuyến khích học sinh thể hiện con người thật của mình bằng hoạt động thuyết trình. Đây là cách giúp học sinh rèn luyện kĩ năng nói trước đám đông, một điểm yếu của học sinh miền núi. Học sinh có thể nói về đam mê của bản thân, Giới thiệu về một cuốn sách mình đã đọc, một bộ phim em say mê hoặc một bước ngoặt, dấu ấn trong cuộc đời mình.Mỗi một hoạt động như vậy ít nhất có 3 học sinh tham gia để có sự nhận xét khách quan.
2.3.4. Phát huy tác dụng của việc đọc diễn cảm và sử dụng một số kỹ thuật dạy học tích cực
Một lí do học sinh ngại giờ văn là do ghi chép nhiều. Với những học sinh stress, lười học thì đây là cực hình. Đề hạn chế việc học máy móc, học vẹt người dạy nên áp dụng các kỹ thuật dạy học tích cực đã nêu. Các kỹ thuật này được áp dụng tùy thuộc vào nội dung và mục tiêu giờ học. Kỹ thuật hội chợ, kỹ thuật ổ bi được áp dụng cho hình thức thảo luận nhóm. Kỹ thuât đọc nhanh, kỹ thuật trình bày một áp dụng cho hoạt động cá nhân. Các kỹ thuật này giúp cải thiện kỹ năng nói của học sinh nói chung và học sinh stress nói riêng, việc ghi chép vẫn duy trì nhưng chỉ mang tính chắt lọc.
2.3.4.1. Đọc diễn cảm
	Ở cấp THPT không còn phân môn đọc diễn cảm, nhưng đây là một hoạt động không thể thiếu trước khi tìm hiểu các văn bản văn học. Những văn bản văn học giàu tính thẩm mĩ, có trữ lượng xúc cảm lớn nhất định phải được đọc trọn vẹn như: ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa, Trao duyên, Nỗi thương mìnhTấm Cám, Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy. Với những học sinh thuộc n

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_bien_phap_lam_giam_tinh_trang_stress_trong_gio_n.docx