SKKN Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi hứng thú khi tham gia hoạt động kể chuyện ở trường mầm non Yên Thọ, năm học 2017 - 2018
Văn học là một loại hình nghệ thuật đến với trẻ từ rất sớm. Ngay từ
thuở ấu thơ các em đã được làm quen với giai điệu nhẹ nhàng thiết tha của lời
ru, lớn hơn một chút các câu chuyện cổ tích, truyện hiện đại, các tác phẩm
thơ, ca dao, đồng dao đã gieo vào tâm hồn ngây thơ trong trắng của trẻ sự yêu
mến thế giới xung quanh, biết tỏ lòng yêu cái thiện, biết căm thù cái ác. Từ
các câu chuyện, bài thơ, ca dao, đồng dao giúp trẻ em hiểu về truyền thống
lao động chiến đấu bền bỉ nhưng vô cùng anh dũng của dân tộc ta, mở rộng
kiến thức cho trẻ về các mối quan hệ xã hội, về phong tục tập quán, về những
cảnh đẹp quê hương đất nước để trẻ cảm nhận được mối quan hệ giữa người
với người, cảm nhận vẻ đẹp trong các hành động cao thượng của các nhân
vật, tạo cho trẻ rung cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước.
Khi tiếp xúc với tác phẩm văn học con người, cảnh vật trở nên gần nhau hơn, sống với nhau thân tình hơn, cảm thông chia sẻ cho nhau những điều tốt đẹp nhất. Làm quen với tác phẩm văn học chỉ ra mức độ, giới hạn, yêu cầu của việc cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học qua nghệ thuật đọc và kể chuyện của cô giáo. Hoạt động này nhằm dẫn dắt, hướng dẫn trẻ cảm nhận những giá trị nội dung, nghệ thuật phong phú trong tác phẩm, khơi gợi ở trẻ sự rung động, hứng thú đối với văn học, có ấn tượng về những hình tượng nghệ thuật, cái hay cái đẹp của tác phẩm và thể hiện sự cảm nhận đó qua các hoạt động mang tính chất văn học nghệ thuật như đọc thơ, kể chuyện, chơi trò chơi đóng kịch; Cao hơn là tiến tới sáng tạo ra những vần thơ, câu chuyện theo tưởng tượng của mình, góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách trẻ.
Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi nói riêng, việc giúp trẻ cảm thụ tác phẩm văn học là giúp trẻ phát triển ngôn ngữ và mở rộng nhận thức về thế giới xung quanh; từng bước tích lũy kinh nghiệm sống và nâng cao hiểu biết của trẻ về cuộc sống con người, về cỏ cây hoa lá và các hiện tượng của thiên nhiên, tình yêu quê hương đất nước, kính yêu Bác Hồ. Qua việc cho trẻ làm quen văn học chính là hình thành ở trẻ những tình cảm đạo đức tốt đẹp, những cảm xúc thẩm mỹ, phát triển trí tưởng tượng như: Tình yêu thiên nhiên, lòng kính trọng, yêu thương gần gũi và giúp đỡ những người thân xung quanh trẻ như ông bà, bố mẹ, cô giáo, anh chị em. Thông qua hoạt động này trẻ làm tái tạo và sáng tạo thêm những tình tiết của tác phẩm một cách hồn nhiên, phù hợp với nội dung của tác phẩm, phù hợp với sự hiểu biết, trí tưởng tượng của trẻ. Đồng thời trẻ đọc thuộc thơ, kể lại được chuyện theo khả năng một cách hứng thú.
MỤC LỤC 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài. Văn học là một loại hình nghệ thuật đến với trẻ từ rất sớm. Ngay từ thuở ấu thơ các em đã được làm quen với giai điệu nhẹ nhàng thiết tha của lời ru, lớn hơn một chút các câu chuyện cổ tích, truyện hiện đại, các tác phẩm thơ, ca dao, đồng dao đã gieo vào tâm hồn ngây thơ trong trắng của trẻ sự yêu mến thế giới xung quanh, biết tỏ lòng yêu cái thiện, biết căm thù cái ác. Từ các câu chuyện, bài thơ, ca dao, đồng dao giúp trẻ em hiểu về truyền thống lao động chiến đấu bền bỉ nhưng vô cùng anh dũng của dân tộc ta, mở rộng kiến thức cho trẻ về các mối quan hệ xã hội, về phong tục tập quán, về những cảnh đẹp quê hương đất nước để trẻ cảm nhận được mối quan hệ giữa người với người, cảm nhận vẻ đẹp trong các hành động cao thượng của các nhân vật, tạo cho trẻ rung cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước. Khi tiếp xúc với tác phẩm văn học con người, cảnh vật trở nên gần nhau hơn, sống với nhau thân tình hơn, cảm thông chia sẻ cho nhau những điều tốt đẹp nhất. Làm quen với tác phẩm văn học chỉ ra mức độ, giới hạn, yêu cầu của việc cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học qua nghệ thuật đọc và kể chuyện của cô giáo. Hoạt động này nhằm dẫn dắt, hướng dẫn trẻ cảm nhận những giá trị nội dung, nghệ thuật phong phú trong tác phẩm, khơi gợi ở trẻ sự rung động, hứng thú đối với văn học, có ấn tượng về những hình tượng nghệ thuật, cái hay cái đẹp của tác phẩm và thể hiện sự cảm nhận đó qua các hoạt động mang tính chất văn học nghệ thuật như đọc thơ, kể chuyện, chơi trò chơi đóng kịch; Cao hơn là tiến tới sáng tạo ra những vần thơ, câu chuyện theo tưởng tượng của mình, góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi nói riêng, việc giúp trẻ cảm thụ tác phẩm văn học là giúp trẻ phát triển ngôn ngữ và mở rộng nhận thức về thế giới xung quanh; từng bước tích lũy kinh nghiệm sống và nâng cao hiểu biết của trẻ về cuộc sống con người, về cỏ cây hoa lá và các hiện tượng của thiên nhiên, tình yêu quê hương đất nước, kính yêu Bác Hồ... Qua việc cho trẻ làm quen văn học chính là hình thành ở trẻ những tình cảm đạo đức tốt đẹp, những cảm xúc thẩm mỹ, phát triển trí tưởng tượng như: Tình yêu thiên nhiên, lòng kính trọng, yêu thương gần gũi và giúp đỡ những người thân xung quanh trẻ như ông bà, bố mẹ, cô giáo, anh chị em. Thông qua hoạt động này trẻ làm tái tạo và sáng tạo thêm những tình tiết của tác phẩm một cách hồn nhiên, phù hợp với nội dung của tác phẩm, phù hợp với sự hiểu biết, trí tưởng tượng của trẻ. Đồng thời trẻ đọc thuộc thơ, kể lại được chuyện theo khả năng một cách hứng thú. Bên cạnh đó văn học còn đem lại cho trẻ niềm vui và những cảm xúc đẹp từ những câu chuyện, bài thơ, giúp trẻ nhận thức cái đẹp trong cuộc sống. Với tác phẩm văn học thì ông mặt trời thật là đẹp, không phải là những tia nắng chói chang mà là những tia nắng “óng ánh” thân thuộc hay chàng Sơn Tinh tài giỏi “Dời núi, lấp bể”, trẻ được trở về với cuộc sống ngày xưa của cha ông ta. Từ đó bước đầu hiểu được truyền thống đấu tranh anh dũng của cha ông trong qúa trình dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong chương trình văn học Việt Nam “truyện” là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với trẻ mầm non. Truyện giúp các em hiểu được cuộc sống hiện thực của cha ông ta. Truyện có ý nghĩa giáo dục to lớn, giáo dục về tư tưởng tình cảm, trân trọng những con người lao động, yêu quê hương đất nước, sống trung thực, chăm chỉ, ghét cái ác, yêu cái thiện, ở hiền gặp lành. Nhưng trên thực tế, thời gian trẻ được người lớn kể chuyện cho nghe ngày càng ít đi thay vào đó những nhu cầu giải trí hấp dẫn hơn như xem phim hoạt hình trên ti vi, chơi game trên điện thoại thông minh, máy tính bảng đã làm hạn chế khả năng giao tiếp giữa trẻ với người lớn, giữa trẻ với mọi người xung quanh. Mặt khác, trên lớp giờ học làm quen với truyện mang tính khuôn mẫu, áp đặt, trẻ trả lời theo ý cô, ngôn ngữ của người lớn không mang tính hồn nhiên nên chưa phù hợp với trẻ nhỏ. Trẻ chưa được giao tiếp một cách thoải mái, chưa khuyến khích trẻ tự nói, tự kể kèm theo cử chỉ, điệu bộ hay hành động, cảm xúc phù hợp. Việc tổ chức, hướng dẫn trẻ làm quen với truyện mới chỉ dừng lại ở việc đọc, kể cho trẻ nghe một cách đơn thuần mà chưa chú ý nhiều đến việc thay đổi hình thức tổ chức, đầu tư thời gian nghiên cứu tác phẩm để truyền tải một cách sinh động, đúng tinh thần tác phẩm đến với trẻ; chưa giúp trẻ hiểu một cách sâu sắc nội dung tác phẩm và rèn luyện kỹ năng kể diễn cảm cho trẻ. Vì thế, trẻ không thực sự thích thú khi tham gia vào hoạt động này Với lòng yêu nghề và xác định nhiệm vụ của mình tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi hứng thú khi tham gia hoạt động kể chuyện ở trường mầm non Yên Thọ, năm học 2017-2018”. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu một số biện pháp giúp trẻ hứng thú khi tham gia hoạt động kể chuyện. Từ đó góp phần xây dựng tình yêu văn học cho trẻ, đặc biệt là những câu chuyện cổ tích trong kho tàng văn học Việt Nam đối với trẻ trẻ em nói chung và đối với trẻ mầm non nói riêng. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Trẻ 5- 6 tuổi lớp A1, trường mầm non Yên Thọ, huyện Yên Định, năm học 2017-2018. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: bản thân tôi tiến hành đọc và nghiên cứu những tài liệu có liên quan đến những biện pháp giúp trẻ hứng thú khi tham gia hoạt động kể chuyện cho trẻ 5-6 tuổi. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm: tiến hành quan sát các hoạt động của trẻ khi sử dụng các biện pháp giúp trẻ hứng thú khi tham gia hoạt động kể chuyện cho trẻ 5- 6 tuổi tại trường mầm non Yên Thọ, huyện Yên Định. - Phương pháp thống kê toán học: Xử lý số liệu đã điều tra trước và sau khi sử dụng các biện pháp. - Phương pháp phân tích đánh giá: Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa kiến thức để xây dựng cơ sở khoa học của đề tài, làm sáng tỏ việc vận dụng một số biện pháp giúp trẻ hứng thú khi tham gia hoạt động kể chuyện. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. Trẻ em nhất là trẻ bậc học mầm non nói chung rất nhạy cảm với những âm điệu, hình tượng của các câu chuyện cổ tích sớm đi vào tâm hồn của tuổi thơ. Trong kho tàng văn học Việt Nam thì những câu chuyện cổ tích, thần thoại, ngụ ngôn đặc biệt hấp dẫn đối với trẻ. Khi được tiếp xúc với chuyện trẻ còn được làm quen với ngôn ngữ giàu đẹp của dân tộc, những câu chuyện ấy đã gieo vào lòng trẻ tình yêu của con người đối với con người, đối với những sự vật hiện tượng xung quanh, qua đó các em được hiểu về những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Chuyện cũng đưa trẻ tới khắp mọi miền đất nước, kể chuyện còn giúp trẻ phát triển khả năng tư duy, sáng tạo, óc tưởng tượng, và cũng thông qua chuyện trẻ được phát triển ngôn ngữ, từ đó giúp trẻ mạnh dạn tự tin giao tiếp. Chính vì vậy, việc giúp trẻ hứng thú khi tham gia hoạt động kể chuyện là điều hết sức cần thiết. Nhận thức rõ ý nghĩa của việc giáo dục trẻ thông qua các hoạt động kể chuyện nhằm giáo dục toàn diện cho trẻ, đặc biệt phát triển thẩm mỹ, ngôn ngữ và phẩm chất đạo đức. Tạo cơ hội cho trẻ được tiếp xúc nhiều hơn với các câu chuyện, góp phần phát triển ngôn ngữ, hình thành sự tự tin, tính sáng tạo, nhân cách cho trẻ. Giúp trẻ biết phân biệt điều hay lẽ phải, biết phân biệt tốt - xấu, đúng - sai, biết chia sẻ, giúp đỡ mọi người... Tạo điều kiện và cơ hội cho giáo viên được trao đổi, học tập kinh nghiệm với nhau góp phần làm chuyển biến nhận thức của cha mẹ học sinh đối với giáo dục mầm non. Có thể nói mỗi đứa trẻ ngay từ khi ra đời đã là một cá thể độc lập, có cá tính và những mong muốn độc lập của riêng mình. Bất kể là cô giáo hay bố mẹ đều không có đặc quyền chi phối và hạn chế hành vi của trẻ. Vì vậy, việc áp dụng các biện pháp giáo dục phù hợp với mục tiêu giảng dạy đòi hỏi phải có sự linh hoạt và mềm dẻo phù hợp với khả năng cũng như hứng thú của trẻ. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm. 2.2.1. Thuận lợi: Trường mầm non Yên Thọ luôn được sự quan tâm của lãnh đạo địa phương và Phòng giáo dục nên cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, đảm bảo yêu cầu cho việc chăm sóc, giáo dục trẻ. Tất cả các nhóm lớp đều tập trung học tại một trường, các cháu được phân chia nhóm lớp theo đúng độ tuổi. Đội ngũ giáo viên đa số có trình độ trên chuẩn, luôn yêu nghề, mến trẻ, không ngại khó, ngại khổ luôn thực hiện tốt nhiệm vụ mà nhà trường giao cho. Phần lớn phụ huynh luôn quan tâm ủng hộ đến các hoạt động của trường. Một số phụ huynh nhận thức được việc chăm sóc giáo dục trẻ lứa tuổi này là rất quan trọng và đặt lên hàng đầu, động viên trẻ, đưa trẻ đến lớp, tạo điều kiện cho trẻ ăn ngủ tại lớp. Bản thân luôn được Ban giám hiệu nhà trường quan tâm và chỉ đạo sát sao về chuyên môn, thường thăm lớp dự giờ để nâng cao chất lượng giảng dạy. 2.2.2. Khó khăn: Khi thực hiện chương trình giáo dục mầm non hiện nay, với quan điểm lấy trẻ làm trung tâm thì hầu như các giáo viên đang còn gặp một số vướng mắc, giáo viên chưa thiết kế cho mình được tiết dạy thực sự đổi mới và khoa học mà đang còn bắt chước, sao chép nhau. Đồ dùng trực quan, giáo viên: Chưa phát huy hết được công dụng của đồ dùng sẵn có trong thực tế; việc sử dụng công nghệ thông tin, giáo án điện tử vào trong tiết dạy còn chưa thường xuyên. Một số phụ huynh chưa thật sự coi trọng việc học của con, cho con đi học không đúng giờ, một số trẻ gia đình hoàn cảnh khó khăn, một số phụ huynh có thói quen cưng chiều con một cách thái quá dẫn đến ở cùng một độ tuổi nhưng khả năng hoà nhập của các trẻ là không đồng đều, việc phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường chưa được thường xuyên liên tục. Về cơ sở vật chất đồ dùng trang thiết bị vẫn chưa đáp ứng với yêu cầu chăm sóc giáo dục ngày càng cao hiện nay. 2.2.3. Kết quả thực trạng: Để có cơ sở nghiên cứu và áp dụng một số biện pháp giúp trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động kể chuyện, tôi tiến hành khảo sát trẻ đầu năm học vào tháng 9 năm 2017 với số trẻ là 32. Các tiêu chí và kết quả đạt được như sau: Tiêu chí Kết quả Trẻ đạt Trẻ chưa đạt Số trẻ Tỷ lệ Số trẻ Tỷ lệ Trẻ thích thú khi nghe cô kể chuyện 14/32 43,8 18/32 56,2 Trẻ có nhu cầu chơi đóng kịch 09/32 28,1 23/32 71,9 Trẻ hứng thú khi tham gia các hoạt động văn học 10/32 32,3 22/32 67,7 Trẻ có khả năng tự sáng tạo và thể hiện tính cách nhập vai một cách linh hoạt 08/32 25,0 24/32 75,0 Trẻ biết kể chuyện sáng tạo, kể theo trí tưởng tượng một cách phong phú và đa dạng 08/32 25,0 24/32 75,0 Từ kết quả khảo sát trên cho thấy: Ở cùng một độ tuổi nhưng khả năng ngôn ngữ và sự tập trung chú ý của mỗi trẻ không đồng đều, hơn 40% trẻ chưa trả lời câu hỏi xoay quanh nội dung câu chuyện cô vừa kể. Đầu năm, tôi khảo sát trẻ có biểu hiện rụt rè, thiếu tự tin khi phát biểu trước đám đông, khả năng diễn đạt của trẻ còn hạn chế, thường trả lời đồng thanh cùng tập thể thì trả lời to, nhưng gọi từng cá nhân trả lời được thì nhút nhát phát âm nhỏ. Khoảng 70% trẻ nhớ được một phần nội dung câu chuyện, chưa tự nói, tự kể một nội dung dài khoảng 7 - 8 câu kèm theo cử chỉ, điệu bộ của riêng mình. Chưa tạo tình huống, khuyến khích trẻ cùng thảo luận, tranh luận về đề tài, câu chuyện để trẻ mạnh dạn tự tin nêu ý kiến riêng mình, chưa chú ý đến phát triển trí tưởng tượng của trẻ qua kể chuyện sáng tạo. Nhiều trẻ chưa phát huy được tính sáng tạo, chưa tạo môi trường thuận lợi cho trẻ tự rèn luyện và phát triển ngôn ngữ thông qua việc trẻ thể hiện giọng nhân vật, tự kể lại chuyện và khuyến khích kể chuyện sáng tạo. Một số giáo viên chưa thật sự đầu tư, sáng tạo trong việc làm đồ dùng trực quan để phục vụ cho hoạt động kể chuyện, gây khó khăn trong quá trình tập trung hứng thú cho trẻ. Từ kết quả khảo sát trên, trong năm học qua tôi đã trăn trở và thực hiện một số biện pháp giúp trẻ hứng thú khi tham gia hoạt động kể chuyện ở trường mầm non Yên Thọ, Huyện Yên Định. 2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 2.3.1. Biện pháp 1: Tạo môi trường văn học phong phú; sưu tầm, đầu tư, sáng tạo trong việc làm giáo cụ trực quan đa dạng, phong phú để tạo hứng thú cho trẻ khi tham gia hoạt động kể chuyện. Môi trường lớp học cho trẻ hoạt động tác động trực tiếp đến quá trình tìm hiểu, nắm bắt, kể, kể sáng tạo truyện với các yếu tố như: không gian lớp học, đồ dùng trực quan, sự thân thiện giữa cô và trẻ, trẻ với trẻ... Môi trường cho trẻ hoạt động tốt thì sẽ kích thích trẻ phát triển ngôn ngữ, tích cực tham gia vào các hoạt động và đạt được kết quả cao. Theo đặc điểm tâm lý của trẻ là tư duy trực quan hình ảnh, khi kể chuyện tôi luôn chú ý đến yếu tố nhân vật, các hình vẽ về nhân vật phải thẩm mỹ, được nhân cách hóa. Đặc biệt nhân vật ở dạng động như: tôi kể đến lời thoại nhân vật thì tay chân, đầu nhân vật đó cử động thì mới lôi cuốn trẻ nhìn. Ví dụ: Tôi kể câu chuyện “Bác Gấu đen và hai chú Thỏ” lần đầu tiên tôi kể với mô hình, với nhân vật Gấu đen và hai chú Thỏ để cử động được tôi nối phần đầu - phần mình bằng lò xo. Khi tôi kể đến đoạn Gấu đen nói chuyện với hai chú Thỏ cho cổ của Gấu đen, cổ hai chú Thỏ cử động trẻ nhìn thấy tưởng thật là Gấu, Thỏ biết nói chuyện, đây là yếu tố quan trọng để trẻ được sống trong thế giới nhân vật. Ở mỗi loại đồ dùng trực quan đều có tính năng riêng, dễ thương, nghộ nghĩnh đối với trẻ. Nhưng có một loại hình nghệ thuật mà trẻ yêu thích nhất đó chính là múa rối. Do đó khi tôi kể chuyện kết hợp với rối đều được hưởng ứng nhiệt tình từ phía trẻ, đó là động lực cho tôi không ngại khó khăn để chuẩn bị vở rối cho trẻ xem. Đầu tiên, tôi nghiên cứu trong truyện có bao nhiêu nhân vật thì chuẩn bị bấy nhiêu con rối, kế tiếp làm sân khấu để diễn. Trước khi múa rối diễn ra, các diễn viên múa rối phải đứng sau sân khấu không cho trẻ thấy mặt. Kể đến nhân vật nào thì nhân vật rối đó xuất hiện cùng với giọng nói, cử chỉ, điệu bộ và hành động khớp với lời kể. Một vỡ rối diễn ra thuần thục, nhuần nhuyễn là cả một quá trình tập luyện của tôi, tôi thường tập luyện trước đó nhiều lần để lời kể phải khớp với thao tác múa rối. Thực tế đã chứng minh, khi múa rối diễn ra mọi sự chú ý của trẻ đều hướng về các nhân vật rối, từng cử chỉ, điệu bộ của rối thì trẻ đều hưởng ứng theo. Ví dụ: Kể chuyện: “Chàng gà trống” kết hợp với các nhân vật rối: Gà trống, họa mi, chim gõ kiến, Quạ. Khi tôi kể đến gà trống đập cánh, vươn cổ gáy vang thì tôi làm động tác đập cánh, động tác vươn cao cổ để gáy. Hay tôi kể đến dáng đi phục phịch của gà trống thì tôi cũng cho nhân vật rối đi ra với dáng vẽ nặng nề, chậm rãiMúa rối là một loại hình nghệ thuật mà trẻ rất say mê và hứng thú nên thường được tôi sử dụng trong giờ kể chuyện. Để mỗi trẻ có thể cảm thụ được nội dung câu chuyện là một quá trình phức tạp, nó bao gồm các hoạt động cảm giác, tri giác, xúc cảm và nhận thức. Xong cảm xúc của trẻ ở mức độ nào không chỉ do nội dung câu chuyện, mà phụ thuộc vào đồ dùng trực quan. Ở giai đoạn này trí tưởng tượng của trẻ phát triển rất mạnh, nhưng vẫn còn phụ thuộc từ bên ngoài. Vốn kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo nên rất cần hình ảnh minh họa, chi tiết về các tình tiết, hành động, tính cách nhân vật sẽ giúp trẻ hiểu và cảm thụ nhanh hơn. Với cuộc sống của trẻ, việc đầu tư làm ra nhiều đồ dùng mới có tầm quan trọng đặc biệt, tạo điều kiện cho trẻ được hoạt động tích cực, tìm tòi, học hỏi và khám phá. Có thể nói đây là giai đoạn đầu tiên, để trẻ tri giác trực tiếp từ nội dung câu chuyện qua lời cô kể chuyện thì tai trẻ nghe, mắt trẻ phải nhìn đồ dùng trực quan. Tôi luôn cho rằng, hoạt động kể chuyện thành công trước tiên người giáo viên phải có giọng kể thật ấn tượng, kế tiếp sự chuẩn bị đồ dung trực quan luôn đổi mới, lôi cuốn được sự tập trung của trẻ. Nhận thức của trẻ là trực quan hình tượng nên các đồ dùng trực quan đặc biệt là tranh ảnh, con rối... sẽ thu hút sự chú ý, tìm hiểu, kể truyện, kể sáng tạo. Sưu tầm, bổ sung đồ dùng trực quan và tạo môi trường kể chuyện. Chính vì vậy mà bản thân tôi không ngừng học hỏi để ngày càng sáng tạo hơn trong việc làm đồ dùng dạy học. Phương tiện đồ dùng trực quan rất đa dạng và phong phú, đòi hỏi người giáo viên luôn tìm tòi và sáng tạo tận dụng hết công năng đồ dùng đó để gây hứng thú cho trẻ. Đồ dùng trực quan phải có màu sắc phù hợp với nhân vật trong truyện, đa dạng về màu sắc, tuyệt đối an toàn với trẻ, bám sát vào nội dung và tình tiết của câu chuyện. Riêng phần sử dụng tranh để kể chuyện, bản thân tôi cũng rút ra bài học cho mình. Trước đây tôi kể chuyện bằng tranh in sẵn, trong quá trình kể chuyện tôi thấy trẻ không tập trung, mau chán. Tôi mới suy nghĩ thay đổi hình khác, để lôi cuốn trẻ vào hoạt động chung. Đó là tôi vẽ tranh phông phù hợp với nội dung câu chuyện, nhân vật, tôi cũng vẽ rời để di chuyển theo từng tình tiết câu chuyện. Ví dụ: khi kể câu chuyện “ Giọt nước tí xíu” : Giọt nước, đám mây tôi đều vẽ rời. Khi tôi kể, giọt nước bốc hơi, tôi di chuyển giọt nước bằng nam châm bay khắp nơi liền cuốn hút trẻ vào câu chuyện, gây cho trẻ sự ngạc nhiên. Trẻ hỏi: “ Làm thế nào mà giọt nước bay được? ”. Chỉ cần thay đổi chi tiết nhỏ cũng đủ làm thay đổi thái độ học tập của trẻ, làm cho trẻ thích thú hơn khi mỗi lần tham gia hoạt động kể chuyện. Qua quá trình công tác, tôi nghiệm ra một điều môi trường giáo dục, sưu tầm, đầu tư, sáng tạo trong việc làm đồ dùng trực quan đa dạng, phong phú sẽ gây hứng thú cho trẻ và cho cả bản thân giáo viên, góp phần hình thành và nâng cao mối quan hệ thân thiện, tự tin giáo viên với trẻ, giữa trẻ với trẻ. 2.3.2. Biện pháp 2: Đọc, kể diễn cảm, hệ thống câu hỏi gợi mở của giáo viên để tạo hứng thú cho trẻ khi tham gia hoạt động kể chuyện. Trẻ cảm thụ ngôn ngữ nghệ thuật bằng cách nghe, đọc kể. Do vậy giáo viên có thể sử dụng mọi sắc thái giọng kể của mình, làm phương tiện để đọc, kể biểu cảm khác nhau làm cho tác phẩm cất lên tiếng nói, tạo cho tác phẩm bức tranh tương ứng, hấp dẫn đối với trẻ. Vì vậy, khi muốn trình bày một tác phẩm, giáo viên cần tìm hiểu, suy nghĩ và nghiên cứu tác phẩm để hiểu được ý nghĩa mà tác giả muốn gửi vào tác phẩm. Cô giáo là người trung gian, là chiếc cầu nối đưa các câu chuyện đến với trẻ. Khi kể chuyện, giọng kể và ngữ điệu là phương tiện rất quan trọng. Có thể nói rằng câu chuyện trở nên hấp dẫn nhờ giọng kể và ngữ điệu của giáo viên. Giáo viên kể chuyện phải có giọng kể hấp dẫn, biết sử dụng ngữ điệu thích hợp để tả tính cách nhân vật. Trẻ tập trung chú ý cao độ vào ngôn ngữ kể chuyện của cô, lắng nghe cách phát âm, ngữ điệu của cô. Trên cơ sở đó trẻ học được cách phát âm, dùng ngữ điệu thích hợp và kể chuyện theo sự sáng tạo của mình. Việc phát triển ngôn ngữ của trẻ ở lứa tuổi này diễn ra rất mạnh, những câu nói của cô chính là vốn từ ngữ in sâu trong đầu của trẻ. Không phải ai cũng có được một giọng đọc kể hay, diễn cảm mà đòi hỏi sự rèn luyện và học tập kinh nghiệm của mọi người xung quanh. Tôi sưu tầm những cuốn băng kể chuyện mầm non hay để nghe, đọc tác phẩm thật kỹ để nắm rõ nội dung và nghệ thuật của câu chuyện. Từ đó sẽ giúp tôi rất nhiều trong việc thu hút trẻ. Tôi luôn phân biệt giữa giọng đọc với giọng kể và cố gắng nhập tâm vào tác phẩm để truyền tải tới các em tất cả những thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm qua giọng kể diễn cảm, sắc thái khuôn mặt cử chỉ điệu bộ, ánh mắt... Ngữ điệu giọng kể là một yếu tố vô cùng quan trọng, vì nó là phương tiện của việc truyền tải nghệ thuật, cường độ của giọng kết hợp với cử chỉ nét mặt. Ví dụ: Khi kể chuyện: “ Chú Dê Đen” - Giọng Dê Trắng: yếu ớt, run sợ, nói ngắt quãng và chân tay run lên vì sợ sệt. - Giọng Dê Đen: bình tĩnh, đanh thép, dáng vẻ bình tĩnh. - Giọng Chó Sói: to quát nạt dữ tợn khi nói với Dê Trắng. - Giọng Chó Sói nói với Dê đen đầu tiên quát nạt sau đó chuyển sang lo lắng ngần ngừ, sợ sệt. Muốn làm được điều này đòi hỏi tôi có sự tập luyện cả một quá trình. Thường tôi đứng trước gương tập luyện về cách kể có ngữ điệu truyền cảm, kết hợp dáng điệu, nét mặt, cử chỉ có phù hợp với tính cách nhật vật để khi kể truyền cảm xúc đến cho trẻ. Vì vậy giọng kể của cô phải diễn cảm, phù hợp với nội dung câu chuyện. Cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, sắc thái tình cảm của
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_giup_tre_5_6_tuoi_hung_thu_khi_tham_gi.doc