SKKN Áp dụng một số bài tập bổ trợ thể lực nhằm nâng cao thành tích chạy cự li ngắn (100m) cho học sinh lớp 9 Trường THCS Nga Thanh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa

SKKN Áp dụng một số bài tập bổ trợ thể lực nhằm nâng cao thành tích chạy cự li ngắn (100m) cho học sinh lớp 9 Trường THCS Nga Thanh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa

Trong xã hội hiện đại, Thể dục thể thao (TDTT) là một hoạt động không thể thiếu, nhằm đào tạo và xây dựng con người mới phát triển toàn diện. TDTT đóng góp một phần rất quan trọng trong giáo dục "Đức - Trí - Thể - Mỹ " cho thế hệ trẻ. Cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì TDTT còn phản ánh sự lớn mạnh của đất nước, tạo ra sự ổn định chính trị, nâng cao cuộc sống tinh thần văn minh, tạo mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng việc phát triển TDTT nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng nền TDTT phát triển tiến bộ, có tính dân tộc và khoa học.

Giáo dục thể chất trong nhà trường là một mặt giáo dục quan trọng không thể thiếu được, góp phần thực hiện mục tiêu " Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài " cho đất nước.

Điền kinh là môn thể thao rất đa dạng và phong phú bao gồm các hoạt động tự nhiên của con người: Đi bộ, chạy nhảy, ném đẩy và nhiều môn phối hợp. Ở nước ta môn điền kinh đã có lịch sử phát triển từ lâu đời, với các hình thức tập luyện đa dạng. Đã thu hút đông đảo mọi tầng lớp, đối tượng quần chúng tham gia tập luyện và thi đấu. Khi chạy tất cả các nhóm cơ cùng tham gia hoạt động nhưng chủ yếu là cơ quan nội tạng. Việc gắng sức luân phiên với thả lỏng tích cực tạo điều kiện cho việc phát triển các tố chất sức nhanh, mạnh, bền, sự mềm dẻo, khéo léo và khả năng phối hợp của con người. Môn chạy nói chung và chạy ngắn nói riêng là biện pháp tốt nhất để rèn luyện nâng cao sức khoẻ, ngoài ra còn trang bị cho người tập những phẩm chất đạo đức ý chí cũng như tăng cường vốn kỹ xảo vận động cơ bản quan trọng trong cuộc sống. Điền kinh giữ vai trò quan trọng trong môn giáo dục thể chất trong trường học nói chung và trong các trường phổ thông trung học nói riêng, đặc biệt là các trường trung học cơ sở (THCS). Ngày nay phong trào TDTT nói chung và điền kinh nói riêng trong chạy cự ly 60 (mét) đang được phát triển mạnh mẽ ở các trường học. Chạy cự li 100 (mét) là một trong các nội dung thi đấu điền kinh đối với học sinh THCS.

 

doc 15 trang thuychi01 9650
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Áp dụng một số bài tập bổ trợ thể lực nhằm nâng cao thành tích chạy cự li ngắn (100m) cho học sinh lớp 9 Trường THCS Nga Thanh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.	
Trong xã hội hiện đại, Thể dục thể thao (TDTT) là một hoạt động không thể thiếu, nhằm đào tạo và xây dựng con người mới phát triển toàn diện. TDTT đóng góp một phần rất quan trọng trong giáo dục "Đức - Trí - Thể - Mỹ " cho thế hệ trẻ. Cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì TDTT còn phản ánh sự lớn mạnh của đất nước, tạo ra sự ổn định chính trị, nâng cao cuộc sống tinh thần văn minh, tạo mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng việc phát triển TDTT nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng nền TDTT phát triển tiến bộ, có tính dân tộc và khoa học.
Giáo dục thể chất trong nhà trường là một mặt giáo dục quan trọng không thể thiếu được, góp phần thực hiện mục tiêu " Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài " cho đất nước. 
Điền kinh là môn thể thao rất đa dạng và phong phú bao gồm các hoạt động tự nhiên của con người: Đi bộ, chạy nhảy, ném đẩy và nhiều môn phối hợp. Ở nước ta môn điền kinh đã có lịch sử phát triển từ lâu đời, với các hình thức tập luyện đa dạng. Đã thu hút đông đảo mọi tầng lớp, đối tượng quần chúng tham gia tập luyện và thi đấu. Khi chạy tất cả các nhóm cơ cùng tham gia hoạt động nhưng chủ yếu là cơ quan nội tạng. Việc gắng sức luân phiên với thả lỏng tích cực tạo điều kiện cho việc phát triển các tố chất sức nhanh, mạnh, bền, sự mềm dẻo, khéo léo và khả năng phối hợp của con người. Môn chạy nói chung và chạy ngắn nói riêng là biện pháp tốt nhất để rèn luyện nâng cao sức khoẻ, ngoài ra còn trang bị cho người tập những phẩm chất đạo đức ý chí cũng như tăng cường vốn kỹ xảo vận động cơ bản quan trọng trong cuộc sống.	Điền kinh giữ vai trò quan trọng trong môn giáo dục thể chất trong trường học nói chung và trong các trường phổ thông trung học nói riêng, đặc biệt là các trường trung học cơ sở (THCS). Ngày nay phong trào TDTT nói chung và điền kinh nói riêng trong chạy cự ly 60 (mét) đang được phát triển mạnh mẽ ở các trường học. Chạy cự li 100 (mét) là một trong các nội dung thi đấu điền kinh đối với học sinh THCS.	
Để công tác huấn luyện có hiệu quả thì đòi hỏi phải có các phương pháp luyện tập, những bài tập tập luyện phù hợp với lứa tuổi. Vì mỗi bài tập phù hợp với từng đối tượng khác nhau. Nên phải lựa chọn cho phù hợp để nâng cao và phát triển tố chất sức nhanh và sức bền tốc độ.  
Trường THCS Nga Thanh là một trường rất có tiềm năng về TDTT, trường đạt khá nhiều thành tích trong môn điền kinh ở các cuộc thi thể thao học đường hay Hội khỏe Phù Đổng các cấp, tuy nhiên những kết quả đạt được ở các giải phong trào vẫn còn ở mức độ nhất định, chưa đạt thành tích cao trong tỉnh và toàn quốc, một phần cũng do trình độ tập luyện, phương tiện tập luyện cũng như công tác huấn luyện còn khiêm tốn. Đặc biệt trong những năm gần đây lãnh đạo nhà trường đã quan tâm đến công tác GDTC và TDTT nhằm tuyển chọn bồi dưỡng những học sinh có năng khiếu để tham gia hội thi thể thao học đường cũng như Hội khỏe Phù Đổng tỉnh. Xuất phát từ những lý do trên với mục đích là huấn luyện đội tuyển TDTT, góp phần thúc đẩy sự phát triển của môn điền kinh trong nhà trường, tôi mạnh dạn tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Áp dụng một số bài tập bổ trợ thể lực nhằm nâng cao thành tích chạy cự li ngắn (100m) cho học sinh lớp 9 Trường THCS Nga Thanh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa”.
2. Mục đích nghiên cứu.
Lựa chọn và ứng dụng một số bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích chạy tiếp sức (100m) cho học sinh lớp 9 Trường THCS Nga Thanh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. 
Để giải quyết mục đích nghiên cứu nói trên chúng tôi đề ra các mục tiêu nghiên cứu sau:
Mục tiêu 1: Lựa chọn một số bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích chạy ngắn (100m) cho học sinh lớp 9 Trường THCS Nga Thanh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. 
	Mục tiêu 2: Đánh giá hiệu quả ứng dụng một số bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích chạy ngắn (100m) cho học sinh lớp 9 Trường THCS Nga Thanh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. 
3. Đối tượng nghiên cứu.
Với đề tài trên, tôi đã lựa chọn 32 em học sinh lớp 9B làm nhóm đối chứng và 32 em học sinh lớp 9A làm nhóm thực nghiệm. Hai lớp có số lượng học sinh nam và nữ bằng nhau để vận dụng vào trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao thành tích chạy ngắn (100m).
4. Phương pháp nghiên cứu.
4.1. Phương pháp tham khảo tài liệu. 
Phương pháp này giúp tôi hệ thống hóa các kiến thức có liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu thông qua việc tham khảo các văn bản, chủ trương của Đảng và nhà nước về công tác giáo dục thể chất, tham khảo các tài liệu của các chuyên gia, hình thành cơ sở lý luận, xác định mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, đồng thời xây dựng tổng quan, xử lý và phân tích kết quả nghiên cứu của đề tài.
4.2. Phương pháp phỏng vấn.
Sử dụng phương pháp này với mục đích tổng hợp các kiến thức và kinh nghiệm của các giáo viên, huấn luận viên. Từ đó chọn lọc được một số bài tập hợp lý để nâng cao hiệu quả giảng dạy kỹ thuật chạy ngắn. 
4.3. Phương pháp kiểm tra sư phạm.
Sử dụng phương pháp này để tiến hành kiểm tra thành tích chạy ngắn (100m) trước và sau thực nghiệm của học sinh khối 9 trường THCS xã Nga Thanh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
- Cách thức tiến hành kiểm tra thành tích:
+ Kiểm tra mỗi lượt 4 học sinh,
+ Mỗi học sinh thực hiện 1 lần lấy thành tích.
- Thực hiện chạy ngắn theo luật điền kinh.
+ Loại đạt: Thực hiện đúng 4 giai đoạn kĩ thuật và thành tích đạt 13,50 - 15,30 giây (nam); 15,90 - 19,30 giây (nữ). Có một vài sai sót nhỏ về kĩ thuật như thực hiện sai 1 trong 4 giai đoạn kĩ thuật. Nhưng thành tích vẫn nằm trong ngưỡng cho phép.
 	+ Loại chưa đạt: Thực hiện sai 3 giai đoạn kĩ thuật, không tính thành tích. Hoặc sai cả 4 giai đoạn kĩ thuật.
4.4. Phương pháp thực nghiệm.
- Nhóm thực nghiệm: Chọn ngẫu nhiên 32 em học sinh lớp 9A. 
- Nhóm đối chứng: Chọn ngẫu nhiên 32 em học sinh lớp 9B
- Số lượng nam và nữ đều nhau.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
1.1. Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh THCS
Do sự phát triển về mọi mặt của cơ thể học sinh diễn ra khá phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài cơ thể. Người làm công tác giáo dục thể chất cần nắm chắc các quy luật sinh lý cơ bản ấy, thúc đẩy các quy luật ấy phát triển tốt thì mục đích nhiệm vụ giáo dục thể chất sẽ đạt được kết quả tối ưu.
Chúng ta cần nhận thức rằng cơ thể học sinh không phải là cơ thể người lớn thu nhỏ lại.
Ở lứa tuổi học sinh lớp 9 THCS, chúng tôi quan tâm đến những vấn đề sau:
Đặc điểm đặc trưng của lứa tuổi này là quá trình phát dục mạnh mẽ. Các tuyến nội tiết (tuyến hạ não, tuyến giáp trạng) tăng cường hoạt động, kích thích cơ thể lớn lên nhanh mà chủ yếu do chân tay dài ra, đồng thời kích thích tuyến sinh dục (buồng trứng ở con gái, tinh hoàn ở con trai) bắt đầu hoạt động mạnh mẽ theo kiểu cách của sinh lý người trưởng thành.
Hằng năm các em cao thêm 7 - 10cm, chân tay lều khều, động tác vụng về, tăng trao đổi chất, xuất hiện các giới tính phụ. Các em muốn làm người lớn, biết lo lắng trách nhiệm, hăng hái nhiệt tình, hăm hở đi tìm cái mới nhưng chưa có kinh nghiệm tự lượng sức mình, thường đánh giá cao khả năng, dễ lẫn lộn giữa dũng cảm với liều lĩnh, giữa khiêm tốn với nhu nhược, giữa tình cảm đúng với tình cảm sai.
Khi tuyến sinh dục đã hoạt động đủ mạnh, đủ làm xuất hiện giới tính chính thì trở lại kiềm hãm sự hoạt động của hai tuyến hạ não và giáp trạng. Bởi thế, chiều cao phát triển chậm dần, ít năm nữa sẽ dừng hẳn, trái lại các chiều ngang, các vòng cơ thể cùng với sức lực tăng lên rõ rệt.
Nói chung, cơ thể học sinh đang trên đà phát triển mạnh. Những sự mất cân đối giữa các mặt đặt yêu cầu cho các nhà giáo dục phải biết chăm sóc các em thật chu đáo. Thiếu luyện tập thể dục, ý thức giữ vệ sinh kém, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí không hợp lý sẽ đưa đến những tác hại không nhỏ cho sức khỏe. Nhưng nếu hiểu biết rõ đặc điểm và sử dụng đúng năng lực của các em thì tuổi này có nhiều đóng góp tốt, có nhiều tài năng đang độ nảy nở, kể cả tài năng về TDTT.
Để hiểu rõ hơn đặc điểm nói trên, cần biết thêm một số hệ thống cơ quan dưới đây:
Hệ thần kinh: đã hoàn thiện về cơ cấu tế bào, nhưng chức năng sinh lý vẫn đang phát triển mạnh. Hưng phấn vẫn chiếm ưu thế, khả năng phân tích tổng hợp mặc dù còn thấp nhưng sâu sắc hơn tuổi nhi đồng. Dễ thành lập phản xạ, song cũng dễ phai mờ, cho nên tiếp thu nhanh nhưng cũng chóng quên. Thần kinh thực vật yếu ớt ở mức độ nhất định, các dấu hiệu về kích thích cảm giác tăng lên, 14% trai và 26% gái xuất hiện trạng thái đau đầu vô cớ, chóng mệt, hồi hộp, đôi khi có biểu hiện đau ở vùng dạ dày, dễ bị chấn thương tinh thần khi rối loạn giấc ngủ, hoặc khi giáo dục sai phương pháp, khi công việc nặng nhọc, tập luyện quá sức.
Hệ vận động: phát triển đáng chú ý cả về số lượng và chất lượng. Xương đang cốt hóa mạnh mẽ, dài ra rất nhanh, Các xương nhỏ ở cổ tay, cổ chân đã thành xương nhưng chưa vững vàng, lao động, học tập nặng nề dễ gây đau kéo dài ở các khớp đó. Mãi đến 15 - 16 tuổi cột sống mới tương đối ổn định các đường cong sinh lý. Nếu đi, đứng ngồi sai tư thế vẫn có thể bị cong vẹo cột sống. Đặc biệt đối với nữ do các xương chậu chưa cốt hóa đầy đủ nên nếu tập luyện không đúng sẽ dễ bị méo, lệch, ảnh hưởng đến chức năng sinh đẻ sau này.
Người làm công tác giáo dục thể chất ở THCS còn cần quan tâm phát triển các tố chất cho các em nhưng tùy theo sự phát triển của lứa tuổi mà ưu tiên phát triển các tố chất nào cho phù hợp.
Sức nhanh: Lứa tuổi nhỏ sức nhanh còn kém phát triển. Để giáo dục sức nhanh trước tiên cần ưu tiên phát triển phản ứng vận động đơn giản và sức nhanh thực hiện động tác ở các em lứa tuổi lớn (từ 11 - 14 tuổi). Sức nhanh phát triển mạnh cụ thể là khoảng 12 tuổi đối với nữ và 13 tuổi đối với nam. Ở lứa tuổi này cần giáo dục tốc độ và phản ứng vận động phức tạp. Cần chú ý tránh hiện tượng chặn tốc độ, trong các bài tập nên sử dụng hình thức nghỉ ngơi tích cực.
Sức mạnh: Cần phải thận trọng vì các bài tập sức mạnh không hợp lý sẽ gây nên những sai lệch tư thế bình thường. Lứa tuổi 12 trở lên sức mạnh tăng rõ rệt, có thể sử dụng các bài tập có trọng lượng lớn nhưng phải đảm bảo các nguyên tắc tăng từ từ, vừa sức và chiếu cố đặc điểm cá nhân.
Sức bền: còn hạn chế, chú ý phát triển sức mạnh của các cơ hô hấp để tạo điều kiện cho giáo dục sức bền sau này.
Khéo léo: Các bài tập khéo léo chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Giáo dục khéo léo nhằm làm cơ sở cho việc chuẩn bị tiếp thu các bài tập phức tạp ở lớp trên, cần sử dụng các bài tập phối hợp phức tạp và trong điều kiện ngày càng phức tạp hơn.
Mềm dẻo: Sự phát triển tự nhiên của mềm dẻo ở lứa tuổi này là tốt nhất. Cần duy trì mềm dẻo bằng các bài tập có biên độ lớn. Tuy nhiên không nên phát triển mềm dẻo quá mức cho các em. Sử dụng các bài tập mềm dẻo phải kết hợp với việc củng cố các cơ và dây chằng.
Thực tế giáo dục hiện nay với yêu cầu ngày càng cao đòi hỏi TDTT nói chung, bộ môn thể dục nói riêng cũng phải được quan tâm, ưu tiên cho phù hợp. 
Với nhu cầu phát triển của xã hội và mục tiêu giáo dục thể chất trong nhà trường. Do đó việc nghiên cứu một số bài tập bổ trợ nhằm nâng cao thành tích cho học sinh là phù hợp với mục tiêu, yêu cầu trên và là vấn đề cần thiết. Kết quả nghiên cứu có thể góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn chạy ngắn (100m) cho học sinh bậc trung học cơ sở, tạo một nền tảng vững chắc cho các em bước lên cấp trung học phổ thông.
1.2. Nội dung chương trình bộ môn Thể dục lớp 9
Ở lớp 9, môn chạy ngắn được tiến hành giảng dạy trong 9 tuần của học kỳ I và được phân bổ trong 18 tiết. Trong một tiết học 45 phút có 3 nội dung là chạy ngắn, bài thể dục và chạy bền. Thời lượng để học 3 nội dung này chỉ chiếm khoảng 32 - 35 phút. Do vậy, lượng vận động chưa cao nên chưa phát huy hết khả năng của học sinh. Đó cũng là một khó khăn đòi hỏi người thầy phải tìm ra những biện pháp để có thể nâng cao thành tích chạy ngắn cho học sinh.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 
 Trong những cuộc thi TDTT do tỉnh và huyện tổ chức, môn chạy ngắn là một trong những môn mà trường THCS Nga Thanh luôn có thành tích chưa cao so với những trường khác. Thực trạng trong kiểm tra thành tích cuối năm và thi đấu Hội khỏe phù đổng cấp huyện, tỉnh của Trường THCS Nga Thanh còn rất hạn chế, nhất là thành tích chạy ngắn (100m). Một phần do môn chạy ngắn chưa thực sự được quan tâm đúng mức, một phần do tố chất thể lực và ý thức luyện tập của các em học sinh chưa cao nên dẫn tới kết quả không được tốt trong các cuộc thi TDTT.
Việc lựa chọn và áp dụng những bài tập thể lực chưa hợp lý cũng ảnh hưởng rất nhiều đến việc nâng cao thành tích chạy 100m của các em. 
Vì trường chưa đạt chuẩn quốc gia nên điều kiện sân bãi chưa tốt, phạm vi hẹp làm ảnh hưởng đến quá trình tập luyện của học sinh. 
Thiết bị đồ dùng luyện tập còn hạn chế.
Học sinh chưa nghiêm túc tiếp thu, áp dụng phương pháp luyện tập và bài tập phù hợp với thể trạng cơ thể mình.
 Phụ huynh, học sinh và một số ngoại cảnh khác tác động đã làm cho các em có một suy nghĩ, một cái nhìn khác đối với bộ môn, các em còn coi nhẹ các nội dung của môn học thể dục đặc biệt là môn chạy ngắn (100m).
 Ngoài ra, tài liệu hướng dẫn gần như không có. Đặc biệt là tình trạng học sinh không đáp ứng được yêu cầu về lượng vận động ngày càng tăng do ý thức kém của các em trong tập luyện thể dục thể thao ở trường cũng như ở nhà, ý thức rèn luyện các bài tập thể lực của đại đa số học sinh là rất kém, các em thường không có tinh thần cố gắng quyết tâm, hoặc khi tập luyện thì chỉ vận động sơ sài, đôi khi không đúng tần số và biên độ động tác, chỉ cần gặp một khó khăn là sẵn sàng bỏ luyện tập.
Kết quả kiểm tra đầu năm nội dung chạy ngắn (100m) đối với 2 lớp 9A, 9B trường THCS Nga Thanh năm học 2017 - 2018 trước khi áp dụng sáng kiến: 
Đối tượng
Lớp
Số HS
Xếp loại
Đạt
Tỉ lệ 
(%)
Chưa Đạt
Tỉ lệ 
(%)
Nhóm thực nghiệm
9A
32 
24
75 
8
25 
Nhóm đối chứng
9B
32 
22
68,8
10
31,2
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
3.1. Lựa chọn một số bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích chạy ngắn (100m) cho học sinh lớp 9.
Trên cơ sở đánh giá năng lực của học sinh, đồng thời qua việc nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn công tác giảng dạy tôi đã lựa chọn được một số bài tập trong giảng dạy kĩ thuật chạy nhanh:
- Chạy bước nhỏ 20m.
- Chạy đạp sau 30m.
- Chạy nâng cao đùi 30m.
- Chạy 30m tốc độ cao.
- Chạy 30m xuất phát cao.
- Chạy 30m xuất phát thấp.
- Chạy biến tốc 30m.
- Chạy kéo lôi người khác bằng dây chun.
- Chạy trên cát 20m.
- Chạy lên bậc cầu thang, chạy lên dốc.
- Tại chỗ vịn tường, vịn cây nâng cao đùi liên tục.
- Bài tập đứng lên ngồi xuống.
- Trò chơi vận động: “Người thừa thứ 3”, “Chạy đuổi”,”Chạy tiếp sức chuyển vật”
* Hình ảnh minh họa một số động tác:
Chạy bước nhỏ
Chạy đạp sau
Chạy nâng cao đùi
Chạy tốc độ cao
Xuất phát cao
Xuất phát thấp
Tại chỗ vịn tường, nâng cao đùi liên tục
Chạy trên cát
Chạy kéo người
Chạy lên bậc cầu thang
Những nhóm bài tập này khi áp dụng vào tập luyện phải theo dõi từ lúc học sinh bắt đầu tập luyện để biết được điểm nào học sinh thực hiện còn yếu, điểm nào cần bổ sung mới phát huy hết khả năng tố chất sẵn có của các em. Nếu sử dụng những bài tập không phù hợp với nhu cầu cần của học sinh sẽ không đạt được kết quả như mong muốn. Vì vậy việc lựa chọn bài tập cho phù hợp thì giáo viên phải nắm bắt trước tình hình, tâm lý, thể lực và khả năng của học sinh sao cho bài tập áp dụng vào tập luyện mới đạt được hiệu quả tốt.
 Giáo viên luôn quan tâm, chăm chút học sinh trong từng tiết học. Với mỗi tiết học, giáo viên đã nghiên cứu kĩ kế hoạch bài dạy để lựa chọn và tổ chức những hình thức tập luyện sao cho phù hợp với đối tượng học sinh. Bên cạnh đó, giáo viên luôn động viên khuyến khích, khơi gợi ở học sinh trí tưởng tượng, óc sáng tạo nhằm kích thích được sự tìm tòi, ham học hỏi ở học sinh, hình thành thói quen học tập tốt môn thể dục. 
3.2. Ứng dụng các bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích chạy ngắn (100m) cho học sinh lớp 9.
Sau khi nghiên cứu thực trạng, chọn lựa bài tập, tôi tiến hành soạn thảo chương trình ứng dụng cụ thể như sau: 
Bước 1: Lập tiến trình biểu theo phân phối chương trình của Sở giáo dục và đào tạo năm học 2017 – 2018. 
Bước 2: Soạn giáo án cho nhóm thực nghiệm (Lớp 9A) theo chương trình của tiến trình biểu. 
Bước 3: Ứng dụng vào chương trình giảng dạy. Tiến hành giảng dạy dựa theo tiến trình biểu, giáo án đã soạn và các bài tập đã được lựa chọn trên nhóm thực nghiệm (mỗi tuần 2 tiết).
Để nghiên cứu tác dụng của các bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích chạy ngắn cho học sinh khối lớp 9, tôi tiến hành thực nghiệm trên 2 nhóm đối tượng theo quy ước sau:
+ Nhóm thực nghiệm (Lớp 9A): Chọn ngẫu nhiên 32 em học sinh, thời gian tập luyện là 2 buổi/tuần. Nội dung tập luyện theo phân phối chương trình của Sở GD – ĐT Thanh Hóa kết hợp các bài tập đã được chọn qua kết quả phỏng vấn.
+ Nhóm đối chứng (Lớp 9B): Chọn ngẫu nhiên 32 em học sinh, thời gian tập luyện giống nhóm thực nghiệm. Nội dung tập luyện theo phân phối chương trình của Sở Giáo dục và đào tạo Thanh Hóa.
* Kết quả kiểm tra sau khi đã hoàn thành giảng dạy nội dung chạy ngắn (100m) đối với nhóm thực nghiệm (Lớp 9A) và nhóm đối chứng (Lớp 9B):
Nhóm
Lớp
Số HS
Xếp loại
Đạt
Tỉ lệ 
(%)
Chưa Đạt
Tỉ lệ 
(%)
Nhóm thực nghiệm
9A
32
32
100
0
0 
Nhóm đối chứng
9B
32 
26
81,2
6
18,8
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. 
* Kết quả so sánh trước và sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Đối tượng
Số HS
Đầu năm
Cuối năm
Đạt
Tỉ lệ (%)
Chưa đạt
Tỉ lệ (%)
Đạt
Tỉ lệ (%)
Chưa đạt
Tỉ lệ (%)
Nhóm thực nghiệm (Lớp 9A)
32
24
75 
8
25
32
100 
0
0 
Nhóm đối chứng 
(Lớp 9B)
32
22
68.8 
10
31.2 
26
81.2
6
18.8
Qua bảng trên, ta có thể nhận thấy kết quả học tập của học sinh lớp 9A so với kết quả của lớp 9B năm học 2017 – 2018 có sự tiến bộ rõ rệt, không có học sinh chưa đạt yêu cầu. Điều đáng mừng là kết quả của từng lớp hoàn toàn phụ thuộc tương ứng vào tiêu chuẩn quy định thành tích của tiêu chuẩn RLTT của giáo viên. Ngoài ra, với việc ứng dụng đồng bộ các giải pháp trên, kết quả thành tích thi HSG huyện, HSG tỉnh môn TDTT của nhà trường cũng có nhiều khởi sắc. Cụ thể là: 1 giải Nhất huyện và 1 giải Ba huyện chạy (100m); 2 giải Nhất huyện chạy tiếp sức; 1 giải Nhất tỉnh tiếp sức nữ và 1 giải Khuyến khích tỉnh tiếp sức nam.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
	Bài tập bổ trợ nên tiến hành trong một khoảng thời gian nhất định trước khi học một kĩ thuật nào đó, bởi vì muốn nâng cao một tố chất thể lực nào đó của con người cần phải có một thời gian tích lũy. Dựa vào đặc điểm phát triển cơ thể và trình độ của học sinh mà lựa chọn sắp xếp các nội dung phù hợp. Đối với học sinh trung học cơ sở việc sắp xếp lựa chọn nội dung phải chú ý đến việc giáo dục ở thời kì phát dục và lý luận phương pháp rèn luyện thể chất .
Trên cơ sở lí luận, thực tiễn cho thấy quá trình thực hiện phương pháp nghiên cứu một số bài tập bổ trợ để nâng cao thành tích chạy (100m) học sinh lớp 9 đối với môn chạy cự li ngắn nói riêng và điền kinh nói chung cần phải được lựa chọn các bài tập một cách phù hợp sao cho có hiệu quả, cao nâng cao chất lượng học sinh đồng thời cũng nâng cao chất lượng bộ môn. 
Quá trình vận dụng giáo viên phải biết lựa chọn, phát huy tác dụng của bài tập đảm bảo phù hợp nội dung, học sinh nắm được các bài tập vận dụng thực hiện tốt, các bài tập đó bổ trợ tốt cho giai đoạn thực hiện kĩ thuật đạt thành tích cao. Thực hiện yêu cầu đó đòi hỏi việc lựa chọn các bài tập bổ trợ phù hợp cần được thực hiện nghiêm túc để đáp ứng được yêu cầu giảng dạy chung. Chính vì vậy, đối với phương pháp nghiên cứu ứng dụng các bài tập bổ trợ nâng cao thành tích chạy (100m) cho học sinh lớp 9 là cần thiết và để giải quyết được vấn đề nêu trên, quá trình nghiên cứu cần phải xây dựng đề ra giải pháp hữu hiệu tích cực, cụ thể trong việc lựa chọn và ứng dụng để đạt được hiệu quả của đề tài. 
Trong thực tế nghiên cứu ứng dụn

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_ap_dung_mot_so_bai_tap_bo_tro_the_luc_nham_nang_cao_tha.doc