SKKN Biện pháp thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục nhằm tăng cường cơ sở vật chất trong trường mầm non Xuân Thọ
Sinh thời Hồ Chủ Tịch đã dạy: "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Thực hiện lời dạy của Bác, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến sự nghiệp phát triển giáo dục. Người đã từng dạy: “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ” . Người cũng đã chỉ rõ: “Trường học phải liện hệ phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, xã hội, các đoàn thể thanh niên, phụ nữ. Các cơ quan chính quyền và các cấp uỷ đảng phải thật sự quan tâm đến nhà trường, đến việc học tập của con em mình hơn nữa”[1].
Trong phương hướng nhiệm vụ cơ bản phát triển giáo dục vào những năm đầu của thế kỷ XXI, và Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về "Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" cũng như chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2010 – 2020 đều nêu rõ: “Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện cho mọi người, mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học tập thường xuyên, học tập suốt đời. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục. Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục”[2]. Phát triển giáo dục luôn đi liền với quá trình xã hội hoá giáo dục được coi như là một biện pháp hữu hiệu, là tư tưởng lớn, đồng thời là con đường để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục và đào tạo nói chung và giáo dục Mầm non nói riêng. Đối với giáo dục mầm non, xã hội hoá là nhu cầu, là quy luật tồn tại và phát triển của bậc học. Nói như vậy nhưng những năm trước đây ngành học mầm non chưa thực sự được quan tâm sâu sắc của các cấp lãnh đạo như những cấp học khác nhất là đối với những vùng miềm khó khăn. Ngày nay công tác giáo dục được coi trọng và đặc biệt là ngành học mầm non từng bước được quan tâm hơn sự quan tâm đó là những chủ trương, chính sách về giáo dục mầm non. Để cho ngành học mầm non được coi là quốc sách hàng đầu đòi hỏi các cấp, các ngành ,các đoàn thể xã hội chung tay xây dựng và công tác xã hội hóa giáo dục đã trở thành một nội dung quan trọng của giáo dục. Đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục là một biện pháp hữu hiệu để thực hiện mục tiêu quản lý giáo dục, đem lại nguồn sức mạnh tổng hợp giúp cho nhà trường đào tạo cho xã hội nguồn nhân lực phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ, lao động, làm nên sức mạnh nội sinh của dân tộc góp phần hiện đại hoá giáo dục, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GD&ĐT NHƯ THANH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM BIỆN PHÁP THỰC HIỆN CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC NHẰM TĂNG CƯỜNG CƠ SỞ VẬT CHẤT TRONG TRƯỜNG MẦM NON XUÂN THỌ. Người thực hiện: Nguyễn Thị Oanh Chức vụ: Hiệu trưởng Đơn vị công tác: Trường MN Xuân Thọ SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lý THANH HÓA NĂM 2018 MỤC LỤC MỤC LỤC: .......................................................................................... 01 1.MỞ ĐẦU: ......................................................................................... 02 1.1. Lý do chọn đề tài: ......................................................................... 02 1.2. Mục đích nghiên cứu: ... 02 1.3. Đối tượng nghiên cứu: . 03 1.4. Phương pháp nghiên cứu: 03 1.5. Những điểm mới của sáng kiến. 03 2. NỘI DUNG:.. 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm: 04 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: . 05 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề: 07 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường: .. 18 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ: .. 20 3.1. Kết luận:. 20 3.2. Kiến nghị: 20 TÀI LIỆU THAM KHẢO:... 22 Danh mục các đề tài SKKN đã đạt .... 23 1. MỞ ĐẦU. 1.1. Lí do chọn đề tài: Sinh thời Hồ Chủ Tịch đã dạy: "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Thực hiện lời dạy của Bác, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến sự nghiệp phát triển giáo dục. Người đã từng dạy: “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ” . Người cũng đã chỉ rõ: “Trường học phải liện hệ phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, xã hội, các đoàn thể thanh niên, phụ nữ. Các cơ quan chính quyền và các cấp uỷ đảng phải thật sự quan tâm đến nhà trường, đến việc học tập của con em mình hơn nữa”[1]. Trong phương hướng nhiệm vụ cơ bản phát triển giáo dục vào những năm đầu của thế kỷ XXI, và Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về "Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" cũng như chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2010 – 2020 đều nêu rõ: “Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện cho mọi người, mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học tập thường xuyên, học tập suốt đời. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục. Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục”[2]. Phát triển giáo dục luôn đi liền với quá trình xã hội hoá giáo dục được coi như là một biện pháp hữu hiệu, là tư tưởng lớn, đồng thời là con đường để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục và đào tạo nói chung và giáo dục Mầm non nói riêng. Đối với giáo dục mầm non, xã hội hoá là nhu cầu, là quy luật tồn tại và phát triển của bậc học. Nói như vậy nhưng những năm trước đây ngành học mầm non chưa thực sự được quan tâm sâu sắc của các cấp lãnh đạo như những cấp học khác nhất là đối với những vùng miềm khó khăn. Ngày nay công tác giáo dục được coi trọng và đặc biệt là ngành học mầm non từng bước được quan tâm hơn sự quan tâm đó là những chủ trương, chính sách về giáo dục mầm non. Để cho ngành học mầm non được coi là quốc sách hàng đầu đòi hỏi các cấp, các ngành ,các đoàn thể xã hội chung tay xây dựng và công tác xã hội hóa giáo dục đã trở thành một nội dung quan trọng của giáo dục. Đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục là một biện pháp hữu hiệu để thực hiện mục tiêu quản lý giáo dục, đem lại nguồn sức mạnh tổng hợp giúp cho nhà trường đào tạo cho xã hội nguồn nhân lực phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ, lao động, làm nên sức mạnh nội sinh của dân tộc góp phần hiện đại hoá giáo dục, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu cuối cùng của quá trình xã hội hoá sự nghiệp giáo dục là nâng cao chất lượng cuộc sống tinh thần và vật chất của con người mới XHCN. Song hiện nay, xã hội hoá giáo dục trên thực tế chưa phát huy được thế mạnh của nó, bởi vì trong xã hội còn tồn tại nhiều nhận thức chưa thật tinh tế, toàn diện. Chính vì vậy, việc tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhằm tăng cường thực hiện xã hội hoá giáo dục nhằm phát huy tài lực, trí lực, vật lực đóng góp cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ trong trường Mầm Non Xuân thọ mang tầm chiến lược lớn trong giai đoạn. Vì thế là một cán bộ quản lí trong trường mầm non, để thế hệ tương lai của đất nước phát triển kịp với xu thế thời đại, hàng năm tôi đều xây dựng kế hoạch phối hợp với phụ huynh các ban ngành đoàn thể trong việc xã hội hóa giáo dục giúp nhà trường tăng cường cơ sở vật chất, đáp ứng nhu cầu chăm sóc giáo dục trẻ trong nhà trường. Để góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác xã hội hóa giáo dục tại đơn vị tôi đang công tác, bản thân xin lựa chọn sáng kiến “Biện pháp thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục nhằm tăng cường cơ sở vật chất trong trường Mầm non Xuân Thọ” làm đề tài nghiên cứu. 1.2. Mục đích nghiên cứu: - Giúp giáo viên trong trường, gia đình của trẻ, chính quyền địa phương và các tổ chức đoàn thể thấy rõ được tầm quan trọng của việc thực hiện công tác xã hội hóa giáo duc. - Tìm ra một số biện pháp tích cực để thực hiện phối kết hợp giữa nhà trường và xã hội để con em mình được chăm sóc giáo dục một cách tốt nhất. - Tạo tiền đề cho trẻ phát triển đầy đủ về Đức – Trí – Thể - Mỹ. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: - Biện pháp thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục nhằm tăng cường cơ sở vật chất trong trường Mầm non Xuân Thọ, giúp trẻ phát triển và hoàn thiện toàn diện nhất về nhân cách con người mới XHCN. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện đề tài của mình, bản thân tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - PP nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Tài liệu, nghị quyết, chỉ thị, công văn sách báo, mạng internet, có liên quan đến công tác XHHGD. - PP điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Nắm bắtt điều kiện thực tế của địa phương, nhà trường, nhóm lớp, cán bộ giáo viên, tổng số học sinh. - PP thống kê, xử lý số liệu: Thống kê số liệu cơ sở vật chất đã đạt được trong các năm học. 1.5. Những điểm mới của sáng kiến. Phối kêt hợp xây dựng môi trường giáo dục theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm đòi hỏi những yêu cầu cơ bản: Môi trường giáo dục mà trẻ được tham gia xây dựng cùng giáo viên, có học liệu đa dạng hấp dẫn, khuyến khích trẻ có thể sử dụng theo nhiều cách sáng tạo khác nhau, các góc học tập trong và ngoài lớp đa dạng, phong phú, đồng thời các nguyên vật liệu sẵn có của địa phương được tận dụng hợp, tạo nhiều cơ hội cho trẻ lựa chọn học liệu và hoạt động , giáo viên trò chuyện, chơi với trẻ, kích thích trẻ tư duy, đặc biệt trẻ có thể chủ động tích cực: vui chơi, tìm tòi khám phá, trải nghiệm, thực hành, sáng tạo, hợp tác, trò chuyện và chia sẻ ý tưởng. Xây dựng giải pháp huy động sức mạnh của các lực lượng chính trị - xã hội tham gia công tác xã hội hoá giáo dục, vì xã hội hoá giáo dục là huy động và tổ chức các lực lượng chính trị - xã hội cùng tham gia vào quá trình giáo dục tạo ra “ Xã hội học tập”. Xây dựng giải pháp bảo quản sử dụng trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi, chỉ đạo nâng cao ý thức trong công tác sử dụng và bảo quản đồ dùng đồ chơi, trang thiết bị dạy và học có kế hoạch kiểm tra, theo dõi việc sử dụng bảo quản đồ dùng đồ chơi của giáo viên trong ngoài trên các nhốm lớp. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm: Như chúng ta đã biết chăm sóc giáo dục trẻ tốt phải đi đôi với việc chăm sóc nuôi dưỡng đúng cách thì trẻ mới được phát triển một cách toàn diện, vai trò của giáo viên là khai thác các tình huống và các vật liệu trong môi trường giáo dục để khuyến khích trẻ hoạt động, giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên về nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1, hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lý, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi. Khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền móng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời. Giáo dục mầm non phải đảm bảo tính khoa học, tính vừa sức, tính liên thông giữa các độ tuổi, thống nhất giữa nội dung giáo dục với cuộc sống hiện thực, chuẩn bị cho trẻ từng bước hòa nhập vào cuộc sống. Các hoạt động giáo dục của trường mầm non gồm, các hoạt động được tổ chức có chủ định theo kế hoạch dưới sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên. Học tập ở lứa tuổi mầm non được tổ chức dưới hình thức học mà chơi, chơi mà học, thông qua các hoạt động vui chơi, trò chơi mà học tập. Mà hoạt động chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ ở lứa tuổi mầm non, các cháu cần có những đồ chơi, đồ dùng học tập để được trải nghiệm, thực hành. Có đồ để chơi mới tự mình thể hiện khả năng và phát triển tư duy, qua các hoạt động vui chơi, các trò chơi ở lớp cùng với bạn bè. Với những đặc điểm như trên, việc tạo môi trường vật chất đầy đủ và khang trang cho trẻ hoạt động là điều rất cần thiết nhằm giúp cho trẻ được chăm sóc, học tập, vui chơi, sinh hoạt trong một không khí trong lành, trường lớp sạch đẹp để trẻ cảm thấy mỗi ngày đến trường là một ngày vui từ đó giúp trẻ phát triển toàn diện trong giai đoạn đầu đời – Đây là nơi khởi điểm rất quan trọng và cần thiết cho trẻ. “Xã hội hoá giáo dục nhằm mục tiêu "giáo dục cho mọi người". Quy luật là muốn thực hiện "giáo dục cho mọi người" thì mọi người phải làm giáo dục. Xã hội hoá giáo dục và dân chủ hoá giáo dục là hai khái niệm gắn bó chặt chẽ với nhau. Dân chủ hoá giáo dục là nội dung lớn của thời đại, nhiều nước trên thế giới đang thực hiện một nền giáo dục dân chủ. Ở nước ta, chúng ta đã và đang thực hiện dân chủ hoá nhà trường, dân chủ hoá quá trình quản lý giáo dục...”[3]. Xã hội hoá giáo dục tạo tiền đề để mọi người trong xã hội tham gia quản lý, xây dựng nhà trường; thể hiện tình cảm, trách nhiệm của nhân dân đối với thế hệ trẻ. Vì vậy công tác xã hội hoá giáo dục không chỉ đơn thuần về mặt huy động tài chính, huy động cơ sở vật chất mà huy động mọi nguồn lực của các cấp các ngành địa phương. Với vai trò của người Hiệu trưởng, tôi xác định ngoài việc thúc đẩy mọi hoạt động của nhà trường, việc quan tâm đến chất lượng giáo dục thì việc xây dựng cơ sở vật chất nhà trường ngày một khang trang, đầy đủ là hết sức quan trọng, góp phần hoàn thành nhiệm vụ từng năm học. Để thực hiện nhiệm vụ này, tôi đã tìm hiểu thực trạng của công tác xã hội hóa giáo dục ở địa phương, rút ra nguyên nhân của những tồn tại cũng như những ưu điểm trong công tác kêu gọi các lực lượng trong và ngoài nhà trường đóng góp xây dựng cơ sở vật chất nhà trường nói chung và lộ trình xây dựng trường đạt chuẩn Quốc gia nói riêng. Có thể nói, xã hội hóa giáo dục là hình thức tổ chức phát triển phù hợp và có hiệu quả nhất trong việc huy động cơ sở vật chất cho trường học dặc biệt là trường mầm non.Vì vậy mỗi gia đình trẻ, mỗi tổ chức xã hội là những mắt xích quan trọng để tạo nên một môi trường giáo dục an toàn đầy đủ giúp trẻ phát triển toàn diện hơn trong xã hội. Xã hội hoá giáo dục còn là quá trình nâng cao vai trò định hướng, chỉ đạo, quản lí và đầu tư ngày càng tăng của Nhà nước, sự tham gia đóng góp của nhân dân, của toàn xã hội cho phát triển sự nghiệp Giáo dục & Đào tạo, để huy động sự đóng góp về trí lực, nhân lực, vật lực, tài lực cho Giáo dục & Đào tạo. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. * Thực trạng. Trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xã hội hoá giáo dục mầm non là một trong những nhân tố hàng đầu để nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ, đáp ứng yêu cầu huy động tối đa trẻ em đến trường, phục vụ mục tiêu hình thành nhân cách trẻ em, tạo tiền đề để thực hiện phổ cập và nâng cao chất lượng giáo dục. Công tác xã hội hoá giáo dục mầm non đã và đang phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu với nhiều hình thức phong phú và đa dạng, Thực tiễn giáo dục mầm non trong những năm qua cho phép khẳng định đây là bậc học được xã hội hoá cao hơn các ngành học khác trong hệ thống giáo dục quốc dân, thể hiện sinh động nguyên tắc: Nhà nước, xã hội và nhân dân cùng làm. Để thực hiện kế hoạch xây dựng trường mầm non Xuân Thọ đạt chuẩn Quốc Gia vào năm 2020, bên cạnh đầu tư cơ sở vật chất của cấp trên thì việc huy động sự ủng hộ công tác xã hội hoá của các lực lượng xã hội trong đó có phụ huynh là rất quan trọng và cần thiết. Xã hội hóa giáo dục không chỉ là những đóng góp vật chất mà còn là những ý kiến đóng góp của người dân cho quá trình đổi mới giáo dục. Là một hiệu trưởng trường mầm non vùng miền núi của một xã khó khăn trong huyện, bản thân nhận thức sâu sắc về vấn đề này, và hiệu quả đạt được trong công tác giáo dục sau các năm nhà trường thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục để hoàn thành nhiệm vụ của từng năm học, những gì được, những gì chưa được, hay được nhưng thể hiện chưa rõ nét, bản thân tôi luôn đánh giá và cảm nhận được. Trước những trăn trở và nhận thức của bản thân về công tác xã hội hóa giáo dục, cùng với thực trạng trong nhà trường và thực trạng ở địa bàn xã Xuân Thọ người dân chủ yếu sống bằng nghề lâm nghiệp, nông nghiệp đời sống kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, người dân chưa thực sự quan tâm đến công tác chăm sóc giáo dục cho con em mình. Với đặc điểm tình hình như vậy khi thực hiện đề tài này tôi thấy còn có một số yếu tố thuận lợi và yếu tố khó khăn sau. 2.2.1. Thuận lợi: Trường Mầm non Xuân Thọ có 2 điểm trường 1 khu trung tâm và 1 khu lẻ. Trường có 9 nhóm lớp với số cháu là 202 cháu. Tổng số cán bộ giáo viên - nhân viên là 22 đồng chí. Được sự chỉ đạo sát sao của Phòng GD&ĐT Như Thanh, cũng như sự quan tâm của các cấp, các ngành lãnh đạo địa phương xã Xuân Thọ. Sự hỗ trợ giúp đỡ các ban ngành, đoàn thể trong xã, các bậc phụ huynh và nhân dân với công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Đặc biệt những năm gần đây Chất lượng nuôi dưỡng, giáo dục, chăm sóc trẻ trong trường đã tạo được lòng tin trong phụ huynh. Bên cạnh đó nhà trường có một đội ngũ giáo viên tương đối đồng đều về chuyên môn nghiệp vụ. Trong đó đạt trình độ trên chuẩn là 96%, đạt trình độ chuẩn là 4%. Đội ngũ cán bộ giáo viên luôn nhiệt tình, tâm huyết với nghề, tận tụy với công việc, nhiệt tình chăm sóc trẻ không ngại khó, ngại khổ; giàu lòng thương yêu các cháu. Thực hiện nghiêm túc quy chế chuyên môn, tích cực rèn luyện cho trẻ có nền nếp học tập, sinh hoạt tốt. BGH là những người tâm huyết, mọi hành động việc làm đều hướng vào quyền lợi của trẻ, khuyến khích động viên kịp thời cán bộ giáo viên, tập trung vào sự tiến bộ thay đổi của nhà trường. 2.2.2. Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi nêu trên nhà trường vẫn còn gặp không ít những khó khăn như: Là một xã thuộc diện đặc biệt khó khăn, cơ sở vật chất phục vụ cho giáo dục còn hạn chế, vị trí địa lý các thôn bản cách xa nhau, nhiều khe suối, khó khăn cho việc cụm nhóm, lớp, khó khăn cho công tác quản lý chỉ đạo. Trình độ dân trí không đồng đều, còn nhiều gia đình học sinh điều kiện kinh tế rất khó khăn, bố mẹ không quan tâm con cái, phó mặc hoàn toàn cho nhà trường. Cơ sở vật chất nhà trường gặp nhiều khó khăn: Diện tích lớp học chật hẹp, vẫn còn 5 nhóm lớp phải học nhờ học tạm diện tích không đảm bảo. Trường còn một khu lẻ với 4 nhóm lớp chưa có sân chơi. đồ dùng phục vụ công tác chuyên môn có phần chưa đáp ứng với quy định bậc học, đồ dùng đồ chơi cho trẻ tuy đã được trang cấp nhưng vẫn còn thiếu so với số trẻ ra lớp. * Kết quả của thực trạng. Đối với nhà trường: Còn hạn chế việc đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và phụ huynh học sinh về công tác xã hội hóa giáo dục. Cả 2 khu trung tâm và khu lẻ còn thiếu phòng học, khu lẽ chưa có sân chơi, đồ chơi ngoài trời, trong lớp còn thiếu các trang thiết bị, các trang thiết bị phục vụ dạy và học còn nghèo nàn và đơn sơ. Với những thực trang trên tôi luôn lo lắng và trăn trở, làm thế nào để đưa nhà trường đi lên phát triển quy mô và số lượng, nâng cao chất lượng giảng dạy và các hoạt động khác. Về mặt nhận thức của phụ huynh, tuy là ít nhưng cũng phải nói đến đó là tư tưởng trông chờ, ỷ lại của phụ huynh, cho rằng việc xây dựng cơ sở vật chất, trường lớp là nhiệm vụ của địa phương, của ngành giáo dục... còn mình chỉ lo cho con em đến trường. Tôi suy nghĩ và quyết định cần thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục trong nhà trường, phải dựa vào sức dân, nói cho dân hiểu, làm cho dân tin, tranh thủ các nguồn đầu tư của các dự án, thực hiện tốt công tác tham mưu với các cấp lãnh đạo. Vì vậy hai năm gần đây công tác giáo dục ngày nay được phụ huynh quan tâm và nhận thức rõ vị trí quan trọng của nó vì lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng, lợi ích gia đình và từng cá nhân. Vì vậy, các hình thức xã hội tham gia cùng làm giáo dục ngày càng phát triển phong phú, đa dạng, trở thành nhân tố mới góp phần giải quyết hàng loạt vấn đề cụ thể trong công tác giáo dục. Trước tình hình thực tế đó, việc thực hiện các biện pháp nhằm làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục là việc làm tôi đặc biệt quan tâm, với mong muốn duy trì sự ổn định và phát triển của nhà trường, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục. * Bảng khảo sát thực trạng trước khi áp dụng các biện pháp - Cơ sở vật chất, trang thiết bị. Danh mục Số lượng Ghi chú - Máy tính 2 Máy in dùng cho chuyên môn nhà trường 1 - Ti vi 3 - Máy tính 2 - Máy chiếu 0 - Loa 3 - Máy lọc nước 2 - Đồ chơi trong nhà 2 - Đồ chơi ngoài trời 5 - Đệm ngủ 20 - Bàn ghế 40 -Sạp ngủ 40 - Kinh phí đầu tư: Đơn vi tính: VNĐ Năm học Xã Phụ huynh Tổng cộng 2016 – 2017 0 49.000.000 49.000.000 - Kết quả chất lượng giáo dục - chăm sóc, nuôi dưỡng . Tổng số Sức khoẻ trên kênh Chất lượng trên trẻ Kênh bình thường Kênh SDD Đạt Chưa đạt 202 181 = 89,6% 21= 10,4% 180 = 89,1% 22 = 10,9% Xã hội hoá giáo dục là một giải pháp giáo dục phù hợp với giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay, góp phần giải quyết những khó khăn của từng địa phương, ở từng ngành học làm cho giáo dục phục vụ tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội địa phương, góp phần vào tiến bộ xã hội và công bằng xã hội. Nghiên cứu vấn đề này tôi mong muốn rằng sẽ khai thác một cách đầy đủ chi tiết ở mọi khía cạnh, mọi góc độ trong công tác xã hội hóa giáo dục nhằm chăm sóc giáo dục trẻ đạt hiệu quả cao nhất. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. Là một cán bộ quản lý mầm non bản thân tôi suy nghĩ để trường có cơ sở vật chất ngày một khang trang hơn đáp ứng với yêu cầu đổi mới của đất nước,ngoài sự quan tâm của đảng chúng ta cần phải huy động mọi nguồn lực từu các ban ngành, đoàn thể,các bậc phụ huynh học sinh, chính vì vậy Tôi xin đưa ra đây một số biện pháp nâng chất lượng công tác xã hội hóa giáo dục ở trường Mầm non để đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục ở trường Mầm non, qua đó góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ ở trường Mầm non Xuân Thọ. 2.3.1. Giải pháp 1: Công tác tham mưu với lãnh đạo địa phương, phối hợp tuyên truyền cho cộng đồng, phụ huynh và cán bộ giáo viên nhà trường. Là hiệu trưởng nhà trường tôi xác định công tác xã hội hóa giáo dục muốn thực hiện tốt trước tiên phải làm tốt công tác tham mưu: cần trình bày giải thích để chính quyền địa phương, các ban ngành đoàn thể, đặc biệt là cha mẹ các cháu hiểu được từng nội dung yêu cầu trong nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ của nhà trường để từ đó có sự đồng thuận và ủng hộ tích cực; cụ thể nếu trang thiết bị được sửa chữa bổ sung kịp thời tạo điều kiện cho đội ngũ giáo viên thực hiện tốt nhiệm vụ, nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ ngày càng tốt hơn. Vì vậy tôi đã mời đoàn gồm chính quyền địa phương, ban ghành đoàn thể, các bậc phụ huynh tham quan thực tế nhà trường đoàn quan sát các hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ tại các nhóm, lớp thấy thiếu ti vi, quạt đi
Tài liệu đính kèm:
- skkn_bien_phap_thuc_hien_cong_tac_xa_hoi_hoa_giao_duc_nham_t.doc