SKKN Kinh nghiệm ôn tập môn Ngữ văn cho học sinh lớp 12 trường THPT Ngọc Lặc đạt kết quả cao trong kỳ thi THPT Quốc Gia năm 2019

SKKN Kinh nghiệm ôn tập môn Ngữ văn cho học sinh lớp 12 trường THPT Ngọc Lặc đạt kết quả cao trong kỳ thi THPT Quốc Gia năm 2019

Nghị quyết trung ương 6 khóa XII tiếp tục khẳng định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội”. Xác định được nhiệm vụ trọng tâm đó, trong những năm gần đây Bộ GD&ĐT đã có những đổi mới tích cực về phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá, lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào các môn học,.đặc biệt Bộ GD đã thay đổi cấu trúc đề thi. Với môn Ngữ văn đây là một trong trong những môn học quan trọng trong ban Khoa học xã hội, nhưng để đạt được điểm cao trong các kì thi lại không hề dễ dàng. Từ những năm 2014 đến 2017 thi THPTQG (THPT Quốc Gia) thời gian làm bài từ 150 phút rút xuống còn 120 phút; năm 2017 từ bài văn nghị luận xã hội 600 chữ xuống đoạn văn 200 chữ, câu 5đ vận dụng khả năng đọc hiểu về kiến thức văn học viết bài nghị luận văn học. Việc ra đề thi thay đổi 120 phút mục đích là để đánh giá năng lực giảng dạy của giáo viên (GV) và kiểm tra việc học tập, vận dụng của học sinh (HS) thông qua bài thi. Năm 2018, câu nghị luận văn học yêu cầu HS vận dụng kiến thức hai khối 11, 12.

docx 21 trang thuychi01 5261
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Kinh nghiệm ôn tập môn Ngữ văn cho học sinh lớp 12 trường THPT Ngọc Lặc đạt kết quả cao trong kỳ thi THPT Quốc Gia năm 2019", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU. 
1.1. Lý do chọn đề tài: 
Nghị quyết trung ương 6 khóa XII tiếp tục khẳng định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội”. Xác định được nhiệm vụ trọng tâm đó, trong những năm gần đây Bộ GD&ĐT đã có những đổi mới tích cực về phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá, lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào các môn học,...đặc biệt Bộ GD đã thay đổi cấu trúc đề thi. Với môn Ngữ văn đây là một trong trong những môn học quan trọng trong ban Khoa học xã hội, nhưng để đạt được điểm cao trong các kì thi lại không hề dễ dàng. Từ những năm 2014 đến 2017 thi THPTQG (THPT Quốc Gia) thời gian làm bài từ 150 phút rút xuống còn 120 phút; năm 2017 từ bài văn nghị luận xã hội 600 chữ xuống đoạn văn 200 chữ, câu 5đ vận dụng khả năng đọc hiểu về kiến thức văn học viết bài nghị luận văn học. Việc ra đề thi thay đổi 120 phút mục đích là để đánh giá năng lực giảng dạy của giáo viên (GV) và kiểm tra việc học tập, vận dụng của học sinh (HS) thông qua bài thi. Năm 2018, câu nghị luận văn học yêu cầu HS vận dụng kiến thức hai khối 11, 12. 
Vào tháng 12/2018 Bộ GD&ĐT đã công bố đề thi minh họa THPTQG năm 2019 là động thái cần thiết, là cơ sở để nhà trường, tổ bộ môn chủ động kế hoạch ôn tập cho HS làm quen với dạng đề thi này đạt hiệu quả. Câu đọc hiểu và nghị luận xã hội giống như hai năm trước, riêng nghị luận văn học (5đ) năm 2019 có khác. Đề tham khảo chỉ hỏi duy nhất kiến thức lớp 12 là tìm những ngữ liệu văn học, những khía cạnh của một nhân vật hay tình tiết trong chính một tác phẩm. HS gần như không thể học vẹt, hay chép y nguyên một bài văn mẫu nhưng đề cũng vẫn yêu cầu HS sử dụng thao tác so sánh nhằm phát huy khả năng sáng tạo của HS, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường để có thể hội nhập toàn cầu. 
Nhằm giúp HS lớp 12 trường THPT Ngọc Lặc ôn tập thi THPTQG năm 2019 môn Ngữ văn đạt hiệu quả, tổ chúng tôi đã xây dựng kế hoạch từ trước đó, tăng cường ôn tập, luyện đề bám sát đề thi minh họa. Đến giữa tháng 4/2019 chúng tôi tự tin đánh giá HS đã nắm được 70 - 80% kiến thức cơ bản. Từ kinh nghiệm là một GV dạy ôn luyện đội tuyển HS giỏi và khối 12 nhiều năm, từ thực tiễn giảng dạy ở trường THPT Ngọc Lặc, tôi xin mạnh dạn trao đổi với đồng nghiệp chuyên đề nhỏ của mình: “Kinh nghiệm ôn tập môn Ngữ văn cho học sinh lớp 12 trường THPT Ngọc Lặc đạt kết quả cao trong kỳ thi THPT Quốc Gia năm 2019” giúp HS tự tin với những kiến thức, kỹ năng mà mình có được để làm bài thi đạt kết quả như mong muốn.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Thông qua chuyên đề, GV hướng dẫn HS nắm chắc kiến thức cơ bản, có kỹ năng, phương pháp để các em HS lớp 12 trường THPT Ngọc Lặc nhất là những HS thi ĐH, CĐ khối C, D có thể tự tin bước vào kì thi THPTQG năm 2019 làm bài đạt chất lượng tốt nhất. 
- Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn Ngữ văn trong nhà trường THPT Ngọc Lặc. Thông qua chuyên đề này các GV trong tổ có thể dùng để thực hành khi ôn luyện học sinh giỏi, ĐH, CĐ và thi THPTQG hàng năm. 
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh lớp 12A3, 12A5 trường THPT Ngọc Lặc năm học 2018 - 2019. 
- Các đề luyện tập theo đề minh họa thi THPTQG năm 2019. 
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong phạm vi đề tài tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp so sánh; Phương pháp thống kê; Phương pháp tổng hợp, phân tích;
Phương pháp thực nghiệm, điều tra. 
2. NỘI DUNG. 
2.1. Cơ sở lý luận của đề tài:
Ngày 6 tháng 12 năm 2018 Bộ GD&ĐT đã công bố đề thi minh họa THPTQG 2019 nhưng cả thầy và trò trường THPT Ngọc Lặc vẫn còn tỏ ra băn khoăn, lúng túng khi dạy và học. Đứng trước thực trạng trên, bằng kinh nghiệm của bản thân và sự quan sát tổng kết các đề thi ĐH, CĐ, ôn thi THPTQG trong những năm gần đây, qua những năm ôn luyện đội tuyển học sinh giỏi và trực tiếp giảng dạy khối 12, tôi xin đề xuất một vài kinh nghiệm hướng dẫn HS lớp 12 trường THPT Ngọc Lặc có được kỹ năng cần thiết để làm đề thi môn Ngữ văn trong kỳ thi THPTQG năm 2019 đạt hiệu quả. Muốn hoàn thành tốt bài thi HS phải nắm vững các kiến thức cơ bản, thành thạo các kỹ năng tạo lập văn bản và cần tư duy tổng hợp để bài viết phong phú, thuyết phục giám khảo để đạt điểm khá, giỏi.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 
2.2.1. Thuận lợi:
- Trong quá trình giảng dạy, nhóm GV dạy lớp 12 trường THPT Ngọc Lặc đã họp bàn thống nhất kế hoạch đưa ra từ đầu năm và triển khai thực hiện ôn tập vào các buổi chiều trong tuần. HS được rèn luyện nâng cao kỹ năng, kiểm tra kiến thức trong các bài kiểm tra định kì, tiết kiểm tra học kì, thi thử THPTQG. 
- HS cơ bản đã nắm được kiến thức trong chương trình học và cũng đã vận dụng trong đời sống thực tế, khi làm đề thi. 
2.2.2. Khó khăn:
- Về phía HS: trường THPT Ngọc Lặc là một huyện miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa với khoảng 80 - 85% là dân tộc thiểu số (Mường, Dao..), chủ yếu ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, đến trường đi học đầy đủ là cả một vấn đề. Môn Ngữ văn là một môn học đặc thù, yêu cầu HS đọc hiểu, phát huy trí tưởng tượng của HS trong khi đầu vào thấp cũng là một thách thức. Số lượng HS đăng ký thi ĐH, CĐ khối C, D không nhiều vì không có nhiều ngành nghề để HS lựa chọn và nhiều em không có hứng thú học văn. Mục đích chủ yếu HS chỉ cần thi đậu tốt nghiệp để có thể xin việc ở các công ty may, công ty SamSung... Hơn nữa thời gian ôn thi gấp rút, HS chưa được học tập rèn luyện nhiều đề, nhiều em thiếu kỹ năng làm bài.
- Ban chuyên môn, tổ chuyên môn chưa tạo được môi trường, điều kiện thuận lợi để GV có nhiều tiết dạy ôn thi trên trường như việc ôn thi THPTQG 3 tiết/tuần với một lượng kiến thức khổng lồ cả khối 12 và 11 là điều vô cùng khó khăn đối với cả người dạy lẫn người học. 
- Về phía GV: chưa có nhiều kinh nghiệm, còn lúng túng khi hướng dẫn HS ôn tập nên cũng ảnh hưởng đến chất lượng bài thi của HS. Bộ GD đã có định hướng và đưa đề thi minh họa THPTQG năm 2019 ở câu nghị luận văn học thì khác hẳn năm 2018 cũng là một thách thức.
2.2.3. Thống kê số liệu:
Thực tế trong giảng dạy môn Ngữ văn của tổ chuyên môn và cá nhân khi dạy ôn thi HS giỏi, thi THPTQG tôi đã đưa một số đề thi tham khảo theo đề minh họa của Bộ GD yêu cầu HS luyện tập và một số câu hỏi điều tra sơ bộ về dạng đề này cho 82 HS lớp 12A3, 12A5 trường THPT Ngọc Lặc thì thu được một số kết quả sau:
Câu 1: Bản chất câu nghị luận văn học theo đề thi minh họa THPTQG năm 2019 của Bộ GD có gì khác năm 2018? Em đã vận dụng được bao nhiêu % kiến thức đã tiếp thu được vào bài làm của mình?.
Kết quả 59 em hiểu bản chất đề thi minh họa năm 2019 khác ở phần NLVH đó là tập trung vào kiến thức lớp 12, tự tin với kiến thức đã có để làm bài. Số còn lại lúng túng, chưa có nhiều kĩ năng và chưa vận dụng được kiến thức viết bài như thế nào cho hợp lý. 
Câu 2: Bài tập luyện tập:
I. Đọc - hiểu: 3 điểm 
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu ghi bên dưới:
“Mỗi ban mai khi chúng ta thức dậy, chúng ta nhận ra những tia nắng ngập tràn ấm áp và lộng lẫy trên những cánh đồng, trên những ngọn đồi, trên những dòng sông, trên những mái nhà và trên những ô cửa sổ nơi căn phòng của chúng ta vừa có một giấc mơ đẹp đêm qua.
Chúng ta cũng nhận ra tiếng chim rộn vang trong những vòm lá và hương thơm của cây cỏ, hoa trái cùng hương thơm của đất đai muôn thuở đang dâng lên ngào ngạt. Thế nhưng, khoảnh khắc diệu kỳ ấy trong đời sống thế gian lại luôn luôn bị đột ngột tan biến bởi bao điều đau buồn xảy ra.
Máu vẫn chảy trong ban mai lộng lẫy của thế gian bởi những cuộc chiến tranh tàn khốc...Bóng tối của những độc ác, tức tối và hằn học vẫn phủ ngập trong không ít đôi mắt con người.
Tại sao những khoảnh khắc kỳ diệu mà chúng ta từng có và đang có lại không thể kéo dài mãi mãi và phủ ngập trên đời sống thế gian này như những tia nắng mặt trời? Tại sao chúng ta lại biến ngôi nhà thế gian của chúng ta thành một nơi của máu chảy, của thù hận, của đối kháng và của những giá lạnh? Với lý do đó báo VietNamNet cùng nhiều trí thức Việt Nam và trên thế giới cùng với con người ở mọi tầng lớp xã hội - những con người đang mơ ước và lao động cho một đời sống thanh bình và yêu thương ở nhiều nước trên thế giới chọn ngày mùng 9 tháng 9 hàng năm là “ngày của thế gian, ngày hòa giải và yêu thương” ... Chỉ cần sống một ngày như vậy, ngay lập tức chúng ta thấy thế gian của chúng ta trong cái ngày ấy vụt đổi thay như một phép lạ”.
 (Trích Cần một ngày hòa giải để yêu thương, theo VietNamnet.vn, ngày 07/09/2010)
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên?
Câu 2: Vấn đề chính tác giả nêu lên trong đoạn trích là gì?
Câu 3: Theo anh/chị, nhan đề Cần một ngày hòa giải để yêu thương có liên quan gì đến vấn đề chính được đề cập trong đoạn trích?
Câu 4: Đoạn trích giúp anh/chị nhận ra điều gì có ý nghĩa nhất đối với bản thân mình? Vì sao?
II. Làm văn.
Câu 1: 2 điểm
Hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về sức mạnh của hòa giải và yêu thương.
Câu 2: 5,0 điểm 
 Nhận xét về hình tượng người lính trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng có ý kiến cho rằng: “Người lính ở đây mang dáng dấp của tráng sĩ thuở trước”. Ý kiến khác lại nhấn mạnh: “hình tượng người lính mang đậm vẻ đẹp chiến sĩ thời kháng chiến chống Pháp”. Anh/chị hãy bình luận các ý kiến trên? [4]
Kết quả thu được: 82 HS của hai lớp 12A3, 12A5 đó là: 34 HS hiểu được yêu cầu của đề, nắm chắc kiến thức cơ bản, có kỹ năng, biết vận dụng linh hoạt; 28 HS vận dụng hiểu biết, kỹ năng làm bài đạt mức 3,5đ - 4,25đ; 20 HS còn lại lúng túng, không hiểu vấn đề, không biết cách trình bày bài văn rơi vào HS trung bình, yếu; số HS này là ở lớp 12A5. Ở đây lớp 12A3 có sự phân loại HS chủ yếu thi ĐH, CĐ; lớp 12A5 đa số chỉ thi xét tốt nghiệp.
Như vậy thông qua kết quả thu được số HS hiểu bài, vận dụng kiến thức không nhiều, số HS đạt điểm khá, giỏi lại càng ít hơn. Có nhiều nguyên do: vì các em tích lũy kiến thức chưa nhiều, chưa có kỹ năng làm đề, phân bố thời gian chưa hợp lí, các em chưa thật sự cố gắng trong học tập đối với môn Ngữ văn... Vì thế GV ngoài dạy cho HS kiến thức còn phải dạy cả kĩ năng làm bài, cho HS làm quen với nhiều dạng đề khác nhau. Ngoài ra HS phải tự học, tự tìm cho mình nhiều kênh thông tin khác nhau để bổ sung kiến thức cũng như rèn luyện kĩ năng để đạt được kết quả tốt nhất trong kỳ thi THPTQG năm 2019. 
2.3. Các giải pháp thực hiện:
* Thứ nhất: Tổ chuyên môn xây dựng kế hoạch ôn tập THPTQG 2019 từ đầu năm học, đến tháng 3/2019 có chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp. Nhóm GV dạy 12 tùy vào điều kiện, tình hình học tập của HS từng lớp mà ôn tập cụ thể theo từng phần, từng bài, theo chuyên đề; kế hoạch dạy ôn tập cụ thể từng tuần, tháng được tổ trưởng, Ban giám hiệu ký duyệt thường xuyên.
* Thứ hai: chia nhóm, phân loại HS: HS học chỉ xét tốt nghiệp (TN) sau đó đi làm, hay vừa học vừa làm. Với HS học để xét TN và xét tuyển ĐH, CĐ: GV đưa bản khảo sát HS dự định học trường nào, điểm xét tuyển năm 2018, dự kiến điểm của mình đạt được bao nhiêu? để từ đó GV có thể định hướng nghề nghiệp cho HS căn cứ vào thực lực của bản thân.
* Thứ ba: GV hướng dẫn HS phương pháp học như thế nào có hiệu quả.
* Thứ tư: GV hướng dẫn HS các kỹ năng, cách thức làm bài.
* Thứ năm: Kiểm tra, đánh giá, phân loại HS: Phân hóa đối tượng HS để có phương pháp ôn thi phù hợp. Chấm chữa bài cho HS để phát hiện HS yếu kém ở chỗ nào để khắc phục; động viên khuyến khích sự tiến bộ của HS để các em có mục đích và hứng thú hơn trong học tập. 
* Ngoài ra GV còn dạy HS một số mẹo để bài viết đạt điểm cao như chữ viết, trình bày, lập dàn ý, cách mở bài, kết bài... 
Trong phạm vi đề tài này tôi chỉ chú ý hướng dẫn HS phương pháp, các kĩ năng, cách thức làm bài Ngữ văn như thế nào cho đạt hiệu quả. 
- Một là: Trong quá trình ôn tập GV nên chú ý làm tốt công tác các tư tưởng cho HS về những đổi mới của kỳ thi THPTQG năm 2019. Những điểm mới khi xét tốt nghiệp: điểm trung bình các môn học lớp 12 30%, kết quả thi 70%; trọng tâm kiến thức ở lớp 12.
Theo đánh giá của ông Mai Văn Trinh (Cục trưởng cục Quản lý chất lượng, Bộ GD&ĐT) đề thi tham khảo có giá trị ôn tập rất cao. Nhưng khi có đề thi minh họa của Bộ GD&ĐT, nhiều GV và HS còn nhiều băn khoăn lo lắng về kiến thức; về yêu cầu đề bài, nhất là câu câu nghị luận văn học. Bởi phương án thi THPTQG năm 2019 Bộ công bố chủ yếu kiến thức ở lớp 12 chứ không nói nói “chỉ có”. Như vậy có hay không sự tích hợp kiến thức lớp 10, lớp 11 HS vẫn không thể bỏ qua trong quá trình ôn tập.[2]
Vì thế tổ Ngữ văn trường Ngọc Lặc chúng tôi căn cứ vào số lượng 395 HS tham gia thi THPTQG năm 2019; số xét tuyển ĐH, CĐ khối C, D ít (110 HS, trong đó hai lớp tôi dạy 12A3 có 23 HS, lớp 12A5 có 6 HS). Từ số liệu đó, GV cần có cách giảng dạy phù hợp với tình hình thực tế lớp mình, chú ý bám sát vào đề minh họa và cũng không quên đưa thêm đề tích hợp để HS ôn luyện theo nhu cầu.
- Hai là: Ôn tập bám sát đề thi minh họa của Bộ, thường xuyên cập nhật các đề thi minh họa của các trường theo cấu trúc đề thi mới để học hỏi cái hay và HS được luyện tập nhiều dạng đề. GV trong tổ, nhóm xây dựng ngân hàng đề thi để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm với đồng nghiệp thường xuyên.
- Ba là: Học sinh cần có phương pháp ôn tập và luyện đề cụ thể. Ở đây chúng tôi hướng dẫn HS ôn tập phần đọc hiểu, phần nghị luận xã hội, nghị luận văn học, ôn luyện theo từng chuyên đề. Ngoài ra, chúng tôi còn hướng dẫn HS tập trung ôn tập những tác phẩm có thể thi THPTQG năm 2019 bằng phương pháp loại trừ để giảm tải áp lực vì HS còn dành thời gian để ôn luyện nhiều môn học khác nữa. 
2.3.1. Hướng dẫn học sinh các kỹ năng, cách thức làm bài:
2.3.1.1. Hướng dẫn học sinh ôn tập chắc chắn kiến thức đọc - hiểu.
Phần đọc - hiểu này dễ lấy điểm nhưng nhiều HS thường chủ quan, lơ là. Ngữ liệu phần đọc - hiểu nằm ngoài chương trình, vô cùng phong phú. Hai loại văn bản thường hay ra là văn bản nghệ thuật (thơ, văn xuôi) và văn bản thông tin (báo chí, chính luận). Muốn đạt được điểm 2 trở lên HS phải nắm chắc kiến thức và luyện nhiều đề mới có khả năng tăng điểm số.
* Những kiến thức HS cần ghi nhớ: 
- 6 phong cách ngôn ngữ: HS phải nắm được các đặc trưng phong cách ngôn ngữ báo chí, nghệ thuật, khoa học, chính luận, hành chính, sinh hoạt. Muốn nhận biết các phong cách ngôn ngữ, HS căn cứ vào xuất xứ ghi bên dưới đoạn trích để có thể lựa chọn đúng. Theo khảo sát ta có thể loại trừ không phải học phong cách ngôn ngữ khoa học và hành chính.
- Các phương thức biểu đạt: HS chú ý đặc trưng 4 phương thức biểu đạt: có sự việc, diễn biến (tự sự) - chủ yếu ở văn xuôi; có nhiều từ ngữ bộc lộ tình cảm, cảm xúc - chủ yếu là thơ (biểu cảm); có nhiều từ ngữ khen chê, bộc lộ thái độ (nghị luận); nhiều từ ngữ gợi tả sự vật, sự việc (miêu tả). Theo khảo sát ta không phải học phương thức biểu đạt thuyết minh, hành chính. 
- Ôn tập cách nhận biết các phép tu từ vựng (so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, hoán dụ, nói giảm...). Các phép tu từ cú pháp (câu hỏi tu từ, lặp cấu trúc, liệt kê...). Nêu tác dụng của các phép tu từ (1 - 2 câu).
- HS chú ý cách trình bày đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, song hành, móc xích).
- Nhận diện các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, bác bỏ, so sánh..
- Nhận diện các phép liên kết: phép thế, phép nối, phép liên tưởng.
- Yêu cầu xác định nội dung chính, đặt nhan đề cho văn bản: HS có thể căn cứ vào các câu chủ đề ở đầu hoặc ở cuối, câu được nhắc đến nhiều lần hoặc từ ngữ liệu HS đưa ra cảm nhận đúng của mình.
- Bày tỏ suy nghĩ bằng một đoạn văn ngắn (5 - 7 dòng), với yêu cầu này HS lưu ý viết đoạn văn phải đúng và trúng yêu cầu của đề. [2],[3]
* Muốn làm tốt câu đọc - hiểu, yêu cầu HS làm theo các bước sau:
- Đọc kỹ văn bản, có thể vài lần. Trong khi đọc cần chú ý bố cục, những câu, từ ngữ, hình ảnh quan trọng, tên văn bản. HS có thể gạch chân hoặc đánh dấu vào những chi tiết ấy, tránh quên khi làm bài.
- Đọc kỹ các yêu cầu của câu hỏi, trả lời trực tiếp, ngắn gọn, rõ ràng và đúng trọng tâm; chú ý trả lời từng câu hỏi, mỗi câu trả lời trừ 1 - 2 dòng để khi kiểm tra thấy thiếu ý thì dễ dàng bổ sung.
- Chú ý căn thời gian làm bài hợp lý, HS dành thời gian khoảng 20 phút để làm các câu đọc - hiểu là đủ. HS cần chú ý đến các vế trong từng câu hỏi, câu hỏi sắp xếp từ dễ đến khó. Những câu hỏi nếu thấy quá khó thì HS có thể dừng lại, làm sau.
- Sau khi làm xong HS nên dành thời gian rà soát các câu, các ý tránh bỏ sót 0,25 điểm. Ví dụ: 
+ Ở câu nhận biết, đề thường hỏi: chỉ ra (xác định) văn bản sử dụng phương thức biểu đạt (nếu đề ra có từ chính hay chủ yếu thì chỉ chọn một phương án), phong cách ngôn ngữ, phép liên kết, cách trình bày, phép tu từ, đề tài, thể thơ
+ Ở câu nhận biết/thông hiểu đề thường yêu cầu: xác định chủ đề/câu chủ đề; đặt nhan đề; theo tác giả “...” là gì?; chỉ ra những từ ngữ, hình ảnh... trong văn bản, xác định vấn đề chính trong văn bản.
+ Ở câu thông hiểu đề thường hỏi là: Anh (chị) hiểu như thế nào về câu (từ ngữ, hình ảnh, khái niệm) trong văn bản?; theo anh (chị) vì sao tác giả cho rằng “...”; cho biết tác dụng của các phép tu từ.
+ Ở các câu vận dụng thấp có các dạng: yêu cầu rút ra ý nghĩa (bài học) từ văn bản; Yêu cầu học sinh đưa ra các giải pháp hoặc liên hệ thực tiễn; bày tỏ suy nghĩ (cảm nhận) về câu văn (câu thơ) trong văn bản; anh (chị) có đồng ý hay không? Vì sao?; Viết đoạn văn theo yêu cầu (5 - 7 dòng).
Chú ý cách hỏi câu 3, 4: theo anh (chị) là trình bày ý kiến riêng của học sinh. Theo văn bản (tác giả) thì phải bám sát vào văn bản để trả lời. Câu hỏi “Em hiểu như thế nào” vận dụng thao tác giải thích, “trình bày ý kiến” thì vận dụng thao tác bình luận. Nếu đề yêu cầu đưa ý kiến bản thân hay giải pháp thì đưa nhiều ý kiến và giải pháp nhưng không được trùng lặp các ý có trong văn bản. Nên viết 5 - 7 dòng. 
- Sau khi HS nắm được các kiến thức, kỹ năng cơ bản, GV cho nhiều dạng đề đọc - hiểu để HS luyện tập: Ngữ liệu về văn xuôi, về thơ; thuộc văn bản nhật dụng và văn bản văn học. Sau mỗi tiết ôn tập lý thuyết tôi cho 3 - 4 đề HS luyện tập. GV nên đưa nhiều câu hỏi thể hiện ở các mức nhận biết, thông hiểu, vận dụng; sau mỗi đề có đáp án để các em đối chiếu, GV sửa bài cho HS. Thông qua các đề luyện tập bao giờ HS cũng có thể đạt 2 điểm trở lên. Đây là kết quả đáng mừng đối với HS trường THPT Ngọc Lặc trong việc ôn thi THPTQG trong mấy năm gần đây.
* Ngoài ra GV cũng chỉ cho HS một số “mẹo” để lấy điểm ở câu nhận biết, thông hiểu. Ví dụ:
- Nếu câu hỏi yêu cầu tìm phương thức biểu đạt: khi gặp ngữ liệu là một mẩu chuyện nhỏ thì phương thức biểu đạt là tự sự; nếu ngữ liệu là một đoạn thơ hay bài thơ thì phương thức biểu đạt là biểu cảm; nếu ngữ liệu có nêu quan điểm của người viết, có tranh luận, bàn bạc thì phương thức biểu đạt là nghị luận.
- Nếu câu hỏi về thao tác lập luận: Ngữ liệu có câu chủ đề khái quát vấn đề chính, các câu sau triển khai làm rõ, có chia tách ý làm rõ cho người đọc hiểu thì xác định là thao tác phân tích. Nếu gặp ngữ liệu có bày tỏ thái độ của người viết, có bàn luận đúng/sai thì nhận diện là thao tác bình luận. 
* Trở lại ví dụ câu đọc - hiểu đã cho ở phần thống kê số liệu: 
- HS đọc qua ngữ liệu, tìm các ý cần lưu tâm. HS nên tập trung chú ý các câu mở đầu đoạn: giữa đoạn 1 và đoạn 2 điểm chung đều nói đến những vẻ đẹp bình yên, đáng yêu, đáng trân trọng, nâng niu của cuộc sống thường ngày. Đến đoạn 3 ta thấy sự tang tóc, chết chóc, khổ đau đã xuất hiện trong cuộc sống đẹp đẽ này - thế giới yên bình không còn bình yên nữa. Và câu cuối thể hiện thái độ của người viết trước những vô lý, tàn bạo, bất công đang tồn tại trong thế giới này và chốt cần phải sống hòa giải và yêu thương.
- Sau đó HS trả lời các câu hỏi mà đề yêu cầu.
 + Với mức nhận biết: câu 1 yêu cầu HS nhận biết và chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích. Như vậy trong đoạn trích có thể kết hợp nhiều phương thức biểu đạt, trong đó thường có một phương thức b

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_kinh_nghiem_on_tap_mon_ngu_van_cho_hoc_sinh_lop_12_truo.docx
  • docBia sang kien kinh nghiem.doc
  • docxDanh muc cac chu viet tat.docx
  • docDanh muc de tai SKKN da duoc xep giai cua tac gia.doc