Sáng kiến kinh nghiệm Tổ chức cho trẻ làm quen với văn học

Sáng kiến kinh nghiệm Tổ chức cho trẻ làm quen với văn học

a.Thuận lợi, khó khăn:

+ Thuận lợi:

 - Bản thân là người rất thích môn văn học, luôn nhiệt tình, chịu khó tìm tòi, lắng nghe góp ý của Ban Giám Hiệu học hỏi chuyên môn và các đồng nghiệp trên thực tế cũng như lý thuyết.

 - Qua thực hiện chuyên đề, cùng nhiều năm trong nghề, tôi đã tích góp được nhiều kinh nghiệm, nắm chắc phương pháp bộ môn, yêu cầu đối với từng thể loại, từng độ tuổi.

 - Các cháu cùng độ tuổi đã có thói quen trong học tập và các hoạt động .

 - Có sự quan tâm của Ban Giám Hiệu, sự nhiệt tình giúp đỡ của chuyên môn, đồng nghiệp và phụ huynh học sinh.

 - Có đầy đủ cơ sở vật chất, tài liệu hướng dẫn và đồ dùng phục vụ môn học .

+ Khó khăn:

 - Trong cùng độ tuổi nhưng khả năng tiếp thu, cảm thụ văn học của trẻ không đồng đều .

 - Vốn từ của trẻ còn nghèo, khả năng chú ý, ghi nhớ và khả năng diễn đạt của trẻ còn hạn chế.

 - Bản thân còn hạn chế về âm giọng khi diễn đạt, thiếu linh hoạt, sáng tạo khi tổ chức giờ dạy.

 - Từ những thuận lợi, khó khăn trên, bản thân đã cố gắng tìm tòi và sử dụng những biện pháp, phương pháp thiết thực nhằm đem lại hiệu quả cao nhất khi thực hiện giảng dạy trẻ “Làm quen với Văn học”.

b. Thành công, hạn chế:

+ Thành công:

Từ những gì tích lũy, học hỏi được tôi đã tổ chức thành công các tác phẩm văn học trong chương trình giáo dục mầm non mới.

+ Hạn chế: Bên cạnh đó cũng còn một số hạn chế như đồ dùng cho tác phẩm chưa đẹp, còn sơ sài

 

doc 18 trang hoathepmc36 28/02/2022 9725
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tổ chức cho trẻ làm quen với văn học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG VIỆC TỔ CHỨC CHO TRẺ LÀM QUEN VỚI VĂN HỌC
I.Phần mở đầu: 
 I.1.Lý do chọn đề tài: 
Có lẽ trong chúng ta, không ai không biết đến câu ca dao :
 “Uốn cây từ thuở còn non 
 Dạy con từ thuở con còn thơ ngây”
Từ bao đời nay, đến bây giờ và mãi mãi, câu ca dao ấy vẫn là bài học kinh nghiệm vô giá cho mỗi chúng ta, những người làm công tác giáo dục, đặc biệt là Giáo dục Mầm Non: “Mẫu giáo tốt mở đầu cho nền giáo dục tốt”.
 Với quan điểm ấy, bằng nhiều hình thức, thông qua các môn học và các hoạt động, giáo dục mầm non đã góp phần xây dựng và giáo dục con người mới ở lứa tuổi thơ.
Mà trong đó làm quen với văn học (LQVVH) là một môn học chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Nó góp phần tích cực giúp trẻ hình thành và phát triển kỹ năng lời nói trong các hoạt động đời sống, mở rộng hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh, giáo dục đạo đức thẩm mỹ thông qua các tác phẩm văn học. Mặt khác thực hiện gỉảng dạy tốt bộ môn làm quen với văn học còn là điều kện thuận lợi, tạo tiền đề cho trẻ học tốt môn văn học sau này khi học phổ thông.
Chính vì lý do đó tôi lựa chọn đề tài này để nghiên cứu.
 I.2.Mục tiêu nhiệm vụ của đề tài:
Đề tài được thực hiện với mục tiêu đặt ra là muốn đem lại những vần thơ ngọt ngào đầy cảm xúc, những câu chuyện cảm động đi vào lòng người, những bài đồng dao, ca dao gần gũi với cuộc sống hằng ngày. Từ đó muốn truyền tải được đến với các cháu người giáo viên phải tự tìm ra cách truyền đạt hay nhất, ấn tượng và lôi cuốn trẻ bằng nhiều cách riêng của mình để trẻ tiếp thu một cách hứng thú.
 I.3. Đối tượng nghiên cứu:
 Học sinh lớp lá 1 Trường Mẫu Giáo Eana. (Đặc biệt những cháu dân tộc thiểu số có vốn từ ít, khó khăn trong việc phát âm).
I.4. Phạm vi nghiên cứu:
	Đề tài bao quanh vấn đề tìm ra biện pháp nâng cao việc phát âm cho trẻ dân tộc thiểu số trong hoạt động làm quen văn học
 I. 5. Phương pháp nghiên cứu:
 Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp trải ngiệm thực tế.
II. Phần nội dung:
II.1. Cơ sở lý luận: 
Là giáo viên Mầm Non tiếp cận với chương trình giáo dục mầm non mới, bản thân tôi thấy cần phát huy khả năng sáng tạo trong cách truyền thụ kiến thức cho trẻ, nhất là môm làm quen tác phẩm văn học, từ đó giúp trẻ cảm nhận tác phẩm đó một cách tích cực hơn, lồng ghép giáo dục trẻ thông qua nội dung tác phẩm văn học đó hiệu quả hơn.
Có thể trong giáo dục cháu mà chỉ nói suông thì cháu sẽ mau quên thậm chí không nhớ cô nói gì, nhưng giáo dục thông qua nhân vật trong tác phẩm cháu sẽ nhớ lâu và thực hành rất tốt.
Ví dụ: Bạn Tích Chu không biết thương bà, vâng lời bà nên khi Bà hóa thành chimthì Tích Chu rất hối hậnNếu là con con có rong chơi như bạn Tích Chu không? Vì trẻ không muốn mình bị chê là đứa trẻ không ngoan nên trẻ sẽ cố gắng làm tốt Và nhiều câu tác phẩm khác.
II.2.Thực trạng: 
 Thực tế trong giảng dạy tác phẩm văn học cho trẻ hiện nay còn nhiều vấn đề cần khắc phục như: Sự am hiểu tác phẩm văn học của giáo viên, lối dẫn dắt lôi cuốn trẻ, diễn cảm tác phẩm, minh họa nhân vật trong tác phẩmĐòi hỏi giáo viên phải có trình độ chuyên môn cao, sáng tạo, năng động trong giảng dạy.
a.Thuận lợi, khó khăn:
+ Thuận lợi:
 - Bản thân là người rất thích môn văn học, luôn nhiệt tình, chịu khó tìm tòi, lắng nghe góp ý của Ban Giám Hiệu học hỏi chuyên môn và các đồng nghiệp trên thực tế cũng như lý thuyết.
 - Qua thực hiện chuyên đề, cùng nhiều năm trong nghề, tôi đã tích góp được nhiều kinh nghiệm, nắm chắc phương pháp bộ môn, yêu cầu đối với từng thể loại, từng độ tuổi.
 - Các cháu cùng độ tuổi đã có thói quen trong học tập và các hoạt động .
 - Có sự quan tâm của Ban Giám Hiệu, sự nhiệt tình giúp đỡ của chuyên môn, đồng nghiệp và phụ huynh học sinh.
 - Có đầy đủ cơ sở vật chất, tài liệu hướng dẫn và đồ dùng phục vụ môn học .
+ Khó khăn:
 - Trong cùng độ tuổi nhưng khả năng tiếp thu, cảm thụ văn học của trẻ không đồng đều .
 - Vốn từ của trẻ còn nghèo, khả năng chú ý, ghi nhớ và khả năng diễn đạt của trẻ còn hạn chế.
 - Bản thân còn hạn chế về âm giọng khi diễn đạt, thiếu linh hoạt, sáng tạo khi tổ chức giờ dạy. 
 - Từ những thuận lợi, khó khăn trên, bản thân đã cố gắng tìm tòi và sử dụng những biện pháp, phương pháp thiết thực nhằm đem lại hiệu quả cao nhất khi thực hiện giảng dạy trẻ “Làm quen với Văn học”.
b. Thành công, hạn chế:
+ Thành công:
Từ những gì tích lũy, học hỏi được tôi đã tổ chức thành công các tác phẩm văn học trong chương trình giáo dục mầm non mới.
+ Hạn chế: Bên cạnh đó cũng còn một số hạn chế như đồ dùng cho tác phẩm chưa đẹp, còn sơ sài
c. Mặt mạnh, mặt yếu:
+ Mặt mạnh: Trẻ mầm non rất thích được nghe kể chuyện, thơ, ca dao đồng dao.
+ Mặt yếu: Giáo viên chưa linh hoạt sáng tạo trong cách tổ chức.
d. Nguyên nhân, các yếu tố tác động:
 - Sự am hiểu của giáo viên về tác phẩm văn học còn hạn chế. Chưa sáng tạo trong cách tổ chức tiết học, giọng kể không phải giáo viên nào cũng kể hay, diễn cảm.
e. Phân tích đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra:
 Trong những năm gần đây nền giáo dục của nước ta phát triển, đặc biệt đã chú ý đến học sinh đồng bào dân tộc thiểu số. Nhất là học sinh Mầm Non.
Để chuẩn bị tốt cho trẻ bước vào lớp 1 thì vốn từ cho học sinh dân tộc là vấn đề rất cần thiết nên từ mẫu giáo giáo viên đã nâng cao ngôn ngữ góp phần bước đầu cho trẻ tiếp thu kịp với ngôn ngữ của người kinh.Từ đó trẻ sẽ mạnh dạn phát triển tự hoàn thiện bản thân theo 5 mặt phát triển: Ngôn ngữ, nhận thức, thể chất, thẩm mỹ, tình cảm xã hội.Vì vậy việc tổ chức hoạt động làm quen văn học rất quan trọng với trẻ mầm non.
III.3. Giải pháp, biện pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
Để nâng cao hiệu quả trong việc truyền thụ tác phẩm văn học cho trẻ trước hết người giáo viên cần nghiên cứu tác phẩm đó để khi trẻ cảm nhận vừa với sự hiểu biết của trẻ, đồng thời mang tính giáo dục cao.
b.Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
+ Đối với truyện: 
Trẻ mẫu giáo rất thích được nghe cô kể chuyện , đặc biệt là truyện cổ tích . Nhưng muốn giờ kể chuyện đạt kết quả tốt giáo viên cần nắm vững phương pháp, biết sử dụng các thủ thuật kể chuyện diễn cảm và vận dụng phương pháp một cách linh hoạt trong giờ dạy .
* Giới thiệu bài: Vào đầu tiết học, cô cần gây hứng thú, tạo tâm thế cho trẻ bằng nhiều hình thức, có khi dẫn dắt bằng lời nhưng cũng có thể dùng câu đố, ca dao, tục ngữ, bài hát có nội dung gần gũi liên quan đến chuyện kể. Hoặc bằng hình ảnh, vật thật đại diện cho nhân vật chính nào đó trong truyện, tạo sự bất ngờ và gây sự chú ý đặc biệt đối với trẻ .
Ví dụ: Với câu truyện “Ai đáng khen nhiều hơn”, cô có thể sử dụng câu đố: “Mắt hồng lông trắng, tai dài, bạn ăn cà rốt đó là con chi”. Hay với chuyện “Chàng rùa” cô có thể dẫn dắt: “Chúng ta ai cũng có mẹ, có cha. Cha mẹ là người đã sinh ra, nuôi dạy chúng ta khôn lớn, trưởng thành. Biết ơn cha mẹ, nhiều người đã biết sống yêu thương, hiếu thảo với cha mẹ, chàng Rùa là một người con sống như thế đó. Để hiểu rõ về chàng Rùa, hôm nay cô sẽ kể cho các cháu nghe câu chuyện “Chàng Rùa” nhé. Hoặc với chuyện “Tấm Cám”, cô có thể đọc: “Bống bống bang bang, lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta, chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”. Đó là lời của ai? Trong chuyện gì ?...Có rất nhiều hình thức giới thiệu. Song, giáo viên cũng phải khéo léo lựa chọn sao cho phù hợp với từng tác phẩm, lôi cuốn được sự tập trung chú ý và hứng thú của trẻ ngay từ những phút giây đầu tiên của tiết học .
* Kể truyện:
 -Để các cháu hiểu được nội dung câu chuyện, giáo viên không chỉ nắm vững phương pháp mà còn phải biết sử dụng các thủ thuật của giọng điệu. Đó là việc sử dụng đúng :
+ Cường độ: âm thanh phù hợp với ngưỡng thính giác của trẻ. 
+ Tốc độ (nhịp điệu trong giọng đọc lời kể): cường độ và tốc độ đi đôi với nhau, nếu cường độ to thì nhịp điệu nhanh và ngược lại cường độ nhỏ thì nhịp điệu chậm.
+Ngắt giọng: Ở mỗi đoạn truyện thì có 1 cách ngắt giọng riêng nếu không sử dụng thì ý nghĩa của tác phẩm văn học sẽ bị phá vỡ. 
 -Thông qua những ngôn ngữ, giọng điệu của cô sẽ giúp trẻ cảm nhận được tính cách, hành động, tâm trạng của các nhân vật trong truyện . 
 Sau khi giới thiệu bài, cô có thể kể cho trẻ nghe 1 lần. Lời kể rõ ràng mạch lạc và diễn cảm (Không nói ngọng, nói lắp, không dùng từ địa phương ). Chú ý sử dụng ngôn ngữ, giọng kể phù hợp với tính cách nhân vật .
Ví dụ: Với truyện “Chú dê đen”: Dê trắng là con vật nhút nhát, cô kể giọng nhỏ, chậm, yếu ớt và ngắt quãng. Dê đen dũng cảm, thông minh, cô kể với giọng bình tĩnh, cường độ âm thanh mạnh mẽ, thể hiện sự đanh thép. Giọng Sói thì hách dịch, quát nạt, sau chuyển dần sang lo lắng, ngần ngừ. Hoặc với truyện “Ba cô gái” cô kể, giọng bà mẹ chậm rãi, yếu ớt, run rẩy. Giọng Sóc con thì hối hả, lo âu khi báo tin người mẹ cho các cô gái, tỏ thái độ giận dữ khi Sóc con không bằng lòng với chị Cả, chị Hai, nét mặt cau có nhíu mày, tay vung mạnh, đồng thời chân dậm mạnh “phình phịch” xuống đất và giọng kể nhẹ nhàng, vui sướng, thể hiện sự đồng tình của Sóc với chị Út khi thấy chị Út sốt sắng về thăm mẹ (cùng với nét mặt tươi cười rạng rỡ của cô ). Khi kể, không đòi hỏi cô phải thuộc lòng từng câu trong truyện (ngoại trừ những câu đối thoại). Song dù thêm hay bớt, nhưng nhất thiết phải đảm bảo nội dung cốt chuyện, biết kết hợp hài hoà ánh mắt, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ và khéo léo sử dụng giáo cụ trực quan. Thống nhất giữa lời nói và hành động. Nghĩa là đồ dùng trực quan phải được đưa ra đúng lúc, khớp với lời kể, động tác thuần thục, chính xác và khéo léo .
Ví dụ: Với câu chuyện “Chàng rùa”, cô kể: Ngày xưa có hai vợ chồng nhà kia (các nhân vật Bố và Mẹ rùa xuất hiện trên bức phông )mãi mới sinh được một người con nhưng lại là một chàng Rùa bé tí ti (nhân vật rối rùa xuất hiện). Như vậy tất cả đều vừa trùng khít với lời kể. Rồi các nhân vật Vua, cô bác nông dân lần lượt xuất hiện với màn trình diễn khéo léo mang tính nghệ thuật cao, các nhân vật cứ lúc ẩn lúc hiện (theo trình tự nội dung truyện) đã cuốn hút trẻ say xưa theo dõi. Vừa được nghe kể, lại vừa nhìn thấy những hình ảnh cụ thể, trẻ sẽ tiếp thu một cách dễ dàng, và tác phẩm ấy sẽ khắc sâu, in đậm trong trí nhớ của trẻ. Trẻ sẽ biết nhận xét, phân biệt, đánh giá đúng tính cách của từng nhân vật, tiết học trở nên sinh động, hấp dẫn và không tẻ nhạt.
 Sau khi kể lần 1 cô có thể tóm tắt nội dung truyện một cách ngắn gọn, chọn những nét chính làm toát lên nội dung, không diễn giải dài dòng, có thể kết hợp giảng giải từ khó có trong tác phẩm, nhưng cũng có thể kết hợp gỉảng từ, giảng ý khi cô kể lần 2. Ở lần 2, cô kể tuyện kết hợp minh hoạ bằng tranh ảnh, mô hình. Tranh minh hoạ, mô hình hay vật thật, với màu sắc đẹp, hài hoà sẽ làm cho câu chuyện trở nên sinh động, thu hút sự tập trung chú ý cao độ của trẻ. Trẻ dễ thuộc, dễ nhớ nội dung tác phẩm. Điều đó sẽ thuận lợi rất nhiều khi tiến hành đàm thoại cùng với trẻ.
Đàm thoại sẽ giúp trẻ đồng cảm với tác giả, và nếu muốn trẻ đồng cảm với tác giả thì ở phía cô phải hiểu được nội dung của tác phẩm, phải hiểu và nói lại được những điều mà tác giả muốn gởi đến trẻ. 
Đàm thoại có thể tiến hành dưới nhiều hình thức: Đặt câu hỏi để trẻ suy nghĩ trả lời, hoặc dùng tranh ảnh, mô hình để cùng đàm thoại về nội dung cốt truyện. Cô chú ý đặt câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng đảm bảo tính hệ thống và lôgic từ đầu đến cuối, không dùng câu hỏi mà trẻ chỉ trả lời có hoặc không.
Ví dụ: Với câu chuyện “Quả bầu tiên”, nội dung câu hỏi đàm thoại có thể là :
 + Trong truyện quả bầu tiên có những nhân vật nào ?
+ Chú bé là người như thế nào?
+ Chú bé đã làm gì khi chim én bị thương 
+ Khi mùa xuân đến, én đã mang gì về cho chú bé ?
+ Vì sao chú bé được hưởng quả bầu tiên đầy vàng bạc ?......
 Quá trình đàm thoại, cô có thể yêu cầu trẻ thể hiện tính cách nhân vật bằng ngữ điệu, cử chỉ giống như thể hiện một vai diễn. Như vậy đã góp phần giảm bớt sự gò bó, căng thẳng, tạo không khí sôi nổi, nhẹ nhàng, thoải mái cho phần đàm thoại.
Khi trẻ đã cảm nhận được truyện, sau phần kể chuyện, để tạo cơ hội cho trẻ được thể hiện khả năng của mình, cô tổ chức cho trẻ kể lại truyện dưới nhiều hình thức: 
+ Cô kể, cháu tham gia, thực hiện bằng cách trả lời những đoạn đối thoại
+ Cháu kể lại truyện hoặc từng đoạn truyện với sự giúp đỡ của cô 
+ Kể chuyện kết hợp minh hoạ tranh .v.v
Và dù kể dưới hình thức nào, cô cũng cần lưu ý việc sửa sai kịp thời cách phát âm, cách diễn đạt của trẻ. Cũng có thể tổ chức cho trẻ kể chuyện dưới hình thức đóng kịch. Hoạt động này trẻ rất hứng thú. 
Đóng kịch cũng là hình thức để phát triển ngôn ngữ, trí nhớ, tư duy của trẻ. đồng thời còn có tác dụng giáo dục ý thức và tinh thần tập thể. Qua hoạt động đóng kịch, trẻ truyền đạt lại nội dung truyện, “Làm sống lại tâm trạng, hành động, ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật trong tác phẩm. Đồng thời thể hiện tình cảm và sự đánh giá của trẻ đối với nhân vật”. Trước khi cho trẻ đóng kịch, cô cần giúp trẻ nhớ lại nội dung truyện, biết thể hiện tính cách, tâm trạng các nhân vật trong truyện, chuẩn bị phần kịch bản chu đáo, sáng tạo để nội dung thêm phong phú, hấp dẫn. Chú ý đến cách tổ chức, hình thức biểu diễn, những đồ dùng và trang phục sao cho phù hợp với nội dung từng truyện. Cũng có thể cô là người dẫn truyện, nhưng cũng có khi chỉ có trẻ tự cùng nhau biểu diễn.
Hình : trẻ tự đóng kịch “chú dê đen”
*Trò chơi tích hợp:
Với chương trình mầm non mới hiện nay, các môn học luôn được đan xen, lồng ghép nhằm nâng cao tính hiệu quả, với đặc điểm của giáo dục mầm non, cho trẻ học bằng chơi, thông qua chơi mà học, văn học không chỉ những giúp trẻ được nghe kể chuyện, đọc thơ mà còn tích hợp được các môn học khác dưới hình thức tổ chức trò chơi. Qua trò chơi giáo viên có thể đánh giá được kiến thức mà trẻ thu lượm được ở mức độ nào, cao hay thấp. Đưa trò chơi vào lớp học là một sự lồng ghép khéo léo, làm sao cho giờ học thêm sinh động. Nên chú ý phối hợp giữa trò chơi động và tĩnh. Lựa chọn những trò chơi có thể tích hợp được nhiều môn học khác, tuy vậy, cũng cần nhớ: Trò chơi dù tổ chức dưới hình thức nào cũng phải đảm bảo tính vừa sức và hứng thú đối vởi trẻ, không lạm dụng, ôm đồm thái quá làm lu mờ nội dung chính của đề tài tiết học.
 Ví dụ: Với câu truyện “Chàng Rùa”, cô tổ chức trò chơi “Ai nhanh hơn”. Bằng cách: Chia trẻ thành 2 đội có số lượng người bằng nhau, cùng thi đua chuyển những cây gỗ (đồ chơi) về làm nhà cho Vua .
Đếm số lượng gỗ mà mỗi đội chuyển được ,so sánh số lượng nhiều hơn, ít hơn và gắn, đọc chữ số tương ứng với kết quả của đội mình phát âm các chữ cái có trên từng cây gỗ. Với bài tập đi theo đường hẹp cùng động tác của người vác gỗ. Sau 3 phút chơi, đội nào có kết quả cao hơn mà không phạm luật là thắng cuộc.
Hình: trẻ chơi trò chơi chuyển gỗ
 Hoặc giáo viên có thể cho trẻ chơi: Chọn những nhân vật gắn đúng vị trí; đoán tên nhân vật; gắn từ phù hợp với tranh; gắn chữ cái đúng với từ trong tranh.v.vCác trò chơi đều được tổ chức mang tính thi đua giữa các tổ, nhóm với nhau.Trẻ chơi một cách tự nguyện, hứng thú và thoải mái.
 Ngoài ra cô có thể tổ chức các trò chơi mang tính tích hợp tạo hình như: nặn, tô, vẽ hoặc ghép tranh các nhân vật chính trong truyện .
Ví dụ: Nặn thỏ Mẹ, thỏ anh, thỏ em trong truyện “Ai đáng khen nhiều hơn”
- Vẽ hình: cậu bé ,quả bầu đối với truyện “ Quả bầu tiên”
- Ghép các mảng tranh thành bức tranh hoàn chỉnh về nhân vật . Thỏ, Gấu, quả táo đối với chuyện “Quả táo”.v.v..
Cô cần thay đổi hình thức chơi một cách linh hoạt, chẳng hạn: Khi cho trẻ chơi ghép các mảng tranh trong chuyện Quả táo, trên nền nhạc, trẻ thực hiện bài tập bật qua vòng thể dục hoặc chui qua cổng, gắn từng mảng của bức tranh ghép thành bức tranh hoàn chỉnh.
Sau mỗi lượt chơi , cô dừng lại kiểm tra , cho trẻ nhận xét , đánh giá kết quả trò chơi , cô cần khen ngợi , động viên trẻ kịp thời , kích thích sự cố gắng , tích cực và sự hưng phấn của trẻ. Sau mỗi lượt chơi, trò chơi nên thay đổi số trẻ chơi, tạo điều kiện cho nhiều cháu được tham gia và có thể nâng yêu cầu của trẻ chơi với những lượt chơi sau. Như vậy kết quả giờ học sẽ cao hơn .
Giờ học sẽ được kết thúc sau phần chơi là một bài hát, câu thơ hay một trò chơi nhẹ như “chim bay, cò bay, tạo dáng”.v.v.. 
+ Đối với thơ:
Các cháu mẫu giáo thích đọc thơ, đặc biệt là những bài thơ có vần điệu dễ nhớ, biểu lộ tình cảm êm ái, vui tươi.
Cũng như truyện để tạo hứng thú và sự tập trung cao độ của trẻ , khi vào bài , cô có thể sử dụng phương pháp trực quan đẻ giúp trẻ đồng cảm, cảm thụ tác phẩm như: sử dụng công nghệ thông tin tranh ảnh , vật thật , đàm thoại với trẻ bằng những câu hỏi ngắn gọn , cho trẻ hát những bài hát có nội dung gần gũi để dẫn dắt trẻ đến với bài thơ.
Ví dụ: Cô bật màn hình với nhiều loại bát có hoa văn khác nhau để giới thiệu bài thơ “cái bát xinh xinh” hay hát bài “Bông hoa mừng cô” để giới thiệu bài thơ “ Bó hoa tặng cô”.v.v..và như vậy, các cháu sẽ đến với tác phẩm một cách dễ dàng, hứng thú.
Quá trình dạy thơ; cũng như truyện, cô phải đảm bảo đủ các phần theo trình tự tiết học. Xác định đúng yêu cầu, nội dung cần truyền đạt.
Để trẻ hiểu, cảm thụ tốt bài thơ thì việc đọc mẫu của cô cũng giữ một vai trò hết sức quan trọng. Vì vậy, khi đọc mẫu, tuỳ từng bài thơ, cô thể hiện sao cho phù hợp . Cách đọc diễn cảm đó là: Biết ngắt giọng đúng chỗ, thể hiện sắc thái, âm điệu của mỗi bài thơ. 
Ví dụ: Bài thơ “Làm anh”cô đọc với giọng vui hóm hỉnh .
Bài thơ “Cô giáo” cô đọc hơi chậm, thể hiện tình cảm tha thiết, dịu dàng .
Còn đối với bài thơ “Ảnh Bác” cô phải đọc với nhịp điệu chậm rãi vừa phải, thể hiện sự trang trọng, tình cảm yêu quý. Biết ngắt giọng ở các câu :
 Cháu ơi/đừng có chơi bời đâu xa 
 Trồng rau /quét bếp đuổi gà 
 Thấy tàu bay mỹ/ nhớ ra hầm ngồi .v.v
Hoặc những bài thơ mang âm hưởng đồng dao như: “con công hay múa” cô đọc theo nhịp 2/2
“ Con công/hay múa
Nó múa/làm sao
Nó rụt /cổ vào
Nó xòe/cánh ra”
Hay bài “rau xanh” cô phải đọc theo cách đối đáp, (đọc nhẹ ở cuối câu, chữ rau đọc nhẹ và đọc mạnh ở 2 chữ cuối)
“Che mưa che nắng
Là rau tần ô
bỏ vô nồi kho
Là rau diếp cá
Cho vô cối giã
Là rau càng cuo
Chỉ đường lên chù
Hành hương thơm ngát
Mực tím ngan ngát
Là rau mồng tơi
Mình yêu suốt đời
Là cây rau má”
Đồng thời khi đọc mẫu cô cần chú ý thể hện kết hợp ánh mắt, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ làm cho bài thơ trở nên sống động. Từ đó sẽ thu hút được sự chú ý của trẻ, tạo cho trẻ sự hưng phấn, hứng thú đọc thơ, có thể cho trẻ đọc nhẩm, đọc thầm theo cô. 
Cô dạy trẻ đọc thơ qua tranh. để nâng cao chất lượng văn học và làm quen với chữ viết bằng một số hình ảnh và đọc luân phiên, đọc đối, đọc đuổi.v.v...Khi trẻ đã đọc thuộc thơ, cô cho trẻ biểu diễn thơ phối hợp làm động tác minh hoạ. Động tác minh hoạ sẽ giúp trẻ dễ nhớ và làmcho tiết học thêm sinh động. Để tránh mệt mỏi, cô cần chú ý thay đổi hình thức, thay đổi đội hình, xen kẽ những trò chơi nhẹ giữa các phần chuyển tiếp trong tiết học như trò chơi “Bốn mùa” “ Chim bay cò bay” “pha nước chanh”.v.vMột điều quan trọng không thể thiếu đó là sửa sai kịp thời cho trẻ về cách phát âm, cách luyện giọng và sự thể hiện cảm xúc của bài thơ.
* Những biện pháp thực hiện nội dung trên:
+ Biện pháp 1:: Dựa vào đặc điểm tâm lý trẻ .
 - Như chúng ta đã biết: Sự phát triển tâm lý của trẻ phụ thuộc vào sự phát triển ngôn ngữ và trí tuệ của trẻ chỉ phát triển hoàn thiện khi trẻ lĩnh hội được ngôn ngữ. Do dó, việc phát triển ngôn ngữ, giúp trẻ phát âm đúng rất là quan trọng. Điều đó cho chúng ta thấy rằng cần phát triển ngôn ngữ đúng lúc, phù hợp với từng lứa tuổi. Môi trường ngôn ngữ là điều kiện không thể thiếu được và không đâu khác, Trường Mầm Non chính là nơi tổ chức môi trường giao tiếp tích cực giúp cho ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt hơn. 
Đối với trẻ, tuy cùng độ tuổi nhưng sự phát triển tâm sinh lý trẻ sẽ không đồng đều, có cháu thì nhanh nhẹn, hoạt bát, nói năng lưu loát và tiếp thu nhanh. Trái lại, có trẻ lại chậm chạp, e dè, nhút nhát trong giao tiếp nói năng chưa biết diễn đạt ý nghĩ của mình rõ ràng bằng ngôn ngữ, thể hiện chưa trọn câu, trọn nghĩa. Do vậy, đòi hỏi cô giáo phải hiểu được đặc điểm tâm lý từng trẻ. Từ đó lựa chọn những biện pháp hướng dẫn, rèn luyện sao cho phù hợp với từng đối tượng. 
 Ví dụ : Với

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_to_chuc_cho_tre_lam_quen_voi_van_hoc.doc