Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ giáo viên trường mầm non Nga Điền

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ giáo viên trường mầm non Nga Điền

Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là nền móng đầu tiên của ngành Giáo dục và Đào tạo. Chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở trường mầm non tốt có tác dụng rất lớn đến chất lượng giáo dục ở bậc học tiếp theo.

Muốn có được đội ngũ giáo viên vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, người cán bộ quản lý phải luôn có kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ giáo viên thường xuyên và kịp thời. Giáo viên phải biết hướng mọi hoạt động, mọi nội dung, biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ vào mục tiêu giáo dục. Để thực hiện được mục tiêu đó đòi hỏi phải có đội ngũ giáo viên có trình độ năng lực thích ứng với thực tiễn phát triển của xã hội.

Vai trò của người giáo viên mầm non rất quan trọng, là người đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện của trẻ và là người mẹ thứ hai của các cháu. Lao động của giáo viên mầm non là lao động mang tính khoa học và nghệ thuật, đòi hỏi công phu vì cô giáo là tấm gương cho trẻ học và bắt chước. Chính vì thế cô giáo mầm non phải hội tụ đầy đủ những yêu cầu về phẩm chất và năng lực chuyên môn để thực hiện mục tiêu chương trình GDMN.

 Thế kỷ 21 là thế kỷ của trí tuệ, là thế kỷ của nền kinh tế trí thức. Đất nước Việt Nam tiến tới năm 2020 với sự thay đổi của nền kinh tế, xã hội và công nghệ cùng với nó là hình ảnh người công dân Việt Nam mới với trình độ học vấn cao, năng động, sáng tạo, thích ứng với sự biến đổi không ngừng của xã hội, Giáo dục mầm non được đặt ở vị trí quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân, đây là bậc học xây dựng nền móng đầu tiên cho sự nghiệp giáo dục, nền móng ấy giúp cho một thế hệ mầm non có tâm thế vững chắc để bước vào giáo dục phổ thông. Trách nhiệm này đặt trên vai ngành Giáo dục đòi hỏi ngành phải có những nội dung chương trình phù hợp, đổi mới phương pháp dạy và học một cách tích cực.

 

doc 23 trang thuychi01 9365
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ giáo viên trường mầm non Nga Điền", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA 
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC 
CHUYÊN MÔN CHO ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
TRƯỜNG MẦM NON NGA ĐIỀN
Người thực hiện: 	Mai Thị Hòe
Chức vụ: 	P. Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: 	Trường Mầm non Nga Điền
SKKN thuộc lĩnh vực: 	Quản lý
THANH HÓA NĂM 2016
I. MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài.
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là nền móng đầu tiên của ngành Giáo dục và Đào tạo. Chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở trường mầm non tốt có tác dụng rất lớn đến chất lượng giáo dục ở bậc học tiếp theo. 
Muốn có được đội ngũ giáo viên vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, người cán bộ quản lý phải luôn có kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ giáo viên thường xuyên và kịp thời. Giáo viên phải biết hướng mọi hoạt động, mọi nội dung, biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ vào mục tiêu giáo dục. Để thực hiện được mục tiêu đó đòi hỏi phải có đội ngũ giáo viên có trình độ năng lực thích ứng với thực tiễn phát triển của xã hội.
Vai trò của người giáo viên mầm non rất quan trọng, là người đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện của trẻ và là người mẹ thứ hai của các cháu. Lao động của giáo viên mầm non là lao động mang tính khoa học và nghệ thuật, đòi hỏi công phu vì cô giáo là tấm gương cho trẻ học và bắt chước. Chính vì thế cô giáo mầm non phải hội tụ đầy đủ những yêu cầu về phẩm chất và năng lực chuyên môn để thực hiện mục tiêu chương trình GDMN.
 Thế kỷ 21 là thế kỷ của trí tuệ, là thế kỷ của nền kinh tế trí thức. Đất nước Việt Nam tiến tới năm 2020 với sự thay đổi của nền kinh tế, xã hội và công nghệ cùng với nó là hình ảnh người công dân Việt Nam mới với trình độ học vấn cao, năng động, sáng tạo, thích ứng với sự biến đổi không ngừng của xã hội, Giáo dục mầm non được đặt ở vị trí quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân, đây là bậc học xây dựng nền móng đầu tiên cho sự nghiệp giáo dục, nền móng ấy giúp cho một thế hệ mầm non có tâm thế vững chắc để bước vào giáo dục phổ thông. Trách nhiệm này đặt trên vai ngành Giáo dục đòi hỏi ngành phải có những nội dung chương trình phù hợp, đổi mới phương pháp dạy và học một cách tích cực.
Chính vì vậy Đảng ta coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, bởi vì giáo dục có vai trò quan trọng trọng trong chiến lược xây dựng con người, chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã xác định: “cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Nghị quyết đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: “Phát triển giáo dục - đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn nhân lực, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế bền vững”.
 Sự nghiệp giáo dục có một vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước về trước mắt cũng như lâu dài . Dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam, giáo dục mầm non trong những năm qua đã có những chuyển biến rất lớn về mọi mặt như: Quy mô trường lớp được mở rộng, số lượng trẻ ra lớp đạt tỷ lệ cao, chất lượng chăm sóc và nuôi dưỡng được nâng lên rõ rệt. Những thành tựu mà giáo dục mầm non đã đạt được do nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân quan trọng và chủ yếu nhất là sự trưởng thành của đội ngũ cán bộ, giáo viên. Chính họ là lực lượng nòng cốt, là lực lượng quyết định toàn bộ sự nghiệp giáo dục mầm non họ đã, đang và sẽ tạo nên những kết quả của sự nghiệp giáo dục mầm non.
Đội ngũ cán bộ giáo viên có vai trò quyết định trong việc chăm sóc giáo dục trẻ ở các trường mầm non vì vậy bất kỳ người quản lý nào đều suy nghĩ: làm thế nào để đơn vị mình trở thành một đơn vị phát triển tốt. Muốn thế trước hết phải có đội ngũ mạnh, vững về chuyên môn và điều đó không thể bỏ qua việc bồi dưỡng chuyên môn cho lực lượng cán bộ giáo viên. Mục tiêu của công tác bồi dưỡng là nhằm hoàn thiện quá trình đào tạo, khắc phục những thiếu sót lệch lạc trong công tác giảng dạy, về quan điểm, nội dung phương pháp giáo dục đồng thời theo kịp những yêu cầu của xã hội. Người trực tiếp xây dựng kế hoạch bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên chính là Phó Hiệu trưởng phụ trách chuyên môn.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục mầm non chiếm vị trí vô cùng quan trọng, là nền tảng của nghành Giáo dục và Đào tạo; Bác Hồ kính yêu đã từng nói: “Giáo dục mầm non tốt sẽ mở đầu cho một nền giáo dục tốt”. Chất lượng giáo dục trẻ ở trường Mầm Non tốt có tác dụng rất lớn đến chất lượng giáo dục ở bậc học tiếp theo. Xuất phát từ những lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ giáo viên trường mầm non Nga Điền” để nghiên cứu với mong muốn được góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp phát triển giáo dục của địa phương.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu để nhằm tìm ra các giải pháp cải tiến nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên cả về trình độ, phẩm chất và năng lực chuyên môn, nâng cao chất lượng trên trẻ tại trường mầm non Nga Điền – Nga Sơn – Thanh Hóa
3. Đối tượng nghiên cứu.
Phó hiệu trưởng, giáo viên, học sinh, phụ huynh để nâng cao chất lượng trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ, trong trường mầm non Nga Điền – Nga Sơn – Thanh Hóa
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp sau: 
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát những vấn đề liên quan đến đề tài.
- Phương pháp thực hành, trải nghiệm.
 - Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Nghị quyết hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã nêu: “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng của giáo dục và được xã hội tôn vinh. Giáo viên phải có đủ đức, đủ tài, đo đó phải đào tạo giáo viên có chất lượng cao, thực hiện chương trình giáo dục thường xuyên, bồi dưỡng, chuẩn hóa, nâng cao phẩm chất của người giáo viên”. 
Hiếu học là truyền thống quí báu của dân tộc ta, từ ngàn xưa ông cha ta đã coi trọng sự nghiệp giáo dục trong đời sống xã hội, trong sự phát triển của đất nước, luôn coi giáo dục có quan hệ đến việc hệ trọng của quốc gia, đến an nguy, suy, thịnh của dân tộc. Các thế hệ cha ông đi trước cho rằng việc “Quốc kế dân sinh” phải lấy giáo dục làm đầu. Sự giàu mạnh của đất nước không tách rời khỏi giáo dục. Chăm lo cho giáo dục là chăm lo cho con người, mà con người là nhân tố quyết định đến sự phát triển của xã hội. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”.
Trong sự nghiệp trồng người thì sự đóng góp của đội ngũ giáo viên là hết sức quan trọng, góp phần vào xây dựng và phát triển đất nước, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và hoàn thiện nhân cách công dân. Như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Phải có đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, giỏi về chuyên môn, có tính nhân văn cao thì mới có chất lượng cao, tạo sự chuyển biến của đội ngũ giáo viên hiện nay mới đảm bảo thực hiện nội dung và phương pháp giáo dục. Đây là vấn đề then chốt của sự nghiệp giáo dục mà chúng ta phải trăn trở vượt qua mọi khó khăn để giải quyết cho bằng được”.
Nâng cao năng lực chuyên môn góp phần thực hiện cho giáo viên những thắng lợi nghị quyết số 29 của ban chấp hành TW.
Công tác bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên là quá trình tác động tới tập thể, cá nhân giáo viên, tạo cơ hội cho giáo viên tham gia vào các hoạt động dạy học, học tập trong và ngoài nhà trường để giáo viên bổ sung kiến thức, kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm nhằm nâng cao phẩm chất năng lực sư phạm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục (Theo thông tư 02 chuẩn nghề nghiệp GV MN). Vậy vấn đề ở đây là tìm hiểu tư tưởng, tình cảm có ảnh hưởng tới chất lượng giảng dạy của giáo viên hay không? Đời sống vật chất và tinh thần có làm ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ hay không? Có làm giảm lòng nhiệt tình của giáo viên hay không? Cơ sở vật chất có ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục hay không? Một loạt vấn đề đặt ra câu hỏi và người cán bộ quản lý phải nghiên cứu và có những biện pháp phù hợp với thực tiễn nhà trường.
Trong mỗi nhà trường muốn không ngừng phát triển đi lên thì việc nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ giáo viên là vấn đề cần thiết. Trong tất cả các điều kiện thiết yếu của nhà trường thì yêu cầu về đội ngũ cán bộ giáo viên là yêu cầu quan trọng không thể thiếu được. Bởi một nhà trường có một cơ sở vật chất khang trang nhưng đội ngũ giáo viên yếu kém, không phát huy được vai trò trách nhiệm của mình thì sự đầy đủ về vật chất cũng trở nên vô nghĩa, chất lượng giáo dục của nhà trường không thể nâng cao được. 
Từ nhận thức sâu sắc về vai trò của đội ngũ giáo viên là lực lượng nòng cốt quyết định chất lượng giáo dục của mỗi nhà trường. Chính vì vậy mà tôi luôn quan tâm đến việc xây dựng, bồi dưỡng giáo viên để ngành học có đội ngũ giáo viên đồng bộ về cơ cấu, có phẩm chất đạo đức tốt, chất lượng chuyên môn cao, có lòng yêu nghề mếm trẻ, tận tụy say sưa với công việc, coi trường như nhà, quí trẻ như con, có như vậy thì chất lượng giáo dục mới đạt hiệu quả cao. 
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Thuận lợi:
Ban giám hiệu là những người năng động, có kế hoạch cụ thể cho việc bồi dưỡng giáo viên cũng như đưa ra các phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ ngày càng đạt kết quả cao.
Được sự quan tâm ủng hộ của các cấp, các ngành và sự đồng thuận cao trong các bậc phụ huynh đã tạo điều kiện cho nhà trường trong việc xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, tổ chức chăm sóc giáo dục trẻ để đảm bảo cho giáo viên thực hiện tốt chương trình chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.
Đội ngũ giáo viên trẻ, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ chuẩn và trên chuẩn, nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, tích cực tham gia vào các hoạt động, luôn luôn sáng tạo trong các lĩnh vực, 100% giáo viên soạn bài bằng máy vi tính, một số giáo viên biết soạn giáo án điện tử, biết sử dụng công nghệ thông tin vào tổ chức hoạt động cho trẻ
2.2. Khó khăn:
Nhà trường có hai cơ sở cách xa nhau, nhiều giáo viên ở xa trường nên còn gặp nhiều khó khăn trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ của mình. Đồ dùng trang thiết bị dạy học cho trẻ mang tính chất đối phó chưa đầy đủ và phong phú, để tạo điều kiện cho giáo viên sử dụng và thực hiện. 
Đội ngũ giáo viên của nhà trường còn rất trẻ nên kinh nghiệm thực tế, khả năng giao tiếp, ứng xử các tình huống sư phạm chưa linh hoạt. Khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của một số giáo viên còn yếu. Nhiều giáo viên mới tốt nghiệp ra trường họ chưa qua thực tế và chưa kịp nắm bắt chương trình GDMN. Bên cạnh đó giáo viên còn có một số hạn chế, chưa linh hoạt sáng tạo trong việc sử dụng các phương pháp lồng ghép tích hợp, chưa mạnh dạn trong xây dựng các chủ đề mang tính đổi mới, chưa tạo cơ hội cho trẻ phát huy tính tích cực, sự sáng tạo của trẻ, thiết kế đồ dùng, đồ chơi tổ chức cho trẻ tham gia hoạt động chưa mang tính chất mở.
Một số giáo viên chưa nhận thức đầy đủ về phương pháp “lấy trẻ làm trung tâm” giáo viên còn nói nhiều, còn lúng túng trong việc vận dụng các phương pháp vào thực tế giảng dạy, chưa linh hoạt sáng tạo trong sử dụng các phương pháp để tạo cơ hội cho trẻ hoạt động tích cực. Năng lực chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề của giáo viên không đồng đều. Nhiều giáo viên mới ra trường trình độ tay nghề còn non, nhiều giáo viên có con nhỏ nên cũng ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lương chăm sóc - nuôi dưỡng - giáo dục trẻ trong nhà trường.
Việc quan tâm chăm sóc con em của một số phụ huynh chưa đáp ứng với nhu cầu giáo dục ngày càng cao hiện nay.
 2.3. Kết quả thực trạng ban đầu qua khảo sát:
Ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát thực tế chất lượng đội ngũ giáo viên, học sinh tại trường mình đang công tác và kết quả thu được như sau:
Bảng 1: Kết quả đánh giá xếp loại giáo viên
TT
Nội dung khảo sát 
Tổng số 
Xếp loại
XS
%
K
%
TB
%
Y
%
1
Phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống
18
5
28
7
39
4
22
2
11
2
Kiến Thức
18
4
22
5
28
6
33
3
17
3
Kỹ năng sư phạm
18
4
22
6
33
5
28
3
17
* Bảng 2: Kết quả chất lượng trên trẻ:
- Nhà trẻ
TT
Nội dung khảo sát
 Số trẻ
Kết quả trên trẻ
Đạt
CĐ
T
%
K
%
TB
%
Y
%
1
Phát triển thể chất
31
6
19
7
23
10
32
8
26
2
Phát triển nhận thức
31
5
16
5
16
12
39
9
29
3
Phát triển ngôn ngữ
31
6
19
6
19
9
29
10
32
4
PTTC-QHXH
31
5
16
6
19
11
36
9
29
Tổng cộng
31
6
19
6
19
10
32
9
29
- Mẫu giáo
TT
Nội dung khảo sát
 Số trẻ
Kết quả trên trẻ
Đạt
CĐ
T
%
K
%
TB
%
Y
%
1
Phát triển thể chất
325
71
22
78
24
81
25
95
29
2
Phát triển nhận thức
325
70
21
84
26
80
25
91
28
3
Phát triển ngôn ngữ
325
72
22
74
23
83
25
96
30
4
PTTC-QHXH
325
69
21
79
25
82
25
95
29
5
Phát triển thẩm mỹ
325
71
22
75
23
85
26
94
29
Tổng cộng
325
71
22
78
24
82
25
94
29
Qua khảo sát chất lượng giáo viên, số giáo viên khá giỏi còn thấp đạt 55%. Số trẻ đạt (Tốt, khá, trung bình) chưa cao chỉ đạt: 71% Số trẻ chưa đạt còn nhiều chiếm: 29 %. Trước tình hình thực trạng như vậy, tôi suy nghĩ và tìm ra một số biện pháp chỉ đạo nhằm nâng cao năng lực chuyên môn cho giáo viên. Góp phần không ngừng nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ trong trường Mầm non Nga Điền.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
3.1. Tăng cường công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng của giáo viên.
Công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng có ý nghĩa to lớn trong việc tăng cường
chất lượng đội ngũ về chính trị, chuyên môn nghiệp vụ. Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ là việc làm không thể thiếu của mỗi giáo viên trong suốt quá trình giảng dạy. Vì vậy trong quá trình giảng dạy giáo viên cần được bồi dưỡng những kiến thức cập nhật, nâng cao trình độ chuyên môn của mình. Bồi dưỡng giáo viên cần chú ý khả năng thực tế về trình độ, năng lực, nhu cầu bồi dưỡng của từng giáo viên, để lựa chọn nội dung, phương pháp bồi dưỡng cho phù hợp.
Để thực hiện hiệu quả công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng trước hết tôi phải xây dựng kế hoạch, bao gồm kế hoạch bồi dưỡng dài hạn và bồi dưỡng ngắn hạn.
- Bồi dưỡng dài hạn là bồi dưỡng nâng cao trình độ cho mỗi giáo viên. Căn cứ vào tình hình thực tế về trình độ đội ngũ, nhu cầu bồi dưỡng cá nhân để tiến tới mục tiêu nâng cao trình độ trên chuẩn đối với 100% giáo viên trẻ, bồi dưỡng về trình độ tin học, ngoại ngữ để đáp ứng yêu cầu thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn của nhà trường.
- Bồi dưỡng ngắn hạn là bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng chuyên đề cho giáo viên.
+ Đối với công tác bồi dưỡng thường xuyên: Việc hướng dẫn cho giáo viên học tập BDTX là việc làm nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm cho mỗi giáo viên. Trong quá trình học tập BDTX chúng tôi chỉ đạo giáo viên xây dựng kế hoạch tự học, tự bồi dưỡng, tự rèn luyện căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ của bản thân. Hướng dẫn giáo viên lựa chọn hình thức học tập phù hợp với từng nội dung bồi dưỡng. Kiểm tra đánh giá nghiêm túc kết quả học tập BDTX theo từng tháng, từng kỳ và cuối năm học. Cuối năm nhận xét, đánh giá kết quả học tập của từng giáo viên.
+ Đối với công tác bồi dưỡng chuyên đề: Việc vận dụng giáo dục lồng ghép các chuyên đề vào các hoạt động chăm sóc - nuôi dưỡng - giáo dục trẻ hàng ngày là việc làm cần thiết.
Vì vậy ngay từ đầu năm học tôi xây dựng kế hoạch thực hiện chuyên đề, xác định được những chuyên đề trọng tâm cần thực hiện trong năm học. Đó là những chuyên đề (Xây dựng môi trường giáo dục trong trường mầm non, bảo vệ môi trường trong trường mầm non, phát triển vận động, sử dụng tiết kiệm năng lượng trong trường mầm non, phòng chống thảm họa thiên tai trong trường MN). Sau đó tham mưu với hiệu trưởng tổ chức bồi dưỡng chuyên đề cho CBGV trong trường. Để giúp giáo viên hệ thống và tiếp thu những kiến thức của các chuyên đề một cách có hiệu quả tôi đã phối hợp cùng với các tổ trưởng chuyên môn phân loại giáo viên để thuận tiện cho việc triển khai và tiếp thu chuyên đề.
Cũng như đã nêu ở trên năng lực chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề của giáo viên không đồng đều, nhiều giáo viên mới vào trường trình độ tay nghề còn non, không thể mở chuyên đề tập trung toàn trường vì vậy chúng tôi phải tổ chức học hai lớp riêng biệt. 
- Lớp thứ nhất: Dành cho những giáo viên đã có kiến thức chuyên đề. Với những giáo viên thuộc đối tượng này tôi áp dụng hình thức ôn tập. Phát cho mỗi giáo viên một bài tập trắc nghiệm mà tôi đã soạn thảo sẵn.
	VD: Khi hướng dẫn chuyên đề “Sử dụng tiết kiệm năng lượng trong trường mầm non”. Bài tập tôi xây dựng có nội dung đơn giản mục đích giúp giáo viên biết và vận dụng tích hợp chuyên đề phù hợp với từng chủ đề vì chuyên đề này không phải chủ đề nào cũng có thể tích hợp được: 
Đồng chí hãy chọn một phương án và khoanh vào câu trả lời đúng.
* Chuyên đề “Tiết kiệm năng lượng” chỉ tích hợp được vào các chủ đề như chủ đề: (Trường MN, Giao thông, Thế giới thực vật, Quê hương - Đất nước - Bác Hồ)
* Chuyên đề “Tiết kiệm năng lượng” chỉ tích hợp được vào các chủ đề như chủ đề : (Trường MN, Bản thân, Gia đình, Giao thông, Hiện tượng tự nhiên)
* Chuyên đề “Tiết kiệm năng lượng” áp dụng tích hợp vào tất cả các chủ đề (Bản thân, Gia đình, Hiện tượng tự nhiên, Thế giới động vật)
* Tích hợp tất cả các chủ đề.
Yêu cầu giáo viên chọn một phương án đúng (với bài tập này thì phương án b là phương án đúng), sau đó tổng hợp lại xem có bao nhiêu giáo viên chọn được phương án đúng và mời một giáo viên trình bầy nội dung cho cả lớp học cùng nghe.
Hoặc: Tôi đưa ra câu hỏi “Nêu các hoạt động trong ngày có thể tích hợp chuyên đề “Giáo dục dinh dưỡng và VSATTP”.
- Lớp thứ hai: Những giáo viên thuộc đối tượng này do chưa qua học các chuyên đề nào nên tôi phải cung cấp kiến thức cho giáo viên bằng cách in tài liệu cho giáo viên tham khảo và sau thảo luận theo những nội dung cần truyền đạt. 
VD: Đối với chuyên đề “Xây dựng môi trường giáo dục trong trường MN”. Tôi đưa ra các câu hỏi như: 
Câu 1: Đồng chí hiểu như thế nào về môi trường giáo dục trong trường MN.
Câu 2: Môi trường giáo dục có vai trò như thế nào trong việc thực hiện các chủ đề? Vai trò của việc xây dựng môi trường cho trẻ hoạt động.
Câu 3: Nêu nguyên tắc xây dựng môi trường giáo dục trong trường MN? Khi trang trí lớp cần đảm bảo những yêu cầu nào?
Hoặc: Đối với chuyên đề “Phòng chống thảm họa thiên tai trong trường MN”. Tôi đưa ra câu hỏi như sau: 
Câu 1: Như thế nào là hiểm họa, thảm họa thiên tai?
Câu 2: Dấu hiệu, nguyên nhân, biện pháp phòng ngừa thiên tai?
 Hoặc: Đối với chuyên đề “Phát triển vận động”. Tôi đưa ra câu hỏi như sau: 
Câu 1: Đồng chí hiểu như thế nào là phát triển vận động?
Câu 2: Nêu các biện pháp nhằm phát triển vận động cho trẻ?
Cả hai lớp học đều yêu cầu giáo viên soạn giáo án thực hành lồng ghép nội dung chuyên đề vào hoạt động giáo dục tại nhóm lớp mình đang phụ trách.
Ngoài việc ôn tập các chuyên đề cần thực hiện trong năm học ra tôi còn tổ chức chuyên đề, hướng dẫn cho giáo viên cách thực hiện các loại hồ sơ sổ sách cần có trong mỗi nhóm lớp, cách xây dựng kế hoạch năm học, kế hoạch chủ đề, lịch dạy hàng ngày, hàng tuần sao cho phù hợp với từng độ tuổi, từng chủ đề và nhất là phải phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương, cách đánh giá kết quả chất lượng ở từng độ tuổi. 
Kết quả: Trong năm học nhà trường có 9 giáo viên tham gia học đại học nâng cao trình độ. Có 18 giáo viên tham gia học tập BDTX, đạt loại xuất sắc 9/18 = 50%,đạt loại khá 9/18 =50 %, không có giáo viên trung bình. Mở được 2 đợt chuyên đề. Có 22/22 CBGV tham gia học tập và tiếp thu chuyên đề, vận dụng tích hợp các chuyên đề vào quá trình CS - ND - GD trẻ hàng ngày phù hợp với độ tuổi được phân công đạt kết quả tốt. 10/10 nhóm lớp thực hiện tốt các loại hồ sơ sổ sách và xây dựng kế hoạch phù hợp với từng độ tuổi, đánh giá khảo sát chất lượng chính xác phù hợp với độ tuổi nhà trẻ và độ tuổi mẫu giáo.

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_nang_luc_chu.doc