SKKN Cách ra đề “mở” - Một hình thức đổi mới trong tác phẩm Chí phèo của Nam Cao
Hiện nay, việc định hướng khai thác một tác phẩm văn học mà để cho học sinh sau khi tìm hiểu, khám phá tác phẩm văn học ấy có thể hiểu được cặn kẽ các vấn đề đặt ra trong văn bản là một điều không hề đơn giản. Đặc biệt là việc giải quyết các đề thi theo hướng “mở” - một hình thức đổi mới giống mấy năm gần đây ở tất cả các kì thi từ cấp cơ sở đến cấp Bộ. Điều này đã và đang thu hút mọi đối tượng từ học sinh đến giáo viên và các cơ quan quản lý giáo dục đều rất quan tâm. Bởi chỉ có cách ra đề theo hướng đổi mới như vậy mới phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, tăng cường khả năng làm việc của học sinh, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào giải quyết các dạng đề cụ thể, tạo hứng thú cho người học.
Cách ra đề “mở” - một hình thức theo hướng đổi mới nhằm giúp học sinh tích cực, hứng thú trong việc làm bài, bởi đề thi theo hướng này học sinh không phải học thuộc lòng, nhớ chi tiết, tỉ mỉ những cái mà thầy đã dạy trong văn bản. Tuy nhiên, người học cũng phải trên cơ sở của phần kiến thức cơ bản mà giáo viên đã hướng dẫn học sinh khai thác, tìm hiểu văn bản đó để lựa chọn lượng đơn vị kiến thức sao cho phù hợp với yêu cầu của đề bài ra. Có như vậy bài viết của học sinh mới trúng và đúng theo yêu cầu của đề, đồng thời cũng thuyết phục được người đọc, người nghe. Nhưng trong việc dạy học này của chúng ta cũng đang đứng trước bao thách thức, khó khăn bởi phần lớn học sinh bây giờ đều ham chơi, lười học, đặc biệt khi ôn tập, làm đề theo kiểu đổi mới là học sinh ngại tư duy, lười suy nghĩ vì thấy nó khó, từng vấn đề không hề dễ dàng theo kiểu những đề bài vô cùng cơ bản như từ trước đến nay mà các em vẫn hay làm như kiểu bài: “phân tích, cảm nhận” của em về một đoạn thơ hay một hình tượng, một nhân vật trong tác phẩm mà em đã được học, đọc thêm.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA TRƯỜNG THPT LÊ VĂN HƯU ---------- h ---------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CÁCH RA ĐỀ “MỞ” - MỘT HÌNH THỨC ĐỔI MỚI TRONG TÁC PHẨM CHÍ PHÈO CỦA NAM CAO Người thực hiện: Ngô Thi Bình Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: THPT Lê Văn Hưu SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ văn THANH HÓA, NĂM 2016MỤC LỤC Trang A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÝ DO CHỌN ĐÊ TÀI Hiện nay, việc định hướng khai thác một tác phẩm văn học mà để cho học sinh sau khi tìm hiểu, khám phá tác phẩm văn học ấy có thể hiểu được cặn kẽ các vấn đề đặt ra trong văn bản là một điều không hề đơn giản. Đặc biệt là việc giải quyết các đề thi theo hướng “mở” - một hình thức đổi mới giống mấy năm gần đây ở tất cả các kì thi từ cấp cơ sở đến cấp Bộ. Điều này đã và đang thu hút mọi đối tượng từ học sinh đến giáo viên và các cơ quan quản lý giáo dục đều rất quan tâm. Bởi chỉ có cách ra đề theo hướng đổi mới như vậy mới phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, tăng cường khả năng làm việc của học sinh, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào giải quyết các dạng đề cụ thể, tạo hứng thú cho người học. Cách ra đề “mở” - một hình thức theo hướng đổi mới nhằm giúp học sinh tích cực, hứng thú trong việc làm bài, bởi đề thi theo hướng này học sinh không phải học thuộc lòng, nhớ chi tiết, tỉ mỉ những cái mà thầy đã dạy trong văn bản. Tuy nhiên, người học cũng phải trên cơ sở của phần kiến thức cơ bản mà giáo viên đã hướng dẫn học sinh khai thác, tìm hiểu văn bản đó để lựa chọn lượng đơn vị kiến thức sao cho phù hợp với yêu cầu của đề bài ra. Có như vậy bài viết của học sinh mới trúng và đúng theo yêu cầu của đề, đồng thời cũng thuyết phục được người đọc, người nghe. Nhưng trong việc dạy học này của chúng ta cũng đang đứng trước bao thách thức, khó khăn bởi phần lớn học sinh bây giờ đều ham chơi, lười học, đặc biệt khi ôn tập, làm đề theo kiểu đổi mới là học sinh ngại tư duy, lười suy nghĩ vì thấy nó khó, từng vấn đề không hề dễ dàng theo kiểu những đề bài vô cùng cơ bản như từ trước đến nay mà các em vẫn hay làm như kiểu bài: “phân tích, cảm nhận” của em về một đoạn thơ hay một hình tượng, một nhân vật trong tác phẩm mà em đã được học, đọc thêm. Vậy vấn đề đặt ra là phải làm sao để định hướng cho học sinh trong quá trình ôn tập, làm đề phải dần dần làm quen với những kiểu đề, dạng đề ra theo hướng đổi mới như mấy năm gần đây để khi bước vào các kì thi các em không còn bỡ ngỡ với những kiểu đề, dạng đề như vậy? Đó là nỗi trăn trở không chỉ của người giáo viên trực tiếp đứng lớp mà đó là còn là điều băn khoăn của cả các đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo của nước ta. Để đáp ứng được nhu cầu giáo dục cho học sinh, Bộ giáo dục và đào tạo cũng đã chú trọng đến đổi mới để biên soạn những đề thi theo cấu trúc mới nhất. Là đặc trưng của một môn học mà hiện nay Bộ Giáo dục và đào tạo đang yêu cầu là một trong ba môn thi bắt buộc của kì thi THPT quốc gia, ý thức được tầm quan trọng của bộ môn luôn xuất hiện trong các kì thi và còn là bộ môn về khoa học xã hội và nhân văn, bên cạnh nhiệm vụ hình thành và phát triển ở học sinh các năng lực như: năng lực sử dụng Tiếng Việt, năng lực tiếp nhận văn bản văn học cũng như các loại văn bản khác, môn Ngữ văn còn giúp học sinh có năng lực ngôn ngữ để học tập, giao tiếp, nhận thức về xã hội và con người. Vì vậy người viết sáng kiến kinh nghiệm chỉ mong muốn qua đề tài nhỏ này để có thể giúp học sinh nắm vững hơn về kiến thức cơ bản, cũng như cách giải quyết thành thạo các dạng đề “mở” theo hướng đổi mới ở tất cả các tác phẩm văn học nói chung, tác phẩm Chí Phèo nói riêng; cũng như bản thân có thêm chút kinh nghiệm hơn về cách ôn tập, luyện các dạng đề “mở” cho học sinh theo hướng đổi mới theo cấu trúc đề thơ mới nhất của Bộ Giáo dục và đào tạo mấy năm trở lại đây. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU. Mục đích cuối cùng của tôi khi nghiên cứu đề tài này là thay đổi cách ra đề thi theo kiểu truyền thống bằng một hình thức ra đề theo hướng “mở”, từ đó cũng để thay đổi cách dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo phương pháp dạy học tích cực nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào những dạng đề cụ thể trong quá trình làm bài kiểm tra, bài thi. Đề ra theo hướng “mở” là một dạng theo cấu trúc đề thi mới nhất của Bộ Giáo dục và đào tạo nên bản thân, đồng nghiệp, nhà trường chưa có kinh nghiệm nhiều để giải quyết các dạng đề thi này. Vì vậy, tôi thấy việc mình lựa chọn đề tài này để viết sáng kiến kinh nghiệm là cần thiết. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU. Với đề tài này người viết chỉ nghiên cứu trong phạm vi hẹp: cách ra đề “mở” theo cấu cấu trúc đề thi mới nhất của Bộ Giáo dục và đào tạo chỉ trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao. Nếu đề tài này được áp dụng sẽ giúp học sinh vận dụng một cách linh hoạt, chủ động, sáng tạo kiến thức đọc văn trong khi giải quyết các đề thi theo hưởng “mở” trong các tác phẩm văn học nói chung, tác phẩm Chí Phèo nói riêng. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.Tìm hiểu về cách ra đề mở theo cấu trúc đề thi mới nhất của Bộ giáo dục và đào tạo: về khái niệm, mục tiêu, yêu cầu và nội dung. 2. Tìm hiểu về định hướng khai thác tác phẩm và cách ra đề “mở” theo cấu cấu trúc đề thi mới nhất của Bộ Giáo dục và đào tạo chỉ trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao. 3. Kiểm chứng qua thực tiễn dạy học. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁCH RA ĐỀ “MỞ”-MỘT HÌNH THỨC ĐỔI MỚI THEO CẤU TRÚC ĐỀ THI CỦA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO. I. Quan niệm về đề thi theo hướng “mở”: Đề kiểm tra, đề thi theo hướng “mở” là đề văn không giới hạn bài làm trong một lối mòn tư duy và những khuân mẫu chung về hình thức nhưng vẫn gợi mở giúp học sinh có định hướng về cách viết. Đề văn “mở” giảm thiểu tối đa tính hạn định, tạo khả năng cho học sinh tự lựa chọn vấn đề và cách giải quyết vấn đề. Đề “mở” yêu cầu cao ở học sinh sự sáng tạo, linh hoạt, những suy nghĩ, cảm thụ độc lập, khó có thể lệ thuộc vào tài liệu tham khảo. Đề “mở” không những kích thích khả năng tư duy sáng tạo cho học sinh mà còn có thể phân loại được học sinh. II. Mục tiêu của việc ra đề theo hướng “mở” Đổi mới cách ra đề thi theo hướng “mở” là một trong những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn ở trường phổ thông, tạo điều kiện cho học sinh phát huy tính độc lập suy nghĩ và chủ động sáng tạo khi làm bài; đồng thời đề thi ra theo hướng “mở” cũng giúp thầy cô phân loại được năng lực học sinh để từ đó giáo viên có phương pháp phụ đạo, bồi dưỡng cho từng đối tượng học sinh phù hợp. III. Nội dung của những dạng đề theo hướng “mở”: Đề “mở” về nội dung nghị luận: là một dạng đề hoặc chỉ mang tính gợi dẫn, khái quát hoặc nêu ra nhiều vấn đề nghị luận để học sinh lựa chọn và bày tỏ quan điểm mà không đòi hỏi thao tác nghị luận cụ thể. Câu lệnh trong đề thường có các yêu cầu: so sánh, lựa chọn, trình bày suy nghĩ Dạng đề này không chỉ giúp giáo viên đánh giá được hiểu biết xã hội, kiến thức văn học, năng lực đọc - hiểu văn bản mà còn đánh giá được tư duy sáng tạo, kĩ năng tạo lập văn bản và khả năng lập luận của học sinh. Đề “mở” về hình thức, về yêu cầu thao tác nghị luận: là chỉ nêu vấn đề cần bàn luận học chỉ nêu đề tài. Tùy thuộc vào nội dung vấn đề, đề tài được nêu ra trong đề bài mà người lựa chọn và quyết định sử dụng các thao tác nghị luận phù hợp. Trong kiểu đề thi này, những câu lệnh: hãy phân tích, bình giảng có tính chất đóng được thay bằng “cảm nhận, suy nghĩ ”. Dạng đề này góp phần hình thành và phát triển năng lực thích ứng, sáng tạo, năng lực tư duy cho học sinh trước một tác phẩm văn học, một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học, một hiện tượng đời sống hoặc một vấn đề tư tưởng, đạo lí cho trước. Đề “mở” về cách tiếp cận: là dạng đề không bị giới hạn bởi những yêu cầu bắt buộc về thao tác nghị luận cũng như phạm vi nội dung của vấn đề nghị luận. Dạng đề này đòi hỏi người viết phải chủ động trong nhận thức nội dung đề cũng như nhận thức về thao tác nghị luận sẽ được sử dụng khi làm bài. Với những đề kiểm tra, đề thi theo hướng “mở”, giáo viên không chỉ tạo điều kiện cho học sinh phát huy những năng lực chuyên biệt, đặc thù như cảm thụ, phân tích, lí giải và đánh giá các hiện tượng văn học; rèn luyện cho học sinh cách thức và quy trình tạo lập văn bản, những kĩ năng cơ bản, cần thiết để viết một bài văn mà còn phát triển được năng lực tư duy và năng lực sáng tạo cho người học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học Văn và hiện thực hóa mục tiêu giáo dục, đào tạo ở nhà trường phổ thông. IV. Thực trạng và nhu cầu đổi mới cách ra đề thi môn Ngữ văn 1. Thực trạng đề thi môn Ngữ văn hiện nay Hiện nay, trong cấu trúc đề thi THPT quốc gia đã có sự hợp lí vì bên cạnh đề văn nghị luận văn học đã có đề văn nghị luận xã hội. Ra đề văn nghị luận xã hội là một hình thức rèn luyện tốt khả năng độc lập suy nghĩ của học sinh trước một vấn đề của xã hội, của cuộc sống; một hình thức giáo dục tư tưởng, tình cảm trực tiếp khá hữu hiệu; cũng là một hình thức để chống sao chép và chống học thuộc văn mẫu vẫn diễn ra khá phổ biến ở học sinh phổ thông. Khách quan mà nói, đề thi quốc gia những năm gần đây cơ bản vẫn theo kiểu đề truyền thống. Đề văn truyền thống thường đảm bảo ba tiêu chí: có yêu cầu về nội dung nghị luận, có giới hạn phạm vi kiến thức văn học, nhận thức về đời sống xã hội; có định hướng kiểu bài và thao tác lập luận; có giới hạn về phạm vi tư liệu cần có trong bài làm. Loại đề này còn có thể gọi một cách khác là đề “đóng”, "đề khép kín" (chữ dùng của PGS.TS Đỗ Ngọc Thống). Đề truyền thống có những ưu điểm như: chú trọng kiểm tra vốn văn học, tình cảm, đạo đức và nhận thức về đời sống xã hội của học sinh. Đề văn truyền thống còn góp phần khơi gợi sự hứng thú học tập bộ môn ngữ văn, tình yêu tiếng Việt cũng như bồi dưỡng năng khiếu cho những học sinh giỏi văn. Tuy nhiên, đề truyền thống vẫn bộc lộ những hạn chế. Cụ thể là: Đề truyền thống thường nêu yêu cầu về "kiểu bài" với mệnh lệnh: hãy giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận... để dẫn đến sự ngộ nhận trong mỗi bài văn nghị luận chỉ dùng một vài thao tác lập luận nhất định. Điều đó thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn. Bởi trên thực tế không bài văn nào chỉ dùng riêng lẻ một thao tác lập luận. Bất kì bài văn hay nào cũng là sự vận dụng tổng hợp nhiều thao tác, dĩ nhiên bao giờ cũng có một thao tác chính đóng vai trò chủ đạo, các thao tác khác chỉ là hỗ trợ và phục vụ cho thao tác chính. GS Phan Trọng Luận đã đánh giá: "Cái dở nhất của đề thi văn hiện nay là chủ yếu nhắm đến khâu tái hiện kiến thức theo kiểu "nhớ lại" chứ không chú ý đến vận dụng kiến thức của học sinh", "quanh đi quẩn lại cũng chỉ có mấy kiểu đề với mấy chủ điểm quen thuộc: không bình giảng thì phân tích, không phân tích thì chứng minh, không chứng minh thì cao hơn là bình luận. Trở đi trở lại cũng chỉ có mấy bài thơ, mấy đoạn trích quen thuộc" (Dẫn theo Tuổi trẻ Online). Do đã quá quen thuộc, không đổi mới nội dung và phương pháp ra đề nên đề văn truyền thống không tạo điều kiện cho học sinh phát huy tính độc lập suy nghĩ, chủ động sáng tạo khi làm bài, không phân loại được năng lực học sinh mà chỉ dừng lại ở những nội dung kiểm tra học sinh về kiến thức. Đề văn truyền thống còn tạo ra hệ lụy bài mẫu tràn ngập ở sách tham khảo, trên mạng internet, trong tài liệu ôn tập của thầy cô nên học sinh đã hình thành một phương pháp học tập không đúng: học và ôn tập không xuất phát từ tác phẩm văn học, từ Sách Giáo khoa mà từ bài mẫu. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế này, một phần do bởi chương trình Sách Giáo khoa (học như thế nào thì thường ra đề kiểu ấy); tuy nhiên phần nhiều lại thuộc về người ra đề và cách tổ chức ra đề (để đảm bảo không vi phạm Chuẩn kiến thức kỹ năng, người ta thường ra đề một cách cứng nhắc theo cấu trúc đề thi quy định sẵn...). 2. Nhu cầu đổi mới cách ra đề thi môn Ngữ văn Cách ra đề văn theo kiểu truyền thống về cơ bản là đơn điệu, nhàm chán, thiếu những yêu cầu sáng tạo. Chính điều đó dẫn tới việc dư luận trong xã hội vẫn không đồng tình với kiểu ra đề truyền thống như lâu nay đã ra. Nhiều ý kiến lên tiếng và được đăng tải trên báo chí. Giáo sư Hoàng Như Mai có nhận xét: "Cách ra đề các kỳ thi văn của chúng ta hiện nay còn khá thô cứng, những nhân vật và vấn đề cũng như yêu cầu đặt ra trong đề thi thường trùng lặp nhau khá nhiều. Một mảnh đất dù tốt đến đâu cày xới mãi rồi cũng khô cằn. Cứ một vấn đề, một tác giả mà trở đi trở lại mãi nhưng không đổi mới cách tiếp cận thì làm sao mà mang đến cho người đọc sự rung cảm mới mẻ, tinh tế được. Ra đề thi phải khơi dậy những suy nghĩ riêng, đồng thời phải rèn luyện cho học sinh óc phê phán, nhìn vấn đề trên nhiều mặt. Cần tránh kiểu ra đề "suôn sẻ", dạng "thỏa hiệp" một chiều" (Sự rung cảm và sáng tạo của học sinh có nguy cơ mòn, Tạp chí Dạy và học ngày nay, số 6- 2005). Trước phản ứng của dư luận, của chính cả người học, một yêu cầu cấp thiết được đặt ra đó là phải đổi mới cách ra đề văn. Việc đổi mới ra đề thi văn đã được thực hiện, bắt đầu từ Sách Giáo khoa cấp THCS. Tuy nhiên trong thực tế, rất nhiều đề văn trong Sách Giáo khoa Ngữ văn hiện hành vẫn ghi: hãy phân tích, hãy bình luận, hãy giải thích, hãy so sánh... Nghĩa là vẫn chưa thoát khỏi dạng đề truyền thống. Học sinh vẫn phải viết văn theo yêu cầu có sẵn. Tất yếu sự sáng tạo của học sinh sẽ bị hạn chế. Vì những lẽ đó, vấn đề đặt ra là phải đổi mới cách ra đề văn, nhất là đề văn theo hướng mở. CHƯƠNG II: ĐỀ “MỞ”- MỘT HÌNH THỨC RÈN LUYỆN NĂNG LỰC CHỦ ĐỘNG, SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH TRONG KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ MÔN NGỮ VĂN I. Những ưu điểm và hạn chế của đề văn “mở” 1. Ưu điểm So với đề văn truyền thống, đề văn “mở” có nhiều ưu điểm nổi trội. Tránh sự nhàm chán, lặp lại trong khi ra đề thi. Đối với học sinh, đề “mở” mang tính gợi mở, nó kích thích được khả năng tư duy, phát triển trí thông minh. Học sinh tha hồ, thỏa chí phát huy năng lực sáng tạo của mình. Trước đây, vì ra đề theo kiểu truyền thống buộc giáo viên chỉ ra trong phạm vi những gì đã dạy, đã học, nghĩa là trong phạm vi chương trình, không vi phạm vào "Chuẩn kiến thức kĩ năng"; giáo viên nào không tuân thủ những yêu cầu trên sẽ bị khiển trách, phê bình. Để làm được bài, học sinh phải nhớ kiến thức. Không ít học sinh học thuộc lòng cả bài thầy cô giảng, nếu không thuộc thì quay cóp tài liệu. Ra đề văn theo hướng “mở” (mở về kiến thức, mở về kỹ năng, về phương pháp làm bài. Tuy “mở” nhưng vẫn không thoát ly nội dung chương trình và Chuẩn kiến thức kỹ năng) học sinh sẽ không phải tốn nhiều thời gian cho việc học thuộc lòng, không phải mất công mất sức ngồi "nhai lại" khối lượng kiến thức khổng lồ đã học. Học sinh cũng không phải mua nhiều tài liệu, nhất là các bài văn mẫu. Vì vậy, ra đề “mở” sẽ là một hình thức hạn chế vấn nạn văn mẫu bán tràn lan trên thị trường. Việc ra đề “mở” còn có khả năng phân hóa được trình độ của học sinh trong kiểm tra (vì người viết khó mà chép được "văn mẫu", phải tự mình suy nghĩ và viết ra ý nghĩ của mình), nhờ đó mà đánh giá được năng lực của học sinh chính xác hơn. 2. Hạn chế Đối với học sinh: Cái khó đầu tiên là khó trong khâu ôn bài. Đề “mở” thường không có đề cương ôn tập, câu hỏi ôn tập chung mà phải ôn hết những gì đã học. Người học khó hình dung được đề ra ở mảng nào, phần nào. Thứ hai, loại đề này sẽ khó đối với học sinh có học lực trung bình, bởi vì đề “mở” yêu cầu ở học sinh khả năng tư duy cao, biết lựa chọn nội dung viết sao cho phù hợp yêu cầu đề, biết bàn bạc và mở rộng vấn đề... Những học sinh có lực học trung bình khó thực hiện được những yêu cầu đó. Đối với giáo viên: Khó làm đáp án cho rõ ràng rành mạch. Đáp án cho loại đề này cũng phải là "đáp án mở", tức là không nên bó chặt người viết vào một số ý nào có sẵn, cho trước, đáp án biểu điểm phải khái quát, tránh sa vào những chi tiết cụ thể, tỉ mỉ, đáp án chỉ nên định hướng về cách giải quyết. Còn nội dung cụ thể thì học sinh tự xác định, tự bộc lộ và trình bày. Giáo viên phải căn cứ vào nội dung và hình thức trình bày mà cho điểm, chất lượng của bài viết không thể lấy dài ngắn mà đo. Bài làm của học sinh sẽ có nhiều phát hiện bất ngờ và độc đáo, giáo viên phải lường trước được những khả năng học sinh sẽ viết trong bài làm để chủ động xử lí và cho điểm, tránh đánh giá cực đoan (chẳng hạn, học sinh không làm theo đúng suy nghĩ mà giáo viên đã chuẩn bị trong đáp án thì không cho điểm), đồng thời cũng tránh bỏ sót ý học sinh đã sáng tạo. Với kiểu đề “mở”, giáo viên chấm bài phải rất "vững tay". Khi chấm bài theo đề truyền thống, giáo viên chỉ cần đọc qua là biết ngay học sinh làm như thế nào, đủ ý hay thiếu ý, từ đó mà "định lượng" điểm. Chấm bài đề văn “mở”, giáo viên phải chấp nhận các em có quyền phát biểu quan điểm, suy nghĩ riêng. Chấm bài với giáo viên không chỉ là đánh giá, đọc văn của học sinh và lời nhận xét trong bài làm của học sinh, đối với giáo viên phải giống như lời trò chuyện, trao đổi và tranh luận để cho học sinh hiểu, do vậy giáo viên phải chọn giải pháp nào là tốt nhất có thể, chứ không thể chấm theo lối áp đặt chủ quan được. II. MỘT SỐ VÍ DỤ VỀ ĐỀ VĂN “MỞ” 1. Đề nghị luận văn học: Đề 1: Hình tượng bóng tối và ánh sáng trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Đề 2: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Liên trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. 2. Đề nghị luận xã hội Đề 1: Trong bức thư của một du học sinh Nhật bàn về văn hóa Việt Nam có đoạn: Thật đáng tự hào vì Việt Nam có 4000 năm văn hiến. Thật xấu hổ nếu 4000 năm văn hiến chỉ là một chương trong sách lịc sử chứ không được thể hiện trong cách hành xử đời thường. Là một người Việt trẻ tuổi, anh/chị suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên? Đề 2: Anh/chị có suy nghĩ gì về ý kiến sau: Người đầu bếp, người quét rác, cũng như thầy giáo, kĩ sư, nếu làm tròn trách nhiệm thì đều vẻ vang như nhau (Chủ tịch Hồ Chí Minh) Hãy trình bày suy nghĩ của anh/chị bằng một bài văn không quá 600 chữ III. CÁCH LÀM ĐỀ VĂN “MỞ” Cũng như các đề làm văn khác, đề mở cũng phải đảm bảo những yêu cầu cần thiết người viết phải quan tâm. Nhưng khác với các dạng đề văn thông thường, trong đề đã bao hàm cả yêu cầu về nội dung và kiểu bài, thao tác nghị luận, đề mở vì tính chất mở nên người làm văn phải tự tìm hiểu. Tuy vậy, dù muốn hay không người ra đề cũng như người viết bài cũng phải nêu được cách hiểu và những ý cơ bản cần phải đạt được trong bài viết. Tức là phải hình thành được hệ thống ý đáp ứng được yêu cầu của đề. Sau đây là một số gợi ý về cách làm đề văn mở. 1. Xác định yêu cầu của đề Vì đặc điểm của đề mở thường chỉ có chỉ dẫn về nội dung nghị, không có chỉ dẫn về kiểu bài và thao tác lập luận, vì vậy người làm văn trước hết phải tiên liệu cho mình các thao tác cần nghị luận. Cần xác định trong bài văn đó sử dụng thao tác nào là chính, thao tác nào là phụ. 2. Tìm ý Phải nhấn mạnh ý ở đây là ý của đề bài đặt ra chứ không phải ý của đối tượng nghị luận. Tất nhiên, có khi ý của đề bài trùng với ý của tác phẩm được đưa ra để nghị luận, đó là khi đề hướng tới việc cảm nhận về một tác phẩm độc lập, cụ thể nào đó. Để tìm được ý cho một đề văn, một trong những cách tương đối có hiệu quả là người viết biết đặt ra các câu hỏi và tìm cách trả lời các câu hỏi đó. Việc đặt ra các câu hỏi thực chất là biết soi sáng đối tượng dưới nhiều góc độ, biết lật đi lật lại vấn đề dễ tìm hiểu, xem xét kĩ càng, thấu đáo hơn. Lưu ý: Trong mỗi câu hỏi lớn có thể đặt tiếp các câu hỏi nhỏ để triển khai các ý lớn. 3. Lập dàn ý 3.1 Giới thuyết Khi đã có ý rồi, người viết cần biết tổ chức, sắp xếp các ý ấy thành một hệ thống nhằm làm nổi bật đối tượng, vấn đề. Công việc này gọi là lập dàn ý, hoặc xây dựng bố cục, kết cấu cho bài viết. 3.2. Các phần trong dàn ý Thông thường, bài văn có ba phần, mỗi phần có một nhiệm vụ cụ thể. - Mở bài: Giới thiệu đối tượng hoặc vấn đề trọng tâm cần làm rõ. - Thân bài: Triển khai, cụ thể hóa đối tượng và vấn đề trọng tâm đã nêu ở mở bài bằng hệ thống ý được sắp xếp một cách hợp lí. - Kết bài: Chốt lại vấn đề, nêu suy nghĩ, bài học cho bản thân. 3.3. Quy tắc sắp xếp ý trong dàn ý Tùy vào vấn đề, đối tượng cần thuyết phục và cách lập luận mà người viết có thể sắp xếp theo những dàn ý khác nhau. Việc sắp xếp ý cần linh ho
Tài liệu đính kèm:
- skkn_cach_ra_de_mo_mot_hinh_thuc_doi_moi_trong_tac_pham_chi.doc