Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tôt bài văn tả người

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tôt bài văn tả người

Như chúng ta đã biết phân môn Tập làm văn là nhiệm vụ then chốt của môn Tiếng Việt. Nó có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Việc dạy Tập làm văn ở Tiểu học là góp phần rèn luyện cho học sinh năng lực sử dụng tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện cho các em giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày và học tốt các môn học khác. Thế nhưng đa số học sinh gặp rất nhiều khó khăn khi làm văn miêu tả, đặc biệt là văn tả người.

 Qua nhiều năm giảng dạy phân môn tập làm văn lớp 5, tôi nhận thấy khi làm kiểu bài tả người, học sinh còn nhiều lúng túng, máy móc, khuôn mẫu, thấy gì tả nấy, chưa biết lựa chọn các chi tiết nổi bật, các đặc điểm riêng của từng người để miêu tả. Ví dụ với đề bài tả cô giáo hầu như bài làm nào của các em cũng tả cô giáo có dáng người thon thả, mái tóc óng mượt luôn xõa ngang vai. Làn da trắng hồng như bôi một lớp phấn mỏng. Giọng cô ấm áp. Môi luôn tươi cười Khi chấm bài hầu hết chúng ta thường gặp những cô giáo có hình dáng, tính tình giống nhau. Hoặc với đề bài tả mẹ, tôi thường nói đùa với học sinh sao mẹ của các bạn giống nhau đến thế, giống từ ngoại hình đến tính cách – đều có nước da trắng hồng, đôi môi luôn nở nụ cười tươi tắn, đôi mắt bồ câu long lanh.

 Do đó, ngay từ đầu năm học tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt bài văn tả người”.

 

docx 16 trang thuychi01 18126
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tôt bài văn tả người", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ THANH HÓA
************************
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 
LÀM TÔT BÀI VĂN TẢ NGƯỜI
 Người thực hiện: Lê Thị Ngoan
	 Chức vụ : Giáo viên
	 Đơn vị công tác : Trường Tiểu học Minh Khai I
	 Sáng kiến kinh nghiệm thuộc lĩnh vực môn Tiếng Việt
THANH HÓA, NĂM HỌC 2016
I. MỞ ĐẦU:
1. Lí do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết phân môn Tập làm văn là nhiệm vụ then chốt của môn Tiếng Việt. Nó có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Việc dạy Tập làm văn ở Tiểu học là góp phần rèn luyện cho học sinh năng lực sử dụng tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện cho các em giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày và học tốt các môn học khác. Thế nhưng đa số học sinh gặp rất nhiều khó khăn khi làm văn miêu tả, đặc biệt là văn tả người.	
	Qua nhiều năm giảng dạy phân môn tập làm văn lớp 5, tôi nhận thấy khi làm kiểu bài tả người, học sinh còn nhiều lúng túng, máy móc, khuôn mẫu, thấy gì tả nấy, chưa biết lựa chọn các chi tiết nổi bật, các đặc điểm riêng của từng người để miêu tả. Ví dụ với đề bài tả cô giáo hầu như bài làm nào của các em cũng tả cô giáo có dáng người thon thả, mái tóc óng mượt luôn xõa ngang vai. Làn da trắng hồng như bôi một lớp phấn mỏng. Giọng cô ấm áp. Môi luôn tươi cười Khi chấm bài hầu hết chúng ta thường gặp những cô giáo có hình dáng, tính tình giống nhau. Hoặc với đề bài tả mẹ, tôi thường nói đùa với học sinh sao mẹ của các bạn giống nhau đến thế, giống từ ngoại hình đến tính cách – đều có nước da trắng hồng, đôi môi luôn nở nụ cười tươi tắn, đôi mắt bồ câu long lanh... 
	Do đó, ngay từ đầu năm học tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt bài văn tả người”.
2. Mục đích nghiên cứu: 
	Hình thành cho học sinh kỹ năng viết văn tả người tốt, tạo cho các em hứng thú khi học phân môn tập làm văn. Đây là việc làm cần thiết đối với mỗi giáo viên làm công tác giảng dạy góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.
3. Đối tượng nghiên cứu: 
	Học sinh lớp 5A trường Tiểu học Minh Khai 1- Thành phố Thanh Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu:
	- Ph­¬ng ph¸p quan s¸t
	- Ph­¬ng ph¸p pháng vÊn
	- Ph­¬ng ph¸p ph©n tÝch tæng hîp
	- Ph­¬ng ph¸p tr¾c nghiÖm
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
A. Cơ sở lý luận: 	
	Văn tả người không phải là đưa ra những lời nhận xét chung chung, những đánh giá trừu tượng về con người... Mà miêu tả là dùng ngôn ngữ, lời văn sống động để giúp người đọc nhìn rõ chúng tưởng như làm hiện lên trước mắt người đọc một con người bằng xương, bằng thịt, gợi cho người đọc cảm nhận, suy nghĩ như mình. Tuy nhiên hình ảnh một con người không phải là một bức ảnh chụp lại, sao chép vụng về. Nó là kết quả của những nhận xét tinh tế, những rung động sâu sắc mà người viết đã thu được khi quan sát.
B. Thực trạng của vấn đề:
	Trong văn miêu tả nói chung, kiểu văn tả người vừa quan trọng vừa khó. Quan trọng vì nó giúp học sinh quan sát, khắc họa và đánh giá một con người mà các em tiếp xúc trong cuộc sống; đánh giá chung tỏ thái độ yêu ghét đúng mức tức là tự bồi dưỡng được những tình cảm đạo đức tốt đẹp của con người mới. Tả người khó vì phải biết chọn lọc những chi tiết thật nổi bật, cho biết người đó ở lứa tuổi nào, làm nghề gì và tính nết ra sao Hơn thế nữa, bài văn tả người thành công nhất là ở chỗ nó tô đậm một vài nét đặc sắc làm cho người ta phân biệt rõ người được tả với những người khác. Kiểu bài văn tả người trong chương trình lớp 5 bắt đầu từ tuần 12. Sau khi tiến hành khảo sát bài đầu tiên : Tả lại cô giáo hoặc thầy giáo đã dạy em trong những năm học trước.Tôi nhận thấy học sinh làm bài có những điểm chung như sau: 
 - Các em thường tả cô giáo là một người trẻ, đẹp ăn mặc thời trang, tính nết dịu hiền, không bao giờ mắng mỏ học sinh. Như vậy là các em đã thần hóa đối tượng miêu tả. Có em đã tả cô giáo mình theo khuôn mẫu tả mẹ hay một diễn viên, một ca sĩ mà em yêu thích: Đó là người có cặp mắt bồ câu long lanh, lông mày lá liễu, nước da trắng hồng, mái tóc dài, đen nhánh trong con mắt của các em thầy, cô giáo người một người hoàn mĩ. Điều đó cũng thật dễ hiểu. Nhưng trong thực tế, thầy, cô giáo cũng chỉ là một người bình thường như bao người bình thường khác: tức là cũng
 giản dị, cũng vất vả, dậy sớm thức khuya
	- Vì là học sinh lớp 5 nên cách làm bài của các em ít nhiều cũng mang tính nghệ thuật. Có nghĩa là các em đã biết sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh, các biện pháp nghệ thuật tu từ song nhiều chi tiết còn thiếu tính chân thực, ngôn từ chưa được gọt giũa, hình ảnh so sánh khập khiễng, cách dung từ vụng về.
 - Ví dụ một học sinh tả cô giáo: “Miệng bằng cục tẩy và đỏ, đôi hàm răng trắng muốt của cô như lông chim bồ câu trắng” hoặc “Đôi mắt cô tròn như hai hòn bi vekhuôn mặt cô hồng hào vẻ vang. Cô ăn mặc rất tự nhiên như ở nhà. Cô luôn đi thon thả và nhẹ nhàng”
	- Lại có em tả thực như sau: “Cô năm nay 34 tuổi cùng tuổi với bố em. Chồng cô là phó bí thư Đảng ủy phường. Cô có hai con: chị học lớp 6 hơn em một tuổi và một em học lớp mẫu giáo”
	- Vốn từ ngữ của các em còn hạn chế nên bài làm còn mang tính liệt kê, hô khẩu hiệu như: “Bạn ấy rất khiêm tốn. Giọng của bạn ấy rất hay. Bạn cũng rất hiền từ”.
	- Lại có em đưa vào bài làm của mình những chi tiết chưa chắt lọc, thiếu tính giáo dục. Ví dụ với đề bài “ Tả người bạn thân nhất của em”, có em viết: “ Bạn Hùng rất tốt với em, bạn ấy thường mua quà cho em ăn sau buổi tan học”
	Tóm lại, cái hạn chế lớn nhất của các em trong làm bài văn miêu tả nói chung và kiểu bài văn tả người nói riêng là bệnh công thức, khuôn sáo, máy móc, thiếu tính chân thực và cả nghệ thuật nữa. Nói cụ thể là các em thường phụ thuộc vào bài mẫu, không kể đề bài quy định như thế nào. Với cách làm bài ấy, các em không cần biết đến đối tượng miêu tả, không quan sát và không có cảm xúc gì về đối tượng. Điểm nữa đó là sự miêu tả hời hợt, chung chung không có một sắc thái riêng biệt cụ thể nào của đối tượng được tả. Nguyên nhân chủ yếu vì các em không biết quan sát nên không có nhận xét gì cụ thể, không biết lựa chọn chi tiết nổi bật.
C. Giải pháp và tổ chức thực hiện
	Để giúp học sinh làm được một bài văn tả người đạt được những yêu cầu như vừa mang tính chân thực, vừa mang tính mang tính nghệ thuật và mỗi bài văn là một sản phẩm sáng tạo tôi đã hướng dẫn các em làm như sau:
1. Rèn học sinh thực hiện tốt khâu chuẩn bị bài mới :
	- Do thời gian dành cho tiết tập làm văn trên lớp chỉ từ 35 đến 40 phút, vì thế các em cần phải có sự đầu tư từ trước, nếu không chuẩn bị bài thì việc học tập trên lớp của các em gặp nhiều khó khăn và kém hiệu quả. Tuy nhiên, việc phải chuẩn bị gì và chuẩn bị như thế nào còn phụ thuộc vào sự định hướng của giáo viên. Do đó, tôi thường định hướng cho các em chuẩn bị bài một cách rõ ràng, cụ thể: 
	a. Trước hết phải tập quan sát, phải có công quan sát để tìm ra những nét nổi bật, độc đáo của đối tượng quan sát. Có thể ghi nhớ trong đầu, có thể ghi chép lại vào vở. Có thể ghi dáng vẻ bên ngoài, rồi qua dáng vẻ bên ngoài mà ghi tâm trạng bên trong. Có thể quan sát trực tiếp hoặc hồi tưởng lại bằng trí nhớ bởi hầu như những đối tượng tả các em đã từng gặp hằng ngày.
	b. Cung cấp cho học sinh những điều cần lưu ý khi quan sát và miêu tả người:
	- Hình dáng, tính tình, hành động của con người phụ thuộc vào tuổi tác, giới tính, hoàn cảnh sống, điều kiện sống.
	Trước hết chúng ta cần lưu ý đến tuổi tác. Mỗi lứa tuổi khác nhau có sự phát triển riêng về cơ thể, sẽ có những nét tâm lý riêng biệt và có những hành động tương ứng. Ví dụ em bé bụ bẫm, lẫm chẫm tập đi, còn cụ già tóc bạc, da nhăn nheo, đi đứng với dáng vẻ lọm khọm
	Giới tính cũng có ảnh hưởng lớn. Các em hãy quan sát ngay chính lớp mình xem thói quen sinh hoạt và ý thích của các bạn nam khác các bạn nữ như thế nào?
	Hoàn cảnh sống, điều kiện sống sẽ tạo cho con người thói quen, tính tình, cử chỉ riêng biệt. Nếu em là con một em sẽ nhõng nhẽo, khảnh ăn nhưng nếu là nhà đông con lại khác.
	Ở tuổi trưởng thành, nghề nghiệp sẽ để lại nhiều dấu ấn ngay từ hình dáng đến tính tình, cử chỉ của mỗi người. Một trí thức hay phải tiếp xúc với sách vở tất nhiên dễ bị cận hơn một nông dân. Một dân chài thường có nước da đen sạm và khỏe mạnh, vạm vỡ khác một nhà nghiên cứu khoa
 học
	Như vậy, tuổi tác, giới tính, hoàn cảnh sống và điều kiện sống, nghề nghiệp sẽ tạo ra những điểm khác nhau ở từng tầng lớp người và mỗi người. Tuy nhiên chúng ta cần phải lưu ý: Mỗi con người tự thân còn mang nhiều nét riêng biệt không thể trộn lẫn. Tìm cho được hai khuôn mặt giống nhau đâu phải dễ! Và dẫu hình dáng có giống nhau đến mấy nhưng tính tình vẫn khác biệt. Tại sao một người nào đó, tuy ta chưa nhìn rõ mặt nhưng chỉ cần nghe giọng nói, tiếng bước chân đi đã nhận ra ngay?
	Khi quan sát cần tập trung ghi lại những cái chung, cái riêng của người được miêu tả.
	- Khi quan sát các em có thể dùng bằng mắt nhìn, tai nghe và điều cần thiết là phải tiếp xúc, trò chuyện, trao đổi ý kiến nhìn khuôn mặt, dáng đi, nghe giọng nói, xem xét cách nói, cử chỉ, cách cư xử, những việc làm và ghi nhớ những điều nổi bật.
	Quan sát trực tiếp là điều quan trọng nhất nhưng cũng có khi ta dùng cách quan sát gián tiếp, thông qua trí nhớ của mình, cũng có thể thông qua nhận xét của một người khác về người đó. Ngay một lúc, ta đâu có hiểu hết về một người, kể cả hình dáng cũng vậy. Ví dụ đôi mắt lúc bình thường ra sao, khi vui thế nào còn khi buồn thì sao?...
	Các em có thể bộc lộ tình cảm trực tiếp của mình đối với người được tả bằng những lời khen, chê nhưng thông thường bộc lộ gián tiếp qua cách tả thì hay hơn.
	* Ví dụ 1: Tả một người bạn thân của em ở trường .
	Tôi gợi ý cho học sinh quan sát một bạn học sinh mà các em chọn tả : Quan sát từ xa đến gần : Từ xa thấy bạn ấy có hình dáng thế nào ? Cao hay thấp ? Mập hay gầy ? Đó chính là phần tả bao quát hình dáng của bạn đó. Đến gần, em thấy bạn ấy có dáng người, mái tóc, mặt, mũi, miệng, dáng đi, giọng nói, ánh mắt, nụ cườinhư thế nào. Để giúp cho bài văn của các em sinh động hơn, có hồn hơn tôi còn nhắc nhở các em quan sát một cách tinh tế, tỉ mỉ để phát hiện những nét riêng biệt, nổi bật của đối tượng mình tả và tả bằng chính những cảm nhận đó một cách chân thật nhất. Ví dụ : Các em quan sát ánh mắt của bạn ấy ở những thời điểm khác nhau như : trong học tập, lúc vui chơi hay khi tham gia các hoạt động sinh hoạt tập thể hoặc những lúc bạn thuộc bài, được cô khen thì ánh mắt của bạn ấy thế nào ? Và khi có ai đó gây lỗi với bạn như vô ý giẫm lên chân bạn thì ánh mắt biểu hiện của bạn ra sao? Khi bạn ấy phạm lỗi thì thái độ bạn ấy lúc nhận lỗi thế nào?...
	* Ví dụ 2 : Tả một người thân của em trong gia đình.
	Nếu các em chọn tả mẹ của em, các em thấy mẹ là người gần gũi thương yêu chúng ta hàng ngày, vậy khi quan sát em thấy ánh mắt mẹ ra sao ? (đôi mắt dịu hiền, ánh lên vẻ trìu mến). Cũng đôi mắt ấy, khi các em bị cô giáo phê bình vì không thuộc bài thì ánh mắt thế nào (ánh mắt buồn bã, lo âu). Tôi còn dùng hệ thống câu hỏi để kích thích sự tưởng tượng khêu gợi óc tò mò, dựng lại hình ảnh sự vật mà các em quan sát trước, phát huy khả năng tư duy sáng tạo của các em. Từ đó, học sinh có hứng thú chuẩn bị bài đầy đủ và tỉ mỉ để lên lớp học tốt.
	+ Động viên học sinh phải thuộc ghi nhớ vì đó là những kiến thức cô đọng nhất để hình thành kĩ năng thực hành. Mục ghi nhớ trọng tâm là dàn bài đại cương, các em sẽ dựa vào đây để lập dàn bài chi tiết. Qua dàn bài chi tiết, học sinh sẽ nói và viết văn tương đối thuận lợi, đi đúng yêu cầu trọng tâm và bố cục đầy đủ, rõ ràng. Vì tôi nhận thấy ở đa số các em chưa phân biệt được rõ ràng bố cục của bài văn, các em còn lơ mơ khi đi vào viết bài văn hoàn chỉnh mà chưa thật sự nắm chắc cách bố cục của thể loại văn mình đang học.
	Sự chuẩn bị bài đầy đủ, tỉ mỉ giúp các em học tập, làm văn hiệu quả hơn, viết đúng với yêu cầu của đề bài hơn.
2. Hướng dẫn kĩ thuật viết văn cho học sinh :
	Nhắc nhở học sinh không tả dài dòng mà cần tìm hiểu và quan sát thật kỹ để nắm bắt cho được cái thần, cái hồn, cái dáng vẻ đặc biệt của người được tả rồi bằng ngôn ngữ làm hiện lên trước mắt người đọc một con người bằng xương, bằng thịt, gợi cho người đọc cảm nhận, suy nghĩ như mình. Nói ít gợi nhiều không có nghĩa là các em chỉ viết vài câu rồi chấm hết một bài văn, mà khi tả người không nên viết lan man, đặc điểm nào cũng tả, cần phải biết chọn lọc những đặc điểm nổi bật của con người ấy. Khi tả người không nhất thiết phải tả hết cả mặt mũi, chân tay, quần áo, giày dép. Rồi tả cái mặt thì không có nghĩa là phải tả hết mắt, mũi, miệng, cằm, lông mi, lông mày, mà chủ yếu là phải tả được cái gì tạo nên con người ấy, cái gì là cái thần, cái hồn của con người ấy.
	- Lưu ý học sinh khi tả người cần chú ý ba mặt: Hình dáng, tính tình và hoạt động. Nếu tả riêng từng mặt thì bài văn sẽ khô cứng đơn điệu. Thông thường qua hoạt động làm toát lên hình dáng, tính tình hoặc qua hình dáng bộc lộ tâm trạng, tính cách của người đó.
	a. Tả hình dáng (ngoại hình) của một người cần chú ý đến tầm vóc, khuôn mặt, mái tóc, làn da, cặp mắt cách ăn mặc, đi đứng, nói cười song cần biết lướt qua (hoặc lược bỏ) những nét không nổi bật để tập trung vào những đặc điểm tiêu biểu, gây ấn tượng mạnh cho người đọc, có liên quan đến hoạt động, tính tình của người được tả. Thông thường dựa vào tuổi tác, nghề nghiệp, hoàn cảnh sống của mỗi người, ta có thể chọn tả những nét phù hợp và nổi bật.
Ví dụ: 
	- Quan sát một chàng trai Hmông đang cày ruộng, nhà văn Ma Văn Kháng đã ghi lại các chi tiết gây ấn tượng mạnh như: “Mười tám tuổi, ngực nở vòng cung, bắp tay, bắp chân chắc như trắc, gụ. Vóc cao, vai rộng, người đứng thẳng như cái cột đá trời trồng”. (Hạng A Cháng - Sách Tiếng Việt L5 tập một). Đó chính là vẻ đẹp của một thanh niên dân tộc khỏe khắn, lực lưỡng, thẳng thắn, trung thực. Một vẻ đẹp của núi rừng, của thiên nhiên hoang dã
 	- Trong bài “Bà tôi”, tác giả Mác-xim Go-rơ-ki đã ghi lại đặc điểm của bà mình như sau: “Bà tôi ngồi cạnh tôi chải đầu. Tóc bà đen và dày kỳ lạ, phủ kín cả hai vai, xõa xuống ngực, xuống đầu gối. Một tay khẽ nâng mớ tóc lên và ướm trên tay, tay bà đưa một cách khó khăn chiếc lược thưa bằng gỗ vào mớ tóc dày Khi bà mỉm cười hai con ngươi đen sẫm nở ra, long lanh, dịu hiền khó tả, đôi mắt ánh lên những tia nắng ấm áp, tươi vui. Mặc dù trên đôi má ngăm ngăm đã có nhiều nếp nhăn, khuôn mặt của bà tôi hình như vẫn tươi trẻ” (Sách TV5 – trang 122 – Tập 1).
	Ta thấy tác giả miêu tả ngắn gọn, chân thực, sinh động hình ảnh của một người bà đồng thời bộc lộ được tình yêu của người cháu đối với bà.
	- Hoặc khi tả một chú bé vùng biển rắn rỏi, nhanh nhẹn, chăm lao động, tác giả Trần Vân đã viết như sau: “Nó cởi trần phơi nước da rám đỏ khỏe mạnh của những đứa trẻ lớn lên với nắng, nước mặn và gió biển. Thân hình nó rắn chắc, nở nang: cổ mập, vai rộng, ngực nở căng, bụng thon hằn rõ những múi, hai cánh tay gân guốc như hai cái bai chèo, cặp đùi dế to, chắc nịch. Thắng có cặp mắt to và sáng. Miệng tươi hay cười, cái trán hơi dô ra, trông có vẻ là một tay bướng bỉnh, gan dạ”. (Sách TV5 – trang 130 – Tập 1).
	Ở những nét nổi bật về hình dáng nói trên, người đọc dễ dàng nhận thấy cả tinh thần, tình cảm hay tính cách của người được tả: A Cháng ngay thẳng, tốt bụng, bà tôi hiền lành, bao dung, chú bé vùng biển hồn nhiên, bướng bỉnh và rất đáng yêu... 
	b.Tả hoạt động của người cũng cần tập trung vào những biểu hiện chính với từng dáng điệu, cử chỉ, lời nói làm sao cho rõ được tính tình hay phẩm chất tư cách của người đó. 
	Đọc đoạn văn sau đây ta thấy A Cháng là một thanh niên Hmông chăm chỉ yêu thích việc cày ruộng: “Hai tay Cháng nắm đốc cày, mắt nhìn thế ruộng, mắt nhìn đường cày, thân hình nhoài thành một đường cong mềm mại, khi đi bên trái, lúc tạt qua phải theo đường cày uốn vòng theo hình bậc thang giống như một mảnh trăng lưỡi liềm. Lại có lúc được sá cày thẳng, người anh như rạp hẳn xuống, đôi chân xoải dài hoặc băm những bước ngắn gấp gấp”
	Ta thấy tác giả quan sát rất kỹ và miêu tả sinh động làm nổi bật được hình một chàng trai miền núi khỏe mạnh, say mê làm việc.
	Hoặc khi tả tâm trạng nào cần lựa chọn hoạt động nổi bật làm toát lên tâm trạng ấy. Ví dụ khi tả một bạn học sinh buồn vì bị điểm kém tác giả đã khéo léo gợi tả một tâm trạng thật buồn mà không hề sử dụng một chữ “buồn” nào trong bài: “Em bê quyển vở có điểm 2 to tướng như một con ngỗng cố gắng bước đi. Quyển vở nặng quá làm trĩu tay em xuống và kéo ghì bước chân em lại.”
	Tóm lại, trình tự ở bài văn tả người dựa vào tâm lý hay cảm xúc của người viết. Không bắt buộc học sinh phải vận dụng một cách máy móc, gượng ép. Tuy vậy, những đề bài tả người đầu tiên thường tách rõ hai mặt là nhằm nhấn mạnh cho các em chú ý cả hai mặt đó. Hình dáng được nói đến trước là những đặc điểm cụ thể dễ nhìn thấy. Còn tính tình nói đến sau vì thường ẩn kín phải qua một thời gian tiếp xúc khá lâu mới nhận rõ được. Thứ tự tả trước sau như vậy là thông thường. Nhưng nếu học sinh chọn một thứ tự trình bày khác cũng được miễn là hợp lý. Ví dụ tính tình của một người có nét nổi bật khá rõ, đáng chú ý ngay khi mới gặp thì có thể tả tính tình trước rồi mới tả đến hình dáng, hoặc có thể tả kết hợp từng nét hình dáng với tính tình. Trình bày thứ tự nào cuối cùng cũng phải tả được rõ ràng những đặc điểm của người được tả về cả hai mặt trên. Tùy theo yêu cầu đề bài tả kỹ mặt nào thì tập trung làm rõ mặt đó. Tuy nhiên vẫn có sự kết hợp đan cài khi kết hợp miêu tả các mặt nêu ở dàn bài dưới đây:
	1. Mở bài: Giới thiệu người được tả.
	(Tả ai? Gặp gỡ tiếp xúc ở đâu? Trong hoàn cảnh nào?...)
	2. Thân bài: (nêu đủ 3 mặt)
	- Hình dáng: Tả bao quát về tuổi tác, nghề nghiệp, tầm vóc, cách ăn mặc, dáng điệu Tả những nét nổi bật đáng chú ý về khuôn mặt, mái tóc, cặp mắt, nụ cười
	- Tính tình: Chú ý nêu rõ lời nói, cử chỉ, thái độ cư xử hay việc làm của người được tả nhằm biểu lộ phẩm chất đạo đức, tình cảm, thói quen của người đó (tránh liệt kê tính nết một cách khô khan, rời rạc).
	- Hoạt động: Tả kỹ và có thứ tự các cử chỉ, động tác, lời nói để thấy được cách làm việc (có thể kết hợp bộc lộ ý nghĩ, cảm xúc của người được tả hoặc xen tả ngoại cảnh để bộc lộ tâm trạng)
	3. Kết luận: Nêu thái độ cảm nghĩ của bản thân đối với người được tả (có ấn tượng gì sâu sắc? có ảnh hưởng gì đối với bản thân?).
	Lưu ý ở bài văn tả người, ngoài yêu cầu dùng ngôn ngữ miêu tả nói chung để tả hoạt động, ý nghĩ, tình cảm của nhân vật và bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc riêng của người viết còn có ngôn ngữ riêng của nhân vật (người được tả) với những lời đối thoại (tự bộc lộ ý nghĩ, tình cảm). Do vậy người viết phải biết diễn tả sao cho phù hợp với tính cách nhân vật, đúng trọng tâm đề bài, đúng thể loại miêu tả, tránh sa vào kể hay tường thuật lan man.
	Tóm lại, để giúp học sinh có kỹ năng làm kiểu bài văn tả người, giáo viên cần hướng dẫn học sinh theo trình tự sau:
	+ Phân tích ngữ liệu.
	+ Hướng dẫn học sinh tập quan sát, ghi chép lại những cái tiêu biểu của đối tượng.
	+ Chọn lọc, sắp xếp ý theo trình tự hợp lý.
	+ Cuối cùng là cách diễn đạt, thổi hồn cho đối tượng tả thành con người bằng xương, bằng thịt hiện ra trước mắt người đọc.
	*Ngoài ra, trong suốt quá trình dạy tập làm văn cho học sinh, bên cạnh việc hướng dẫn, nhắc nhở học sinh khi đặt câu phải có đủ hai bộ phận chính đó là chủ ngữ và vị ngữ, tôi còn luôn động viên, khuyến khích các em cần thêm những thành phần phụ như trạng ngữ, bổ ngữ, định ngữĐể câu văn tránh được sự khô khan, cứng nhắc và trở nên mượt mà, sinh động hơn, dễ đi vào lòng người hơn. Tôi còn chú tâm đến việc tạo cho học sinh một bầu không khí học tập vui tươi, tích cực và sáng tạo thông qua các hình thức : Thi đua, trò chơi, làm bài tập trắc nghiệm Nhằm kích thích học sinh hứng thú, ham thích học phân môn Tập làm văn. Việc rèn cho học sinh biết viết những câu văn hay để hình thành những đoạn văn, bài văn sinh động, giàu hình ảnh.
	Tôi đưa ra những câu văn bình thường có đủ hai bộ phận chính : Chủ ngữ và vị ngữ rồi yêu cầu các em tự suy nghĩ, cùng thi đua bổ sung thêm những từ ngữ, hình ảnh, sau đó tôi giúp các em điều chỉnh để có những câu văn hay giàu hình ảnh và hấp dẫn hơn.
	* Ví dụ : Kiểu bài tả ngườ

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_5_l.docx