SKKN Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục GDSDNL tiết kiệm trong trường Mầm non

SKKN Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục GDSDNL tiết kiệm trong trường Mầm non

Tiết kiệm năng lượng là vấn đề sống còn của Đất nước, của nhân loại, là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển bền vững, liên quan chặt chẽ tới sự phát triển kinh tế xã hội gắn liền với cuộc sống đấu tranh xoá đói giản nghèo, đảm bảo công bằng xã hội, ổn định chính trị, an ninh xã hội cho mỗi Quốc gia.

Từ tầm quan trọng ấy của việc tiết kiệm năng lượng, quy định của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân được phân định rõ ràng, được ràng buộc bằng các quy định pháp luật, với hệ thống chính sách thể chế từng bước được xây dựng và hoàn thiện phục vụ có hiệu quả cho công tác tiết kiệm năng lượng. Hiện nay năng lượng đang bị cạn kiệt dần, đó là sự suy thoái về tài nguyên đất đai, suy thoái tài nguyên nước ngọt, suy thoái đa dạng sinh vật học. Rừng đang bị tàn phá và thu hẹp dần. Môi trường đang bị tàn phá và huỷ hoại nghiêm trọng gây mất cân bằng sinh thái, sự cạn kiệt của tài nguyên môi trường làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Mỗi năm trên thế giới có tới 22 vạn người chết vì bệnh tật do nguồn nước bị ô nhiễm và thiếu hụt năng lượng gây nên. Một trong những nguyên nhân là sự thiếu hiểu biết về tiết kiệm năng lượng, thiếu ý thức của con người trong việc sinh hoạt hàng ngày gây ra.

 Sự thiếu hụt năng lượng đang là vấn đề nóng bỏng và cấp thiết trên toàn cầu. Sự cần thiết phải kêu gọi các cấp các ngành, các tổ chức đoàn thể và mọi cá nhân đều phải có ý thức trách nhiệm trong việc tiết kiệm năng lượng. Vì vậy sự hiểu biết về tiết kiệm năng lượng cần được thông báo rộng rãi để cho tất cả mọi người, mọi tổ chức xã hội đều biết, giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đã trở thành một vấn đề cấp bách và có chiến lược toàn cầu.

 

doc 23 trang thuychi01 7852
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục GDSDNL tiết kiệm trong trường Mầm non", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Mục lục
Trang
1: Mở đầu 
2
- Lý do chọn đề tài 
2
- Mục đích nghiên cứu 
3
- Đối tượng nghiên cứu 
3
- Phương pháp nghiên cứu 
3
2: Nội dung 
4
2.1. Cơ sở lý luận 
4
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 
4
2.3. Biện pháp thực hiện 
5
Biện pháp 1: Khảo sát, xây dựng các biện pháp tiết kiệm điện, nhiên liệu trong trường.
6
Biện pháp 2: Bồi dưỡng nhận thức cho đội ngũ, tập huấn nâng cao năng lực chuyên môn và kiến thức GDSDNL tiết kiệm, hiệu quả.
7
Biện pháp 3. Chỉ đạo xây dựng lớp điểm giáo dục và sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả
8
Biện pháp 4. Chỉ đạo làm tốt công tác Xã hội hoá giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục chuyên đề
9
Biện pháp 5. Phát động phong trào thi đua thực hành tiết kiệm năng lượng và thực hiện tốt việc lồng ghép chuyên đề ở tất cả các khối.
9
Biện pháp 6. Tăng cường công tác quản lý chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra đánh giá việc thực hiện tiết kiệm năng lượng và thực hiện chuyên đề.
10
Biện pháp 7. Tổ chức hội thảo, Sơ kết và tổng kết kịp thời
10
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 
11
3. Kết luận và kiến nghị 
12
- Kết luận 
12
- Kiến nghị 
13
Tài liệu tham khảo
1. MỞ ĐẦU
	* Lý do chọn đề tài: 
Tiết kiệm năng lượng là vấn đề sống còn của Đất nước, của nhân loại, là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển bền vững, liên quan chặt chẽ tới sự phát triển kinh tế xã hội gắn liền với cuộc sống đấu tranh xoá đói giản nghèo, đảm bảo công bằng xã hội, ổn định chính trị, an ninh xã hội cho mỗi Quốc gia.
Từ tầm quan trọng ấy của việc tiết kiệm năng lượng, quy định của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân được phân định rõ ràng, được ràng buộc bằng các quy định pháp luật, với hệ thống chính sách thể chế từng bước được xây dựng và hoàn thiện phục vụ có hiệu quả cho công tác tiết kiệm năng lượng. Hiện nay năng lượng đang bị cạn kiệt dần, đó là sự suy thoái về tài nguyên đất đai, suy thoái tài nguyên nước ngọt, suy thoái đa dạng sinh vật học. Rừng đang bị tàn phá và thu hẹp dần. Môi trường đang bị tàn phá và huỷ hoại nghiêm trọng gây mất cân bằng sinh thái, sự cạn kiệt của tài nguyên môi trường làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Mỗi năm trên thế giới có tới 22 vạn người chết vì bệnh tật do nguồn nước bị ô nhiễm và thiếu hụt năng lượng gây nên. Một trong những nguyên nhân là sự thiếu hiểu biết về tiết kiệm năng lượng, thiếu ý thức của con người trong việc sinh hoạt hàng ngày gây ra.
	Sự thiếu hụt năng lượng đang là vấn đề nóng bỏng và cấp thiết trên toàn cầu. Sự cần thiết phải kêu gọi các cấp các ngành, các tổ chức đoàn thể và mọi cá nhân đều phải có ý thức trách nhiệm trong việc tiết kiệm năng lượng. Vì vậy sự hiểu biết về tiết kiệm năng lượng cần được thông báo rộng rãi để cho tất cả mọi người, mọi tổ chức xã hội đều biết, giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đã trở thành một vấn đề cấp bách và có chiến lược toàn cầu.
	Chính vì vậy mà việc Giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (Sau đây viết tắt là: GDSDNL) đã được đưa vào chương trình giáo dục Mầm non. Độ tuổi mầm non là giai đoạn đặc biệt nhạy cảm của đời người. Trong giai đoạn này diễn ra sự phát triển mạnh mẽ cả về trí tuệ, thể chất và năng lực. nó đặt nền móng cho nét cá tính, phẩm chất đạo đức của nhân cách con người. Đây là thời kỳ quan trọng để hình thành thái độ đúng đắn với thế giới xung quanh. Chính vì thế mà việc giáo dục TKNL cho trẻ Mầm non là hết sức quan trọng và cần thiết.
	Tuy nhiên, qua nhiều năm triển khai thì cho đến nay việc Giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả dường như đang dần bị sao nhãng, trong khi đó Việt nam đang phải đối mặt với nguy cơ thiếu hụt năng lượng nghiêm trọng.
Hiện nay, năng lượng cùng với vấn đề biến đổi khí hậu đang trở thành mối quan tâm lớn của toàn nhân loại, trong đó vấn đề năng lượng đã và đang trở thành vấn đề nóng bỏng, được đặc biệt quan tâm không chỉ của riêng quốc gia nào. Do khủng hoảng năng lượng toàn cầu, các nguồn năng lượng không tái tạo như than, dầu mỏ, khí đốt đã dần cạn kiệt và trở nên khan hiếm, trong khi đó tình trạng lãng phí năng lượng đã và đang xảy ra đáng báo động ở nhiều quốc gia. Nếu mỗi quốc gia, mỗi người dân chúng ta không tự có những biện pháp và động thái tích cực, thì chắc chắn trong tương lai không xa, tình trạng khủng hoảng năng lượng toàn cầu sẽ trở nên trầm trọng hơn. Theo kinh nghiệm của các nước phát triển, ít nhất 30% nhu cầu năng lượng có thể và cần phải được đáp ứng bằng biện pháp tiết kiệm.
Ở Việt Nam, việc tiết kiệm năng lượng cũng đã và đang trở thành chủ đề nóng bỏng. Theo báo cáo gần đây nhất của Bộ Công Thương, dự báo đến cuối thế kỷ này, nguồn năng lượng của Việt Nam sẽ trở nên khan hiếm, các mỏ dầu và khí đốt sẽ dần cạn kiệt, trong khi đó tình trạng lãng phí năng lượng trong sản xuất công nghiệp, xây dựng dân dụng, giao thông vận tải của nước ta hiện nay là rất lớn, hiệu suất sử dụng nguồn năng lượng còn rất thấp so với các nước phát triển (hiệu suất sử dụng nguồn năng lượng trong các nhà máy nhiệt điện đốt than, dầu của nước ta chỉ đạt được từ 28-32%, thấp hơn so với các nước phát triển khoảng 10%; hiệu suất các lò hơi công nghiệp chỉ đạt khoảng 60%, thấp hơn mức trung bình của thế giới khoảng 20%). Năng lượng tiêu hao cho một đơn vị sản phẩm các ngành công nghiệp chính của nước ta cao hơn nhiều so với các nước phát triển, làm tăng giá thành sản phẩm, giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế. Vấn đề tiết kiệm năng lượng trở nên đặc biệt quan trọng khi Việt Nam đang và sẽ trở thành nước phải nhập khẩu năng lượng. Trong khi các nguồn năng lượng tái tạo (gió, mặt trời...) hầu như chưa được khai thác, sử dụng thì các nguồn năng lượng không tái tạo (dầu thô, than đá...) đang cạn kiệt dần. Nếu chúng ta không có những biện pháp, chiến lược hợp lý trong vấn đề tiết kiệm và sử dụng năng lượng hiệu quả, thì trong thời gian không xa nữa chúng ta sẽ thiếu hụt trầm trọng năng lượng.
Xuất phát từ những lí do trên, là một người cán bộ quản lý tôi quyết định chọn đề tài: "Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục GDSDNL tiết kiệm trong trường MN" để nghiên cứu và triển khai trong năm học này.
	* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở thực trạng việc thực hiện chuyên đề giáo dục SDNLTK trường Mầm Non Thị Trấn. Từ đó đưa ra một số kinh nghiệm vận dụng giữa lý luận và thực tế nhằm nâng cao chất lượng giáo dục SDNLTK trong trường mầm non.
	* Đối tượng nghiên cứu:
	- Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục SDNL tiết kiệm, hiệu quả trong trường MN
	* Phương pháp nghiên cứu:
- Quan sát sư phạm.
- Phương pháp dùng lời: đàm thoại, giảng giải.
- Phương pháp điều tra thống kê.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm qua nghiên cứu lý luận thực tiễn
2. NỘI DUNG
	2.1. Cơ sở lý luận:
Như chúng ta đã biết, để làm thay đổi thói quen, ý thức của một người là điều vô cùng khó khăn và để mỗi người hình thành được thói quen, ý thức tự giác tiết kiệm năng lượng lại là chuyện càng khó hơn. Đây là công việc rất nặng nề không thể hoàn thành một sớm một chiều mà đòi hỏi phải có thời gian, cùng với sự quyết tâm, nỗ lực và thực hiện xuyên suốt của các cấp, các ngành.
Câu hỏi đặt ra là: Tại sao chúng ta không giáo dục, rèn luyện ý thức tự giác tiết kiệm năng lượng cho mọi người ngay từ lúc nhỏ để hình thành thói quen? Ở những quốc gia phát triển về TKNL trên thế giới như Hàn Quốc, Nhật Bản việc giáo dục TKNL là một trong những hoạt động trọng tâm được triển khai ngay khi học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường.
 	Giống như câu “Dạy con từ thuở còn thơ”, vì ở trẻ em thường rất nhạy bén, cập nhật kiến thức, thông tin nhanh, dễ bắt chước, nên đây là thế mạnh của trẻ cần được khai thác. Do đó, để chủ trương tiết kiệm năng lượng gặt hái được kết quả, cần tập trung giáo dục để trẻ em hình thành thói quen tiết kiệm năng lượng.
	Nhiều công trình nghiên cứu cho rằng, trong những năm đầu của cuộc đời, hệ thần kinh mềm mại hơn, non yếu hơn nên rất dễ hình thành nét cơ bản của cá tính và những thói quen nhất định, hình thành cho trẻ những phẩm chất tâm lý, nhân cách của con người. Nhất là giai đoạn tuổi mẫu giáo, trẻ thường có khuynh hướng muốn độc lập trưởng thành. Trẻ hiếu động, thích khám phá những điều mới lạ và rất tò mò trong khi còn ngây thơ, hồn nhiên chưa biết gì về thế giới xung quanh. Vì vậy việc giáo dục tiết kiệm năng lượng cho trẻ ở giai đoạn này giúp hình thành cho trẻ thói quen, ý thức tốt ngay từ khi còn nhỏ góp phần phát triển toàn diện nhân cách trẻ theo hướng tích cực nhất.
        Có thể tin chắc rằng nếu chúng ta hình thành ý thức tiết kiệm năng lượng cho trẻ nhỏ ngay từ bây giờ, thì thế hệ tương lai sẽ làm tốt việc chung tay thực hiện hiệu quả các giải pháp tiết kiệm năng lượng cho đất nước. Và một khi ý thức tiết kiệm đã trở nên thường trực trong mỗi người thì tương lai không xa, vấn đề thiếu hụt năng lượng ở Việt Nam sẽ được giải quyết.
	2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
 	a. Thực trạng:
Từ năm học 2010 - 1011 giáo dục SDNLTK đã được đưa vào các trường mầm non và trở thành chuyên đề trọng tâm của mỗi nhà trường đánh giá bước chuyển lớn về cả chất và lượng trong việc giáo dục SDNLTK cho trẻ mầm non. Tuy nhiên cho đến nay, qua hơn 5 năm thực hiện thì chuyên đề này đang dần bị sao nhãng và chưa được quan tâm đúng mức.
* Thuận lợi:
Trường mầm non Thị Trấn được sự quan tâm của Đảng uỷ, các cấp lãnh đạo, các đoàn thể, phòng Giáo dục & Đào tạo đã tạo điều kiện về cơ sở vật chất trang thiết bị, đồ dùng dạy học, đồ chơi, tài liệu giảng dạy phục vụ tốt cho các chuyên đề. Trường mầm non được đặt trong môi trường sạch sẽ, cao ráo, không khí trong lành mát mẻ, không bị ô nhiễm. Nhà trường còn có đội ngũ CBGV có trình độ trên chuẩn cao, trẻ khoẻ nhịêt tình, yêu nghề mến trẻ, toàn tâm toàn ý với sự nghiệp giáo dục, có ý thức phấn đấu rèn luyện, đáp ứng được yêu cầu giáo dục trong sự nghiệp đổi mới giáo dục hiện nay.
* Khó khăn:
Tuy vậy việc thực hiện chuyên đề giáo dục SDNLTK hiệu quả nhà trường cũng gặp không ít khó khăn đó là:
Nhà trường có 12 nhóm lớp chia làm 2 khu cách nhau khoảng 4km khó khăn cho công tác quản lý. Mặt khác trình độ dân trí không đồng đều, từ đó việc phối kết hợp để giáo dục trẻ còn có những hạn chế nhất định. Thời gian làm việc trong ngày quá dài, áp lực công việc quá cao khiến cho Giáo viên giảm khả năng sáng tạo trong việc lựa chọn nội dung tích hợp chuyên đề vào quá trình chăm sóc giáo dục trẻ, vì vậy phương pháp còn cứng nhắc, bị động, gò ép trong khung hình định sẵn nên kết quả chưa cao.
Trường lớp được xây dựng quá lâu (từ năm 1993) nên đến nay đường điện không còn phù hợp do nhu cầu dùng điện tăng, đường dây không đủ tải hay xảy ra chập, cháy. Kinh phí nhà trường có hạn nên việc bảo dưỡng các thiết bị điện, nước trong trường chưa thường xuyên. 
	b. Kết quả thực trạng:
Từ những thuận lợi và khó khăn trên kết quả khảo sát thực trạng đầu năm học 2015 - 2016 như sau:
	Bảng 1: Về phía nhà trường
TT
Nội dung
Tổng tiền
Trung bình tháng
1
Kết quả sử dụng điện trong năm học 2014-2015
11.070.000đ
1.230.000đ
2
Kết quả sử dụng nước trong năm học 2014-2015
13.680.000đ
1.520.000đ
	Bảng 2 : Về giáo viên 
TT
Nội dung
TS GV
Tốt
Khá
TB
SL
%
SL
%
SL
%
1
Số GV tạo được môi trường và góc tuyên truyền tại nhóm, lớp
12
4
33,3
5
41,7
3
25,0
2
Việc lồng ghép chuyên đề trong quá trình CSGD trẻ
12
5
41,7
4
33,3
3
25,0
	Bảng 3: Kết quả khảo sát trên trẻ
TT
Nội dung
TS trẻ ĐG
Tốt
Khá
TB
SL
%
SL
%
SL
%
1
Hiểu biết về năng lượng
275
50
18,2
90
32,7
135
49,1
2
Lợi ích của năng lượng
275
45
16,4
92
33,4
138
50,2
3
Tiết kiệm năng lượng
275
45
16,4
90
32,7
140
50,9
Nhìn vào bảng kết quả trên ta thấy: mặc dù các thiết bị sử dụng điện trong nhà trường không nhiều (toàn trường có 2 máy tính sử dụng thường xuyên, 3 nồi cơm điện sử dụng hàng ngày, 2 ti vi, 2 tủ lạnh, mỗi phòng nhóm có 2 đến 3 quạt trần) tuy nhiên mức tiêu thụ điện trong năm vẫn ở mức cao (trung bình 1.230.000đ/tháng). Bên cạnh đó so với một trường ở khu vực nông thôn thì mức tiêu thụ nước vẫn còn quá cao (trung bình 1.520.000đ/tháng) . Điều đó chứng tỏ ý thức sử dụng tiết kiệm điện nước ở đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh trong trường còn thấp.
Hầu hết giáo viên đều có sưu tầm tranh ảnh để tuyên truyền trong nhóm, lớp và biết cách lồng ghép chuyên đề vào quá trình chăm sóc giáo dục trẻ. Tuy nhiên số Giáo viên thực hiện tốt còn ít, số đạt trung bình vẫn còn khá cao do chưa thực sự trú trọng vì xác định đây không phải là chuyên đề trọng tâm. Bên cạnh đó số trẻ có những hiểu biết tốt về năng lượng, lợi ích của năng lượng và tiết kiệm năng lượng còn rất hạn chế mà chủ yếu là ở mức trung bình và khá.
Từ những kết quả trên, tôi đã nghiên cứu đề ra một số giải pháp để chỉ đạo nâng cao chất lượng chuyên đề giáo dục SDNL tiết kiệm trong trường Mầm non Thị Trấn như sau:
	2.3. Các biện pháp thực hiện
	Biện pháp 1: Khảo sát, xây dựng các biện pháp tiết kiệm điện, nhiên liệu trong trường.
Khảo sát lại tình hình bố trí các thiết bị điện, đèn quạt, vi tính, ti vitrong từng nhóm, lớp; tình hình tận dụng ánh sáng tự nhiên và không khí mát tự nhiên; tình hình sử dụng các trang thiết bị điện; tình hình mạng lưới điện trong toàn trường .
Xây dựng các biện pháp kĩ thuật tiết kiệm điện, nhiên liệu như: Mở rộng các cửa sổ để tận dụng tối đa ánh sáng tự nhiên. Thay bóng đèn sợi đốt bằng đèn compact hoặc đèn ống huỳnh quang để tiết kiệm điện. Thay bóng đèn neon thế hệ 40W, 20W bằng bóng đèn neon thế hệ mới 36W, 18W và thay chấn lưu sắt từ bằng chấn lưu điện tử để tiết kiệm điện.
	Thay thế đường dây điện bị hỏng, nhiều khớp nối hở gây hiện tượng phóng điện, chập cháy mỗi khi trời mưa, các đường ống nước bị rò rỉ, van nước bị hỏng gây thất thoát nước hàng ngày.
Xây dựng các giải pháp hành chính tiết kiệm điện, nhiên liệu như: Quy định chế độ và thời gian sử dụng các trang thiết bị trong nhà trường. Đèn hành lang, đèn bảo vệ phải bật tắt đúng giờ theo từng mùa ( mùa hè bật vào 19h, tắt vào 5h sáng ; mùa đông bật vào 18h, tắt vào 6h sáng). Các thiết bị: đài, tivi, đàn... trong lớp chỉ được bật khi tổ chức hoạt động cho trẻ. Các trang thiết bị điện trong các nhóm/lớp, các phòng làm việc khi không có người làm việc điều phải cắt hết điện. Không đun nấu bằng điện trong trường.
Bảo vệ trường có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra việc sử dụng các thiết bị điện theo quy định của nhà trường và có thông báo trên bảng thông tin của nhà trường hàng tuần. Ban giám hiệu kiểm tra bất thường và theo kế hoạch cụ thể hàng tháng, quý để kịp thời uốn nắn, phê bình và tổng kết cho việc 
thưởng phạt thi đua về tiết kiệm điện. 
Thường xuyên nêu gương tốt, việc làm tốt trong việc tiết kiệm điện, nhiên liệu. Những sáng kiến về tiết kiệm điện, nhiên liệu có hiệu quả trong trường đều phải khen thưởng kịp thời và áp dụng ngay. 
Biện pháp 2: Bồi dưỡng nhận thức cho đội ngũ, tập huấn nâng cao năng lực chuyên môn và kiến thức GDSDNL tiết kiệm, hiệu quả.
	Để giáo viên hiểu rõ tầm quan trọng và phương pháp GDSDNL tiết kiệm hiệu quả trong trường mầm non, ngay từ đầu năm học tôi đã tổ chức tập huấn ôn lại kiến thức chuyên đề GDSDNL cho 100% cán bộ giáo viên được tham gia. Giải thích cho Cán bộ Giáo viên hiểu được: cùng với sự đi lên của quá trình nghiệp CNH, HĐH hóa đất nước như hiện nay, kinh tế xã hội cũng không ngừng phát triển kéo theo nhu cầu sử dụng năng lượng tăng lên 1 cách nhanh chóng, việc khai thác và sử dụng không hợp lý sẽ gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng.
 Triển khai các nội dung của chuyên đề cụ thể như: Một số hiểu biết cơ bản về năng lượng; Trách nhiệm của nhà trường, của Giáo viên trong việc tổ chức thực hiện GDSDNL tiết kiệm hiệu quả; Phối hợp với gia đình và cộng đồng trong việc giáo dục trẻ GDSDNL tiết kiệm, hiệu quả.
Qua việc ôn lại kiến thức chuyên đề, giáo viên nắm được nội dung giáo dục trẻ sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, Nắm được nguyên tắc tích hợp nội dung giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả vào chương trình giáo dục mầm non, đồng thời biết lựa chọn nội dung tích hợp vào trong các chủ đề, các hoạt động trong ngày phù hợp.
Cũng trong quá trình triển khai ôn lại kiến thức chuyên đề, chúng tôi trú trọng xây dựng tiết dạy mẫu để giáo viên được dự giờ, củng cố thêm kiến thức về nội dung chuyên đề, biết cách lồng ghép các nội dung chuyên đề vào các môn học.
Để giáo viên xác định được mục tiêu của việc thực hiện chuyên đề giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm, có ý thức xây dựng kế hoạch giáo dục chuyên đề phù hợp với đặc điểm tình hình của lớp, của trường và yêu cầu của ngành đề ra, chúng tôi tổ chức cho giáo viên được học tập các Quyết định, Chỉ thị, Nghị quyết nhằm củng cố ý thức về SDNLTKHQ, nhằm xác định lại mục tiêu mà toàn Đảng toàn dân, toàn xã hội đang ra sức thực hiện. Mặt khác thông qua việc học tập để giáo viên có dịp đánh giá về bản thân, vận động trách nhiệm chung trong việc thực hiện chuyên đề. Sau mỗi đợt học tập tôi luôn đề nghị giáo vên viết bài thu hoạch về những điều giáo viên đã nhận thức được thông qua đợt học tập, từ đó khắc sâu hơn những kiến thức liên quan đến nội dung chuyên đề.
Biện pháp 3. Chỉ đạo xây dựng lớp điểm giáo dục và sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả. 
Sau khi ôn lại kiến thức, tôi tiến hành xây dựng lớp điểm để chỉ đạo thực hiện. Lớp điểm mà tôi chọn là lớp 5 tuổi ở khu trung tâm, giáo viên chủ nhiệm là cô: Đường Thị Thơ
 Đầu tiên chỉ đạo cho Giáo viên trang trí tạo môi trường trong nhóm lớp, tạo góc tuyên truyền nội dung chuyên đề để giáo dục trẻ và tuyên truyền tới các bậc phụ huynh phối hợp cùng thực hiện.
Hướng dẫn cho giáo viên xây dựng môi trường giáo dục sử dụng năng 
lượng tiết kiệm và hiệu quả bao gồm:
- Môi trường an toàn thuận lợi như: Sử dụng các thiết bị an toàn, tiết kiệm năng lượng trong trường, lớp. Rà soát lại toàn bộ đường điện, quạt, bóng điện để có kế hoạch đề xuất sửa chữa đường dây đảm bảo không tiêu hao điện năng, thay thế bóng đèn tròn bằng bóng compact tiết kiệm điện. Thay thế sửa chữa các đường ống nước, van nước bị rò rỉ tránh làm thất thoát nước trong quá trình sử dụng. 
Tổ chức các góc chơi với chủ đề sử dụng tiết kiệm năng lượng hiệu quả; Tạo góc tuyên truyền, trao đổi với phụ huynh về giáo dục trẻ sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả; Giáo viên phải có ý thức, gương mẫu trong việc sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả ở mọi lúc mọi nơi.
- Thực hiện tiết kiệm trong sử dụng như: Xây dựng được nội quy sử dụng điện, nước trong lớp; Làm những hướng dẫn sử dụng điện, nước gắn vào các công tắc sử dụng điện, các chậu rửa tay hay vòi nước trong lớp, nhà vệ sinh. Tăng cường sử dụng ánh sáng mặt trời, gió để tiết kiệm điện.
- Thu hút trẻ trong lớp tham gia một số việc làm đơn giản nhằm tiết kiệm điện, nước như: Tắt điện, quạt khi không sử dụng; Dạy cho trẻ thói quen nhắc người lớn tắt quạt, điện khi họ quên; vặn nhỏ vòi nước đủ dùng và khóa vòi khi sử dụng xong....
Tiến hành xây dựng giờ dạy mẫu ở lớp điểm có lồng ghép chuyên đề giáo dục SDNLTKHQ vào quá trình chăm sóc nuôi dạy trẻ. Giờ học thành công, được giáo viên đánh giá cao về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức lồng tích hợp, trẻ thực sự hứng thú, việc tích hợp nhẹ nhàng, thoải mái mà cung cấp trẻ những hiểu biết cho trẻ vừa dễ nhớ, nhớ lâu, nhớ sâu và thể hiện hành vi mang tính giáo dục cao. Đồng thời trẻ được hoạt động, được chuyển tải các kiến thức thành các kĩ năng thực hành tiết kiệm năng lượng và có các hành vi ứng xử phù hợp với các tình huống, từ đó giáo viên trong trường học tập và nhân ra diện rộng.
Sau khi dự giờ tôi củng cố lại cho giáo viên về các nội dung chính cần đề cập đến để giáo viên nắm lại, đồng thời hướng dẫn giáo viên thực hiện nội dung giáo dục SDNLTKHQ thông qua các hoạt động: hoạt động vui chơi, hoạt động học tập, dạo chơi thăm quan, lao động. Trong mọi thời điểm giáo viên đều có thể vận dụng để khai thác, nhấn mạnh những yêu cầu, mục tiêu của nội dung SDNLTK đặc biệt là tăng cường việc thực hành, tăng cường những kiến thức, ý thức TKNL, bảo vệ môi trường và chú trọng rèn luyện các kĩ năng SDNLTK và bảo vệ môi trường để trẻ dễ nhớ, nhớ lâu, nhớ sâu và có hiệu quả nhất.
Từ mô hình lớp điểm, các giáo viên đến thăm, dự giờ và học hỏi để

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_chi_dao_nang_cao_chat_luong_giao_duc_g.doc