Một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh khi dạy học kiểu bài Tả cảnh trong phân môn Tập làm văn lớp 5
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, là phương diện biểu hiện tâm trạng, tình cảm. Chính vì vậy, Tiếng Việt giữ vai trò đặc biệt giữa các môn học trong nhà trường. Mục tiêu của môn Tiếng Việt cấp Tiểu học là:
- Hình thành và phát triển ở HS các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (đọc, viết, nghe, nói) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy.
- Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt, về tự nhiên, xã hội và con người; về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài.
- Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa cho học sinh.
Tập làm văn là sự nối tiếp một cách tự nhiên các bài học trong môn Tiếng Việt, vừa mang tính chất thực hành toàn diện, tổng hợp và sáng tạo, vừa nhằm giúp học sinh có một năng lực tạo lập văn bản. Nếu như các môn học và phân môn khác của môn Tiếng việt cung cấp cho các em một hệ thống các kiến thức kỹ năng thì phân môn Tập làm văn tạo điều kiện cho các em thể hiện các kiến thức, các kỹ năng đã học một cách rõ ràng, linh hoạt, thực tế và có hệ thống hơn. Việc dạy Tập làm văn ở bậc Tiểu học có một vị trí rất quan trọng.
Nội dung dạy học Tập làm văn ở tiểu học là trang bị kiến thức và rèn luyện kĩ năng làm văn đồng thời mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh. Nó tạo điều kiện cho các em giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày và học tập tốt các môn học khác. Chính những văn bản nói, viết các em có được theo các nghi thức lời nói, thuyết trình . đã thể hiện những hiểu biết thực tế, những kỹ năng sử dụng Tiếng Việt mà các em đã được học ở phân môn Tập làm văn.
Văn tả cảnh là loại văn dùng lời với những hình ảnh, cảm xúc làm cho người đọc, người nghe có thể hình dung được rõ nét và cụ thể về một cảnh vật nào đó xung quanh ta.
Như vậy văn tả cảnh có thể xem là một văn bản nghệ thuật có sử dụng ngôn ngữ văn chương để miêu tả sự vật hiện tượng một cách cụ thể sinh động. Bất kì hiện tượng nào trong thực tế đời sống cũng có thể miêu tả được, tuy nhiên bằng những cảm xúc khác nhau của mỗi người, mỗi hiện tượng lại được miêu tả với cách thể hiện riêng qua việc quan sát, sử dụng từ ngữ và cách diễn đạt khác nhau.
Đối tượng của bài văn tả cảnh là những cảnh vật quen thuộc xung quanh ta như dòng sông, cánh đồng, hàng cây. Khi viết bài văn tả cảnh cần đặc biệt tập trung vào những nét tiêu biểu của cảnh vật đó. Để bài văn được sinh động và hấp dẫn hơn với người đọc ta có thể lồng vào đó việc tả người, tả vật với những cung bậc cảm xúc khác nhau.
1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, là phương diện biểu hiện tâm trạng, tình cảm. Chính vì vậy, Tiếng Việt giữ vai trò đặc biệt giữa các môn học trong nhà trường. Mục tiêu của môn Tiếng Việt cấp Tiểu học là: - Hình thành và phát triển ở HS các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (đọc, viết, nghe, nói) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy. - Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt, về tự nhiên, xã hội và con người; về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài. - Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa cho học sinh. Tập làm văn là sự nối tiếp một cách tự nhiên các bài học trong môn Tiếng Việt, vừa mang tính chất thực hành toàn diện, tổng hợp và sáng tạo, vừa nhằm giúp học sinh có một năng lực tạo lập văn bản. Nếu như các môn học và phân môn khác của môn Tiếng việt cung cấp cho các em một hệ thống các kiến thức kỹ năng thì phân môn Tập làm văn tạo điều kiện cho các em thể hiện các kiến thức, các kỹ năng đã học một cách rõ ràng, linh hoạt, thực tế và có hệ thống hơn. Việc dạy Tập làm văn ở bậc Tiểu học có một vị trí rất quan trọng. Nội dung dạy học Tập làm văn ở tiểu học là trang bị kiến thức và rèn luyện kĩ năng làm văn đồng thời mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh. Nó tạo điều kiện cho các em giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày và học tập tốt các môn học khác.. Chính những văn bản nói, viết các em có được theo các nghi thức lời nói, thuyết trình ... đã thể hiện những hiểu biết thực tế, những kỹ năng sử dụng Tiếng Việt mà các em đã được học ở phân môn Tập làm văn. Văn tả cảnh là loại văn dùng lời với những hình ảnh, cảm xúc làm cho người đọc, người nghe có thể hình dung được rõ nét và cụ thể về một cảnh vật nào đó xung quanh ta. Như vậy văn tả cảnh có thể xem là một văn bản nghệ thuật có sử dụng ngôn ngữ văn chương để miêu tả sự vật hiện tượng một cách cụ thể sinh động. Bất kì hiện tượng nào trong thực tế đời sống cũng có thể miêu tả được, tuy nhiên bằng những cảm xúc khác nhau của mỗi người, mỗi hiện tượng lại được miêu tả với cách thể hiện riêng qua việc quan sát, sử dụng từ ngữ và cách diễn đạt khác nhau. Đối tượng của bài văn tả cảnh là những cảnh vật quen thuộc xung quanh ta như dòng sông, cánh đồng, hàng cây... Khi viết bài văn tả cảnh cần đặc biệt tập trung vào những nét tiêu biểu của cảnh vật đó. Để bài văn được sinh động và hấp dẫn hơn với người đọc ta có thể lồng vào đó việc tả người, tả vật với những cung bậc cảm xúc khác nhau. Ngôn ngữ trong văn miêu tả cần chính xác, cụ thể, giàu hình ảnh và có nét riêng biệt. Chính vì thể để có bài văn hay đòi hỏi người viết phải có hiểu biết về phương pháp làm văn, phải biết dùng từ ngữ, biết vận dụng linh hoạt các biện pháp nghệ thuật tu từ được học. Các kiểu bài miêu tả được học nhiều nhất trong chương trình Tập làm văn lớp 5, giúp cho học sinh tái hiện lại cuộc sống con người, phong cảnh thiên nhiên như một bức tranh nhiều màu sắc. Nó giúp các em có tâm hồn văn học, có tình yêu quê hương đất nước và cuộc sống con người. Các em biết mô tả cuộc sống một cách sinh động, hấp dẫn, tự nhiên dưới góc nhìn trẻ thơ. Qua cách miêu tả đó không những giúp chúng ta có thể hiểu suy nghĩ của các em mà còn giúp giáo viên có những định hướng đúng đắn hơn trong quá trình giảng dạy. Trong học tập phân môn Tập làm văn thì viết bài văn là yêu cầu cốt lõi. Nhờ viết bài mà học sinh hiểu sâu sắc hơn bản chất của các tri thức được học, từ đó có khả năng vận dụng chúng linh hoạt trong nhiều tình huống cũng như trong phát triển tư duy. Sản phẩm của quá trình viết, bài văn, chính là nơi phản ánh rõ nét sự hình thành các kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh. Tuy nhiên phải thừa nhận một điều rằng, thực tế hiện nay, việc dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng còn có rất nhiều hạn chế và chưa đạt kết quả như mong muốn. Với kinh nghiệm của một giáo viên nhiều năm trực tiếp giảng dạy lớp 5, tôi nhận thấy cần phải tìm ra một số giải pháp giúp các em yêu thích phân môn Tập làm văn và rèn cho các em kĩ năng làm văn tả cảnh là vấn đề hết sức cần thiết. Điều đó đòi hỏi ở người thầy cái tâm, cái tài để truyền cho các em niềm say mê, để động viên bồi dưỡng các em trở thành học sinh có năng khiếu, những nhân tài có tâm hồn văn học. Chính vì những lý do trên tôi quyết định chọn nghiên cứu đề tài: "Một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh khi dạy học kiểu bài Tả cảnh trong phân môn Tập làm văn lớp 5". 1.2. Mục đích nghiên cứu Với những suy nghĩ nêu trên, là một giáo viên tiểu học trực tiếp giảng dạy lớp 5, tôi không khỏi băn khoăn suy nghĩ về vấn đề này. Làm thế nào để bản thân và đồng nghiệp có được phương pháp dạy kiểu bài Tả cảnh trong phân môn Tập làm văn một cách tối ưu? Làm thế nào để sự tiếp thu kiến thức của các em có hiệu quả? Vì vậy, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích đưa ra một số kinh nghiệm để các bạn đồng nghiệp cùng tham khảo, góp ý và vận dụng những kinh nghiệm dạy học này trong quá trình giảng dạy, giúp cho HS rèn luyện kĩ năng viết văn tả cảnh, biết cách quan sát, sử dụng từ ngữ, hình ảnh khi miêu tả, có hứng thú khi làm văn, đồng thời giúp cho các em yêu thích phân môn Tập làm văn, yêu thích môn Tiếng Việt một cách tốt nhất. Từ đó giúp các em biết áp dụng những điều đã học vào cuộc sống. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Tôi đã tiến hành nghiên cứu về phương pháp, hình thức tổ chức dạy học của giáo viên và cách học của học sinh tiểu học, đặc biệt là giáo viên dạy lớp 5, học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Thị Trấn Hậu Lộc. Qua nghiên cứu, tìm hiểu, bản thân đã rút kinh nghiệm, tìm ra những ưu điềm và hạn chế trong cách dạy của đồng nghiệp và cách học của học sinh từ đó lựa chọn những biện pháp có hiệu quả hơn trong cách dạy của mình, giúp các em hứng thú, hiệu quả hơn trong học Tập làm văn, đặc biệt là kiểu bài văn Tả cảnh. Tôi đã tiến hành dạy thử nghiệm tại lớp 5A, Trường Tiểu học Thị Trấn Hậu Lộc. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Trong sáng kiến này tôi đã sử dụng một số phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Đọc sách báo, tạp chí, sách giáo viên, sách tham khảo, xem video những tiết dạy mẫu, - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Khảo sát thực tế thực trạng kết quả của học sinh lớp 5, phân tích, đánh giá, tổng kết kinh nghiệm. - Trao đổi, thảo luận với đồng nghiệp. 2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm Trong giáo dục phổ thông, môn Tiếng Việt là môn quan trọng, chiếm một vị trí chủ yếu trong chương trình. Tiếng Việt có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách, phẩm chất của con người bởi ngôn ngữ là công cụ giao tiếp đặc trưng của loài người, là công cụ để tư duy, để thể hiện tư tưởng tình cảm. Bất kỳ một lĩnh vực hoạt động nào trong xã hội đều đòi hỏi con người một sự hiểu biết sâu sắc về ngôn ngữ. Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có hai chức năng. Chức năng thứ nhất là: Cung cấp cho học sinh những tri thức ngôn ngữ học. Chức năng này cung cấp cho học sinh những tri thức về âm thanh, cấu tạo từ, ngữ pháp, quy tắc hoạt động ngôn ngữ đồng thời môn Tiếng Việt còn phải hình thành cho học sinh những kỹ năng giao tiếp: nghe, đọc, nói, viết. Còn chức năng thứ hai là: Chức năng thẩm mỹ. Chức năng này giúp người học thấy được cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ, hiểu được phần nào về cuộc sống xung quanh. Đặc biệt môn Tiếng Việt còn bồi dưỡng cho học sinh những tình cảm chân chính, lành mạnh như: tình cảm gia đình, tình thầy trò, tình bạn, tình yêu quê hương, đất nước, con người, đồng thời hình thành và phát triển ở các em những phẩm chất tốt đẹp của con người mới xã hội chủ nghĩa. Trong môn Tiếng Việt cùng với các phân môn Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Phân môn Tập làm văn có vị trí đặc biệt trong việc dạy và học tiếng Việt xét trên hai phương diện: - Phân môn Tập làm văn tận dụng các hiểu biết và kĩ năng về tiếng Việt do các phân môn khác rèn luyện hoặc cung cấp đồng thời góp phần hoàn thiện chúng. Để làm được một bài làm văn nói hoặc viết, người làm phải hoàn thiện cả bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết, phải vận dụng các kiến thức về tiếng Việt. Trong quá trình vận dụng này, các kĩ năng và kiến thức đó được hoàn thiện và nâng cao dần . - Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sản sinh văn bản (nói, viết). Nhờ vậy tiếng Việt không chỉ là một hệ thống cấu trúc được xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn mà trở thành một công cụ sinh động trong quá trình giao tiếp, tư duy, học tập. Nói cách khác. Phân môn Tập làm văn đã góp phần hiện thực hóa mục tiêu quan trọng bật nhất của việc dạy và học tiếng Việt là dạy học sinh sử dụng tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá trình lĩnh hội các tri thức khoa học 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm Qua quá trình giảng dạy, dự giờ đồng nghiệp, tôi thấy bên cạnh những mặt thành công vẫn còn một số những hạn chế trong việc viết văn của các em học sinh lớp 5 và một số hạn chế của giáo viên. Điều này là do nhiều nguyên nhân trong đó một số giáo viên chưa đào sâu, nghiên cứu về phương pháp giảng dạy cũng như trình tự tiến hành dạy một bài tập làm văn như thế nào cho phù hợp với mục đích và nội dung của bài học đặt ra. Mặt khác học sinh Tiểu học là đối tượng mà năng lực tư duy chưa cao. Kỹ năng sử dụng ngôn ngữ của các em còn hạn chế. Đặc biệt trình độ học sinh ở các địa phương cũng chưa đồng đều hơn nữa học sinh rất ngại học Tiếng Việt. Trong một tiết học thời gian có 40 phút là tối đa mà kiến thức phải cung cấp quá nhiều nên giáo viên chỉ hay quan tâm đến đối tượng học sinh hoàn thành tốt (khá giỏi) để tiết dạy thành công. Ngoài ra do việc thay đổi nội dung chương trình SGK lượng kiến thức nhiều lại trình bày không liền mạch mà thời gian lại ít. Bên cạnh đó, xã hội ngày càng phát triển, khoa học công nghệ ngày càng hiện đại dẫn đến học sinh thường ỷ lại, không chịu nghiên cứu, sáng tạo, nếu gặp nội dung khó hoặc vướng mắc thì các em lại tìm kiếm trên mạng internet,.. từ đó dẫn đến kết quả học tập môn Tập làm văn chưa cao. Cụ thể như sau: + Về phía học sinh: Trong chương trình tiểu học hiện nay, các bài tập làm văn đều gắn với từng chủ điểm. Vì vậy quá trình thực hiện các kỹ năng phân tích đề, quan sát, tìm ý, viết câu, viết đoạn văn là những cơ hội giúp học sinh mở rộng hiểu biết trong cuộc sống. Việc phân tích dàn bài, lập dàn ý, chia đoạn văn miêu tả... góp phần phát triển khả năng phân tích của học sinh. Tư duy hình tượng của học sinh cũng được rèn luyện nhờ vận dụng biện pháp so sánh, nhân hóa khi miêu tả. Học Tập làm văn học sinh cũng có điều kiện tiếp cập vẻ đẹp của con người, thiên nhiên qua các bài văn, đoạn văn điển hình. Khi phân tích đề tập làm văn, học sinh sẽ có những cơ hội gắn bó, yêu mến với thiên nhiên, đồng thời cũng lôi cuốn học sinh yêu thích làm văn. Hơn nữa đối tượng miêu tả của bài văn tả cảnh là những cảnh vật quen thuộc gần gũi với các em: một dòng sông, một đêm trăng, một cánh đồng ... vì vậy các em dễ quan sát hơn. Song, học sinh tiểu học lần đầu tiên đến trường, thời gian tiếp xúc với môi trường rộng lớn bên ngoài ít nên vốn từ của học sinh còn nghèo; kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp còn nhiều hạn chế. Mặt khác, đối với học sinh lứa tuổi tiểu học, lứa tuổi mà tư duy trực quan cảm tính chiếm ưu thế, mà những từ ngữ thuộc chủ đề trong các bài học trong sách giáo khoa phần lớn mang tính trừu tượng, các nội dung trình bày chưa liên kết khiến các em thấy khó hiểu, khó nhớ. Một số em chưa nắm được kĩ năng quan sát, tìm ý, viết câu, viết đoạn. Vì vậy khả năng sử dụng từ ngữ, hình ảnh, cách sắp xếp ý, sắp xếp bố cục trong miêu tả còn chưa cao. Việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, trong miêu tả chưa tốt nên bài viết chưa sinh động, chưa gợi cảm, gợi tả. Các em còn viết sai chính tả do phương ngữ hoặc chưa biết cách trình bày một đoạn văn, bài văn Vì đa số các em là con các gia đình nông nghiệp nên các em ít được đi chơi xa, ít được ngắm những danh lam thắng cảnh của mọi miền đát nước, chưa được trải nghiệm thực tế chỉ có một số ít con cán bộ và gia đình có điều kiện mới làm được việc này. Nhưng các em cũng có những thuận lợi đó là sống ở vùng nông thôn gần gũi với cảnh vật thiên nhiên, đồng ruộng, vườn cây, dòng sông, đêm trăng nên khi tả những cảnh này các em dễ quan sát - Phần lớn học sinh không thích học phân môn Tập làm văn vì môn này khó, nó đòi hỏi sự sáng tạo và năng khiếu của các em. - Vốn từ ngữ của các em còn hạn chế nên khi viết văn thường bị lặp lại từ, lời văn chưa lưu loát, diễn đạt chưa trôi chảy, thiếu hình ảnh, cảm xúc. - Nhiều em không nắm được cấu trúc ngữ pháp nên sử dụng dấu câu tùy tiện. - Một số học sinh làm theo văn mẫu hoặc chỉ viết theo dàn bài mà giáo viên đã hướng dẫn lập. Chưa biết tích hợp các phân môn khác như: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Khoa học, Lịch sử và Địa lý vào Tập làm văn. Chưa sáng tạo trong khi dùng từ đặt câu. - Học sinh không quan sát trực tiếp đối tượng nên các em vô cùng lúng túng khi miêu tả. - Khi quan sát thì các em chưa được hướng dẫn cụ thể về kĩ năng quan sát: quan sát những gì, quan sát từ đâu? Làm thế nào phát hiện được nét tiêu biểu của đối tượng cần miêu tả. - Học sinh tiểu học vốn sống, vốn kiến thức và những rung cảm trước cái đẹp còn hạn chế nên chưa thổi được vào cảnh cái hồn để cảnh miêu tả trở nên sinh động, ấn tượng hơn. Đặc biệt kĩ năng vận dụng các từ ngữ gợi hình, gợi tả và các biện pháp nghệ thuật tu từ còn lúng túng. Học sinh thường không có thói quen lập dàn ý mà viết ngay vào bài làm, nhớ đâu viết đó, viết rồi gạch bỏ, viết lại... - Một số học sinh khi làm bài còn vay mượn ý của người khác, các em thường sao chép những bài văn mẫu thành bài văn của mình không kể đầu bài quy định như thế nào. Với cách làm ấy các em không cần biết đối tượng cần miêu tả gì, không chú ý tới đặc điểm nổi bật tạo nên nét riêng của cảnh, cũng như không có cảm xúc về nó. + Về phía giáo viên: Trong những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy học đã đem lại kết quả đáng khích lệ trong dạy phân môn Tập làm văn. Song bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn những tồn tại. Đó là: Khi dạy kiểu bài Tả cảnh trong phân môn Tập làm văn giáo viên chưa biết tổng hợp thành các dạng bài, chưa xác định được mạch kiến thức cơ bản cần truyền thụ; thông thường giáo viên chỉ có con đường duy nhất là hình thành các hiểu biết về lý thuyết, các kỹ năng làm bài qua phân tích các bài mẫu ở sách giáo khoa. Chính vì vậy chưa gây được hứng thú cho học sinh khi học kiểu bài văn tả cảnh. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên chưa chú trọng việc rèn cho học sinh kĩ năng quan sát và dùng ngôn ngữ diễn đạt lại những gì mình đã quan sát được. Chưa tổ chức được nhiều hoạt động nhằm phát triển tư duy ngôn ngữ ở học sinh. Phân môn Tập làm văn là một môn học mang tính tổng hợp và sáng tạo, nhưng lâu nay người giáo viên (nhất là giáo viên lớp 4, lớp 5) chưa có cách phát huy tối đa năng lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh; chưa bồi dưỡng được cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt, ham thích học Tiếng Việt để từ đó các em nhận ra rằng đã là người Việt Nam thì phải đọc thông viết thạo Tiếng Việt và phát huy hết ưu điểm của tiếng mẹ đẻ. Bên cạnh đó, việc sử dụng vốn từ ngữ khi miêu tả cảnh của giáo viên còn hạn chế, chưa có những câu văn mượt mà nhưng vẫn chân thực, gần gũi, Đặc biệt, khi học sinh đưa ra một câu văn dùng từ chưa chuẩn hay thiếu hình ảnh, chưa hợp lí, giáo viên chưa chỉnh sửa kịp thời và không làm bật được cái hạn chế và thay thế ngay bằng câu văn có nghĩa, đúng ngữ pháp, giàu hình ảnh để học sinh có thể ‘‘mê’’ nên chưa thể thổi hồn, làm cầu nối nâng tình yêu văn học cho các em. Việc kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học thiếu linh hoạt hoặc đôi khi quá rập khuôn. Đa số giáo viên chỉ chú ý đến việc học ở lớp mà chưa chú ý đến việc luyện tập ở nhà, chưa hướng cho các em tìm hiểu thêm sách, báo, thực tế, ... Đôi khi để đối phó với việc học của học sinh chưa hoàn thành, để đảm bảo chất lượng kiểm tra ... một số giáo viên còn cho học sinh chép bài mẫu. Vì vậy dẫn đến tình trạng cả thầy và trò đôi khi bị lệ thuộc vào "mẫu", không thoát khỏi "mẫu". Trong quá trình giảng dạy giáo viên còn áp đặt, mới chỉ hướng dẫn học sinh theo yêu cầu của sách mà chưa chú ý đến việc thâm nhập và khám phá cái hay, cái đẹp của bài văn. Một bộ phận giáo viên vốn từ ngữ chưa phong phú, chưa có những phương pháp tối ưu khi hướng dẫn học sinh làm các dạng bài tập dẫn đến hiệu quả giảng dạy phân môn Tập làm văn chưa cao. Qua khảo sát chất lượng học sinh lớp 5A, 5B đầu năm học 2017 - 2018 kết quả khảo sát phần Tập làm văn học sinh còn mắc phải một số lỗi như sau: Lớp Sĩ số Lỗi sai Sử dụng biện pháp nghệ thuật Về bố cục Về diễn đạt ý Về đặt câu Về dùng từ Về chính tả SL % SL % SL % SL % SL % SL % 5A (Thực nghiệm) 30 4 13,2 3 10 6 20 6 20 5 16,8 9 30 5C (Đối chứng) 25 3 12 2 12 5 20 6 24 4 16 7 28 Từ những thực trạng trên, để khắc phục những tồn tại, nâng cao kết quả trong dạy học sinh kiểu bài văn Tả cảnh, tôi đưa ra một số giải pháp sau: 2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 2.3.1: Yêu cầu học sinh chuẩn bị bài trước khi học bài mới: Việc ôn lại kiến thức, kỹ năng đã học có liên quan đến bài mới, làm cơ sở cho bài mới hoặc chuẩn bị cho bài mới là một việc làm hết sức cần thiết đối với học sinh trước khi đến lớp như: - Nhớ lại cấu tạo của bài văn tả cảnh. - Xác định đối tượng cần miêu tả. - Tìm hiểu trước nội dung của bài học: Đề bài yêu cầu tả cảnh gì? Cảnh đó ở đâu? - Quan sát kĩ cảnh cần phải tả trong những thời điểm cụ thể, chọn vị trí quan sát thuận tiện nhất để nắm bắt được những chi tiết, đặc điểm quan trọng của cảnh. Quan sát bằng nhiều giác quan, lưu ý đến các yếu tố màu sắc, âm thanh, hình ảnh xem có hài hòa không... - Ghi chép những điều đã quan sát được về cảnh vật. - Lựa chọn từ ngữ, hình ảnh để diễn đạt. - Sắp xếp các ý theo một trình tự cụ thể. 2.3.2: Làm giàu vốn từ ngữ đối với HS, tích lũy các hình ảnh văn học: Trước khi học văn tả cảnh, thông qua các phân môn khác như Tập đọc, Luyện từ và câu,... giáo viên cho học sinh tìm các từ chỉ màu sắc của cảnh vật như: đỏ ối, xanh biếc, rực rỡ, ....; Tìm các từ ghép, từ láy miêu tả đặc điểm, màu sắc của cảnh vật, tìm các từ gợi tả về hình ảnh, âm thanh,... Các từ ngữ chỉ màu vàng như: vàng xuộm, vàng hoe, vàng lịm, vàng ối, vàng tươi, vàng xọng, vàng giòn, vàng mượt, vàng mới, màu vàng trù phú, đầm ấm,.. (Quang cảnh làng mạc ngày mùa); úa vàng, sắc vàng động đậy, con mang vàng, chân vàng, lá vàng, sắc nắng cũng vàng rực, giang sơn vàng rợi,.. (Kì diệu rừng xanh)... Cho học sinh luyện viết câu văn hay, tập diễn đạt bằng những câu văn giàu hình ảnh. Đối với học sinh tiểu học, câu là đơn vị để tạo nên đoạn văn, bài văn hay. Vì vậy, trong các tiết Luyện từ và câu nên cho học sinh đặt câu với các từ cho trước bằng cách thêm các bộ phận vào chủ ngữ và vị ngữ, sử dụng các biện pháp nghệ thuật nhân hóa, so sánh, đối lập, điệp từ,... khi viết câu để giúp các em có một vốn từ ngữ phong phú, đa dạng. Khi học sinh học những bài tập đọc, hay khi đọc những đoạn văn, đoạn thơ nên cho học sinh tìm những câu văn, câu thơ hay hoặc những từ ngữ hính ảnh đẹp mà mình yêu thích để chép lại vào sổ tay để làm tư liệu tham khảo khi làm Tập làm văn. Ví dụ: Khi học bài tập đọc: “Quang cảnh làng mạc ngày mùa” có thể cho học sinh nêu những hình ảnh mà mình thích. Chẳng hạn: “Trong vườn, lắc lư những chùm quả xoan vàng lịm không trông thấy cuống, như những chuỗi tràng hạt bồ đề treo lơ lửng” hoặc “Những tà
Tài liệu đính kèm:
- mot_so_bien_phap_tao_hung_thu_hoc_tap_cho_hoc_sinh_khi_day_h.doc