SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả trong giảng dạy môn Toán lớp 5

SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả trong giảng dạy môn Toán lớp 5

Trong công cuộc đổi mới kinh tế xã hội đang diễn ra từng ngày, từng giờ trên khắp đất nước. Nó đòi hỏi phải có những lớp người lao động mới có bản lĩnh, có năng lực, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm thích ứng được với thực tiễn đời sống xã hội luôn phát triển. Nhu cầu này làm cho mục tiêu Giáo dục đào tạo phải được điều chỉnh một cách thích hợp dẫn đến sự thay đổi tất yếu về nội dung và phương pháp dạy học.

Ở cấp Tiểu học môn Toán có vai trò đặc biệt quan trọng cùng với các môn học khác nó góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển tư duy của người học, đồng thời nó còn góp phần vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ. Ở trường tiểu học, việc dạy học toán cho học sinh tạo năng lực cho các em sử dụng toán trong học tập và trong cuộc sống hàng ngày. Thông qua việc học toán ở nhà trường đã rèn cho các em năng lực tư duy, phát triển trí thông minh, kĩ năng tính toán. Chính vì thế, môn Toán luôn được chú trọng và được dành một thời lượng rất lớn trong chương trình Giáo dục phổ thông. Theo yêu cầu của Bộ giáo dục và Đào tạo về đổi mới nội dung và phương pháp dạy học ở cấp Tiểu học, ngoài việc tổ chức các hoạt động dạy học để học sinh nắm được kiến thức chuẩn thì tùy vào năng lực của học sinh, giáo viên cần phải phát triển, khai thác, mở rộng thêm kiến thức một cách phù hợp để đáp ứng nhu cầu học tập của các em.

Hơn nữa, cấp Tiểu học là bậc học quan trọng, nó đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách ở học sinh, trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về tự nhiên và xã hội, phát triển các năng lực nhận thức, trang bị các phương pháp và kĩ năng ban đầu về hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng và phát huy các tình cảm, thói quen và đức tính tốt đẹp của con người Việt Nam. Chính vì vậy mà cấp Tiểu học được coi là "nền móng vững chắc của toà nhà phổ thông".

 

doc 20 trang thuychi01 56266
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả trong giảng dạy môn Toán lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TT
Nội dung
Trang
1
MỞ ĐẦU
2
1.1
Lí do chọn đề tài.
2
1.2.
Mục đích nghiên cứu.
3
1.3
Đối tượng nghiên cứu.
3
1.4
Phương pháp nghiên cứu.
3
1.5
Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
3
2
NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
4
2.1
Cơ sở lí luận.
4
2.2
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
5
2.3
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
6
2.3.1
Giải pháp 1: Phân hóa đối tượng, khơi dậy lòng say mê và thích học toán ở học sinh.
6
2.3.2
Giải pháp 2: Thiết kế bài và dạy học theo đối tượng để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
8
2.3.3
Giải pháp 3: Vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức dạy học theo hướng đổi mới để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
10
2.3.4
Giải pháp 4: Lồng ghép tổ chức trò chơi trong giờ học toán. 
12
2.4
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.	
17
3
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
17
3.1
Kết luận.
17
3.2
Kiến nghị.
18
	1. MỞ ĐẦU
	1.1. Lí do chọn đề tài.
Trong công cuộc đổi mới kinh tế xã hội đang diễn ra từng ngày, từng giờ trên khắp đất nước. Nó đòi hỏi phải có những lớp người lao động mới có bản lĩnh, có năng lực, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm thích ứng được với thực tiễn đời sống xã hội luôn phát triển. Nhu cầu này làm cho mục tiêu Giáo dục đào tạo phải được điều chỉnh một cách thích hợp dẫn đến sự thay đổi tất yếu về nội dung và phương pháp dạy học.
Ở cấp Tiểu học môn Toán có vai trò đặc biệt quan trọng cùng với các môn học khác nó góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển tư duy của người học, đồng thời nó còn góp phần vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ. Ở trường tiểu học, việc dạy học toán cho học sinh tạo năng lực cho các em sử dụng toán trong học tập và trong cuộc sống hàng ngày. Thông qua việc học toán ở nhà trường đã rèn cho các em năng lực tư duy, phát triển trí thông minh, kĩ năng tính toán. Chính vì thế, môn Toán luôn được chú trọng và được dành một thời lượng rất lớn trong chương trình Giáo dục phổ thông. Theo yêu cầu của Bộ giáo dục và Đào tạo về đổi mới nội dung và phương pháp dạy học ở cấp Tiểu học, ngoài việc tổ chức các hoạt động dạy học để học sinh nắm được kiến thức chuẩn thì tùy vào năng lực của học sinh, giáo viên cần phải phát triển, khai thác, mở rộng thêm kiến thức một cách phù hợp để đáp ứng nhu cầu học tập của các em.
Hơn nữa, cấp Tiểu học là bậc học quan trọng, nó đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách ở học sinh, trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về tự nhiên và xã hội, phát triển các năng lực nhận thức, trang bị các phương pháp và kĩ năng ban đầu về hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng và phát huy các tình cảm, thói quen và đức tính tốt đẹp của con người Việt Nam. Chính vì vậy mà cấp Tiểu học được coi là "nền móng vững chắc của toà nhà phổ thông".
Trong đó, môn Toán lớp 5 góp phần không nhỏ để tạo nên cái gọi là "nền móng" đó. Học sinh học tốt môn Toán sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển năng lực học toán ở các lớp tiếp theo. Và để đạt kết quả cao trong dạy học toán đòi hỏi giáo viên phải biết lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học dựa trên đặc điểm tâm lý của học sinh. Ở học sinh lớp 5, kiến thức toán không còn mới lạ đối với học sinh, khả năng nhận thức của các em đã được hình thành và phát triển ở các lớp trước, tư duy đã bắt đầu có chiều hướng bền vững và đang ở giai đoạn phát triển. Vốn sống, vốn hiểu biết thực tế đã bước đầu có những tích lũy nhất định.
Chính vì vậy việc đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng dạy và học toán là rất cần thiết. Một trong những đổi mới phương pháp dạy học đó là lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Quá trình dạy học phải đạt được yêu cầu, tạo ra động cơ học tập tốt nhất để phát triển trí tuệ, trí thông minh cho học sinh. Để có được điều đó, các em phải tích cực học tập biểu hiện ở chỗ: hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề giáo viên nêu ra, hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích những vấn đề chưa rõ, chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới, tập trung chú ý vào những vấn đề đang học, kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản chí trước những tình huống khó khăn. 
Trong khi đó, học sinh tiểu học vốn ưa hoạt động, khả năng tập trung chú ý chưa cao, các em thường chỉ chú ý tới những vấn đề mới lạ, hấp dẫn. Mức độ tiếp thu kiến thức của học sinh không đồng đều. Trong một lớp học có nhiều đối tượng học sinh, nhu cầu hứng thú học tập của các em là khác nhau. Vì vậy làm thế nào để thu hút tất cả các em đều chú ý tập trung trong giờ học, tích cực hoạt động để lĩnh hội kiến thức là điều mà giáo viên cần quan tâm. Với những băn khoăn đó, tôi đã mạnh dạn tìm hiểu, nghiên cứu và tìm ra “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả trong giảng dạy môn Toán lớp 5”.
	1.2. Mục đích nghiên cứu.
	Xây dựng và áp dụng một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả trong giảng dạy môn Toán lớp 5.
	1.3. Đối tượng nghiên cứu. 
- Giáo viên dạy toán và học sinh lớp 5 của nhà trường.
- Các giải pháp nâng cao chất lượng trong giảng dạy môn Toán lớp 5.	
	1.4. Phương pháp nghiên cứu.
	- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc tài liệu, giáo trình có liên quan đến các vấn đề cần nghiên cứu. Nghiên cứu sách giáo khoa, sách bài tập và các tài liệu khác.
	- Phương pháp điều tra:
+ Trao đổi với giáo viên về những khó khăn, thuận lợi khi dạy toán lớp 5.
+ Tiếp cận, trò chuyện với học sinh về những hứng thú, khó khăn khi học toán.
+ Dự giờ để đánh giá thực trạng việc dạy và học ở lớp 5 để đề xuất giải pháp khắc phục.
- Phương pháp thực nghiệm: Để kiểm tra tính khả thi của những vấn đề đã được nghiên cứu.
- Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm.
- Phương pháp thống kê toán học: Thu thập, xử lí, đánh giá số liệu
	1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
	Góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở tiểu học theo phương hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, tăng cường hoạt động cá thể phối hợp với học tập giao lưu. Hình thành và rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
Góp phần giúp học sinh hứng thú học tập môn Toán. Đó là một môn học được coi là khô khan và khó khăn. Do đó việc đưa ra những câu đố, trò chơi toán học nhằm giúp các em học mà chơi, chơi mà học. Đặc biệt trò chơi toán học không những giúp các em lĩnh hội được tri thức mà nó còn giúp các em củng cố và khắc sâu các tri thức đó. 
Tôi chọn đề tài nghiên cứu này nhằm giúp học sinh nắm kiến thức môn Toán ngày càng vững vàng hơn, hăng say trong các giờ học toán, nâng cao chất lượng giảng dạy và làm nền tảng vững chắc cho các lớp trên.
Điểm mới trong việc nghiên cứu và áp dụng đề tài này là tạo dựng được lòng say mê và thích học toán, sự chủ động, tích cực của học sinh và các trò chơi dạy học toán phù hợp với đối tượng học sinh của lớp qua từng dạng bài, một sáng kiến mang tính mới mẻ mà từ trước tới nay ít được vận dụng hoặc có vận dụng thì cũng đang dừng lại mang tính hình thức, chưa thực sự mang lại hiệu quả cao.
	2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
	2.1. Cơ sở lí luận.
	Môn Toán lớp 5 là một môn học luyện tập, thực hành nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình thành năng lực học toán cho học sinh. Năng lực của học sinh qua các yêu cầu về kiến thức, kĩ năng sau:
	- Về số và phép tính:
 + Bổ sung những hiểu biết cần thiết về phân số thập phân, hỗn số để chuẩn bị học số thập phân.
 + Ôn tập củng cố, hệ thống hoá những kiến thức và kĩ năng cơ bản về số và phép tính với số tự nhiên, phân số và số thập phân.
	- Về đo lường:
	+ Biết tên gọi, kí hiệu, quan hệ giữa một đơn vị đo diện tích, thể tích thông dụng.
	+ Biết viết các số đo độ dài, khối lượng, diện tích, thể tích, thời gian dưới dạng số thập phân.
	- Về hình học:
	+ Nhận biết được hình thang, hình hộp chữ nhật, hình lập phương và một số dạng của hình tam giác.
	+ Biết tính chu vi, diện tích hình tam giác, hình thang, hình tròn.
	+ Biết tính diện tích xung quanh, diện tích toàn phần, thể tích hình hộp chữ nhật, hình lập phương.
	+ Về giải toán có lời văn: Biết giải và trình bày các bài toán có đến bốn bước tính: một số dạng bài toán về quan hệ tỉ lệ; các bài toán về tỉ số phần trăm; các bài toán có nội dung hình học liên quan đến các hình đã học.
	- Về các yếu tố thống kê.
	+ Biết đọc các số liệu trên biểu đồ hình quạt.
	+ Bước đầu biết nhận xét về một số thông tin đơn giản thu thập trên biểu đồ.
	- Về phát triển ngôn ngữ, tư duy và góp phần nhân cách của học sinh.
	+ Biết diễn đạt một số nhận xét, quy tắc, tính chất... bằng ngôn ngữ (nói, viết dưới dạng công thức...) ở dạng khái quát.
	+ Tiếp tục phát triển năng lực phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, cụ thể hoá; bước đầu hình thành và phát triển tư duy phê phán và sáng tạo; phát triển trí tượng không gian...
	+ Tiếp tục rèn luyện các đức tính: chăm học, cẩn thận, tự tin, trung thực, có tinh thần trách nhiệm... góp phần hình thành nhân cách ở học sinh.
	Các yêu cầu kiến thức, kĩ năng trên được hình thành trong quá trình giảng dạy của giáo viên và việc học tập của học sinh. Vì thế trong dạy học toán ở tiểu học, phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Cốt lõi của vấn đề là hướng tới học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
	Muốn vậy trong quá trình hình thành và nâng cao năng lực tự học cho học sinh tiểu học, vai trò của người thầy là rất quan trọng. Người dạy cần hướng dẫn, tổ chức để học sinh xác định được động cơ học tập một cách đúng đắn. Tăng cường các hình thức dạy học nhóm, trao đổi, thảo luận, nêu lên chứng kiến của mình Điều này buộc học sinh phải nghiên cứu tài liệu, phân tích, mổ xẻ các vấn đề trên nhiều khía cạnh khác nhau để có thể tham gia đóng góp, tranh luận để bảo vệ ý kiến của mình.
	2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
	- Đối với giáo viên:
	Chúng ta đang thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, nhưng vẫn còn giáo viên còn gặp nhiều lúng túng, chủ yếu là giảng giải thuyết trình, chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo của học sinh. Trong một lớp, năng lực nhận thức của học sinh không đồng đều nhưng giáo viên thường chỉ thiết kế giáo án theo đường thẳng, chung cho mọi đối tượng học sinh. Trên lớp giáo viên chủ động thực hiện một mạch theo các bước đã chuẩn bị, giáo viên chưa vận dụng linh hoạt phương pháp dạy học mới bằng hình thức giao việc cụ thể cho từng học sinh. Qua dự giờ đồng nghiệp, tôi thấy một số tiết dạy còn nặng nề, gò bó không lôi cuốn được tất cả học sinh cùng tham gia. Phần đánh giá kết quả học tập giáo viên thường là người độc quyền đánh giá kết quả học tập của học sinh. Không ít giáo viên chưa chú trọng đúng mức tới việc kích thích trí tò mò, lòng ham hiểu biết của lứa tuổi tiểu học trong giờ học toán.
- Đối với học sinh:
Ở cấp Tiểu học một bộ phận các em còn ngại khó, còn thụ động, chủ yếu là nghe giảng, ghi nhớ và làm theo bài mẫu. Chính vì vậy mà kiến thức của các em còn mang tính hời hợt, nhớ không lâu, thiếu sự linh hoạt, sáng tạo và khả năng phân tích của các em còn hạn chế. 
Năm học 2018-2019, tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 5A, kết quả khảo sát chất lượng đầu năm như sau:
Tổng số học sinh
Điểm 9 -10
Điểm 7 - 8
Điểm 5 - 6
Điểm dưới 5
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
25
4
16
7
28
8
40
6
24
Kết quả trên cho thấy: chất lượng môn Toán của lớp 5A còn thấp, thấp hơn rất nhiều so với yêu cầu của trường chuẩn quốc gia. Tỉ lệ học sinh điểm dưới 5 còn nhiều. Tôi tiến hành điều tra, tìm hiểu nguyên nhân thì nhận thấy: phần lớn học sinh có tâm lí ngại học toán vì các em cảm thấy khó và nặng nề, sợ mỗi khi gặp dạng toán mới, lúng túng khi gặp bài toán khó, không đủ niềm tin để khẳng định bài toán mình làm đúng hay sai,
Trước thực trạng trên, tôi đã tiến hành nghiên cứu và mạnh dạn tổ chức thực hiện các giải pháp sau đây.
	2.3. Các giải pháp thực hiện.
Qua thực tế giảng dạy và kinh nghiệm của bản thân, tôi rút ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong giảng dạy môn Toán lớp 5 cụ thể như sau:
	2.3.1. Giải pháp 1: Phân hóa đối tượng, khơi dậy lòng say mê và thích học toán ở học sinh.
a. Phân nhóm đối tượng học sinh.
Ngay từ đầu năm học, dựa vào kết quả khảo sát và kết hợp dạy học hàng ngày trên lớp, tôi phân loại số học sinh trong lớp thành các nhóm đối tượng như sau:
- Nhóm gồm các học sinh có khả năng hoàn thành tốt nội dung học tập: Nguyễn Hà Thảo Ly, Nguyễn Đình Phú, Mai Văn Chính, Hoàng Thị Thúy Nhi, Lê Xuân Hùng, Nguyễn Khắc Sáng.
- Nhóm gồm các học sinh hoàn thành nội dung học tập: Lê Thị Ngọc Ánh, Lê Đình Việt Anh, Lê Thị Thủy, Lê Đình Văn, Vũ Thị Hà Vi, Nguyễn Thị Thùy Linh, Lê Thị Thùy Linh, Nguyễn Thị Anh Đào, Nguyễn Đình Đạt, Nguyễn Văn Hùng Dương, Nguyễn Viết Nhật, Lê Văn Sơn, Trịnh Đình Thanh.
- Nhóm gồm các học sinh chưa hoàn thành: Lê Đình Đức, Lê Thế Hoàng, Lê Đình Trường Sơn, Ngô Tiến Thành, Vũ Đình Tùng, Lê Đình Hùng.
b. Khơi dậy lòng say mê và thích học toán của học sinh:
- Trong quá trình giảng dạy tôi đã thực hiện các giải pháp sau để giúp các 
em say mê và thích học môn Toán: 
Xem kỹ nội dung chương trình môn Toán, nội dung từng bài dạy và mục tiêu của mỗi bài để tránh việc truyền đạt quá tải cho học sinh; phối hợp nhịp nhàng giữa phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho phát huy tính tích cực, chủ động, kích thích sự hứng thú của học sinh, tránh sự đơn điệu và tẻ nhạt 
ở mỗi tiết học. 
Tổ chức các hoạt động trong từng bài để giúp các em tự mình tìm tòi, chủ động phát hiện kiến thức mới, rèn thêm kỹ năng mới dựa trên các kiến thức và kỹ năng các em đã có. 
Luôn thay đổi không khí giờ học toán để tạo ra sự thoải mái, giảm bớt căng thẳng cho học sinh. Nhờ thế, các em sẽ tập trung sự chú ý, tiếp thu bài tốt hơn. Để thực hiện điều này, tôi tổ chức cho các em giải các câu đố vui toán học mà mình đã sưu tầm được. Hoạt động này sẽ kích thích sự tò mò và bồi dưỡng tính hài hước cho các em vì các câu đố thường được viết dưới dạng các câu thơ, các bài văn vần, các câu hò, vè quen thuộc rất dí dỏm, vui tươi, ngộ nghĩnh. 
Ví dụ: Khi dạy phần ôn tập phân số, số tự nhiên, dấu hiệu chia hết, tôi đã đưa ra các câu đố:
Câu 1: Thân em gồm có hai phần.
Càng thêm vào dưới, lại càng bé đi”.
(là gi?)
Câu 2: Đố em viết tiếp
Vào dãy số sau: 0; 15; 30; 
5 số nối nhau
Tìm mau kẻo lỡ
Xong sau bạn cười.
Câu 3: 2325; 3446; 4590; 1000.
Những số đã viết
Số nào chia hết
Cho cả ba, năm?
Số nào chia thêm
Cho hai và chín?
Các câu đố này sẽ biến những bài toán với các con số khô khan thành những bài toán vui, hóm hỉnh, gần gũi với học sinh giúp củng cố kiến thức và kỹ năng thực hành, góp phần rèn luyện tư duy sáng tạo, óc nhanh nhạy trước các tình huống toán học chứa đựng trong câu đố.
- Ngoài ra trong các buổi ngoại khoá, trong những giờ ra chơi hay những buổi sinh hoạt tập thể, tôi luôn tìm cách khơi dậy tinh thần hăng say học tập, kích thích chí hướng phấn đấu vươn lên thành học sinh xuất sắc bằng những câu chuyện bổ ích, những tấm gương học tốt, những bài học về phương pháp học được rút ra từ các nhà khoa học hay đơn giản chỉ là những câu nói thể hiện niềm tin về sự cố gắng của một học sinh nào đó.
Ví dụ: Kể về các gương học sinh trước đây có hoàn cảnh khó khăn nhưng nhờ chăm chỉ, chịu khó đã trở thành học sinh xuất sắc, đỗ đạt vào các trường đại học. Cụ thể như : Em Lê Hữu Hùng ở thôn 5, nhà nghèo, bố mẹ khuyết tật, ngoài giờ học em phải đi quấn kẹo thuê để kiếm thêm tiền đỡ cho bố mẹ. Nhưng nhờ sự kiên trì, cố gắng, say mê học tập đến nay Hùng đã thi đỗ vào Trường Học viện Kĩ thuật Quân sự Ngoài những câu chuyện thực tế trong trường, lớp, địa phương tôi còn sưu tầm các câu chuyện khác trên báo trí, mạng internet
Những việc đơn giản đó đã giúp tôi hiểu rõ và tìm được phương pháp kích thích hứng thú học tập cho từng học sinh. Hầu hết các em luôn tin tưởng và gần gũi giáo viên. Sẵn sàng tham gia vào các hoạt động do giáo viên tổ chức trong giờ học toán.
	2.3.2. Giải pháp 2: Thiết kế bài và dạy học theo đối tượng để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
Trong quá trình chuẩn bị kế hoạch bài dạy, tôi thường chuẩn bị bài dựa vào thực tế năng lực và khả năng tiếp thu của học sinh mình phụ trách. Kế hoạch bài dạy được thiết kế bằng nhiều phương án theo kiểu phương án nhánh. Giáo viên linh hoạt điều chỉnh theo diễn biến của tiết học với sự tham gia tích cực của học sinh. Dù ở loại bài nào thì việc lựa chọn câu hỏi, các bài tập có vai trò quan trọng nhất vì các câu hỏi, bài tập đưa ra phải phù hợp với các đối tượng để ba đối tượng đều được phát huy khả năng tích cực của mình mà không bị nhàm chán, không bị thừa thời gian cho học sinh hoàn thành tốt.
 Ở mỗi dạng bài tập, mỗi câu hỏi thì mỗi đối tượng học sinh có các yêu cầu khác nhau:
Ví dụ 1: So sánh A và B biết:
A = 3,54 + 2,17 + 6,46
B = 2,54 + 6,17 + 3,46
- Đối với đối tượng chưa hoàn thành chỉ yêu cầu học sinh tính kết quả theo thứ tự thực hiện phép tính, sau đó so sánh. (A = 12,17 ; B = 12,17. Vậy A = B)
- Đối tượng học sinh hoàn thành, ngoài cách tính kết quả để so sánh, các em có thể sử dụng tính chất giao hoán và kết hợp đã học để tính nhanh kết quả rồi so sánh. 
A = (3,54 + 6,46) + 2,17
 = 10 + 2,17 
 = 12,17 
 B = (2,54 + 3,46) + 6,17 
 = 6 + 6,17 
 = 12,17
	 Vậy A = B
- Nhưng với đối tượng học sinh hoàn thành tốt, ngoài cách tính kết quả để so sánh, sử dụng tính chất giao hoán và kết hợp để tính nhanh kết quả rồi so sánh, các em còn phải suy nghĩ để tìm cách so sánh nhanh nhất (xét các chữ số hàng đơn vị, hàng phần mười, hàng phần trăm của A và B).
Ví dụ 2: So sánh hai phân số và .
- Đối với học sinh hoàn thành và chưa hoàn thành các em chỉ việc quy đồng mẫu số hai phân số để so sánh như sau:
Ta có: vì nên > .
- Đối với học sinh hoàn thành tốt khuyến khích học sinh tìm ra cách so sánh nhanh hơn bằng cách so sánh với phân số trung gian như sau:
Vì nên > . Hoặc Vì nên > .
Ví dụ 3: Phần củng cố tính chất kết hợp của phép nhân sau khi học nhân số thập phân.
Hãy nêu tính chất kết hợp của phép nhân, hãy lấy ví dụ và thực hiện.
- Với học sinh chưa hoàn thành: chỉ cần nêu được tính chất.
- Với học sinh hoàn thành và hoàn thành tốt: nêu được tính chất, lấy được ví dụ minh họa.
Ví dụ 4: Phần bài tập 3,5 x 0,4 x 25
- Với học sinh chưa hoàn thành và hoàn thành chỉ cần tính được giá trị biểu thức ví dụ như sau:
3,5 x 0,4 x 25 = 1,4 x 25 = 35
- Với học sinh hoàn thành tốt: Sử dụng tính chất giao hoán và kết hợp tính giá trị biểu thức theo các cách khác nhau như sau:
Cách 1:
 3,5 x 0,4 x 25 
 = 1,4 x 25 
 = 35
Cách 2;
 3,5 x 0,4 x 25
 = 3,5 x (0,4 x 25)
 = 3,5 x 10
 = 35 
Cách 3:
 3,5 x 0,4 x 25
 = 3,5 x 25 x 0,4
 = 87,5 x 0,4
 = 35
Cuối cùng cả ba đối tượng đều phát huy được khả năng chủ động của mình trong việc thực hiện phép tính. Học sinh chưa hoàn thành sẽ không cảm thấy quá sức. Học sinh hoàn thành tốt không thấy nhàm chán.
Ví dụ 5: Khi dạy bài ôn tập và bổ sung giải toán, phần “Bài toán về hai đại lượng cùng gấp lên hoặc giảm đi một số lần (tỉ lệ thuận). Phần củng cố giáo viên hỏi: Nêu cách giải bài toán về hai đại lượng cùng gấp lên hoặc giảm đi một số lần.
- Với học sinh chưa hoàn thành và hoàn thành: Học sinh chỉ cần nêu cách giải bài toán về hai đại lượng cùng gấp lên hoặc giảm đi một số lần là giải bằng phương pháp rút về đơn vị hoặc tìm tỉ số.
- Với học sinh hoàn thành tốt: Ngoài câu hỏi chung ở trên giáo viên còn hỏi thêm: Khi nào bài toán về hai đại lượng cùng gấp lên hoặc giảm đi một số lần giải được bằng phương pháp tìm tỉ số, khi nào giải được bằng phương pháp 
rút về đơn vị ? 
+ Như bài toán sau đây ta chỉ có cách giải là tìm tỉ số:
Bài 3 (trang19). Số dân của một xã hiện nay có 4000 người.
a, Với mức tăng hằng năm là cứ 1000 người thì tăng thêm 21 người, hãy 
tính xem một năm sau số dân của xã đó tăng thêm bao nhiêu người.
b, Nếu hạ mức tăng hằng năm là cứ 1000 người chỉ tăng thêm 15 người, 
thì sa

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_hieu_qua_trong_giang_day_mon.doc