SKKN Một số giải pháp hướng dẫn học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa

SKKN Một số giải pháp hướng dẫn học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa

Giáo dục Tiểu học là một khoa học giáo dục khó nhất. Nó là nến móng đầu tiên để giúp con người tồn tại và phát triển. Môn Tiếng Việt là môn học có ý nghĩa quan trọng ở cấp Tiểu học. Đây là môn học cơ sở, môn học có mục tiêu hình thành, phát triển ở học sinh bốn kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết). Có thể nói đây chính là những kĩ năng không thể thiếu để học sinh có thể học tập, giao tiếp. Tuy nhiên qua khảo sát, qua trực tiếp giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy rất nhiều học sinh không thích học môn Tiếng Việt, ngại học môn Tiếng Việt, đặc biệt là các tiết Luyện từ và câu nhất là bài từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Trong chương trình môn Tiếng Việt ở Tiểu học, Luyện từ và câu được tách thành một phân môn độc lập có vị trí ngang bằng với các phân môn khác như Tập đọc, Chính tả, Tập làm văn. Ngoài ra, Luyện từ và câu còn được đặt trong các phân môn khác thuộc môn Tiếng Việt và trong giờ học của các môn khác.

 Như vậy nội dung dạy về Luyện từ và câu trong chương trình môn Tiếng Việt nói riêng, các môn học nói chung ở Tiểu học chiếm một tỷ lệ đáng kể. Điều đó nói lên ý nghĩa quan trọng của việc dạy Luyện từ và câu ở Tiểu học. Nói đến dạy Luyện từ và câu ở Tiểu học, người ta thường nói tới ba nhiệm vụ chủ yếu là giúp học sinh phong phú hoá vốn từ, chính xác hoá vốn từ và tích cực hoá vốn từ. Phong phú hoá vốn từ còn gọi là mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ nghĩa là xây dựng một vốn từ ngữ phong phú, thường trực và có hệ thống trong trí nhớ học sinh, để tạo điều kiện cho từ đi vào hoạt động ngôn ngữ (nghe - đọc, nói - viết) được thuận lợi. Chính xác hoá vốn từ là giúp học sinh hiểu nghĩa của từ một cách chính xác - nhất là đối với những từ ngữ mà học sinh thu nhận được qua cách học tự nhiên, đồng thời giúp học sinh nắm được nghĩa của những từ ngữ mới. Tích cực hoá vốn từ là giúp học sinh luyện tập, sử dụng từ ngữ trong nói - viết, nghĩa là giúp học sinh chuyển hoá những từ ngữ tiêu cực (từ ngữ mà chủ thể nói năng hiểu nhưng không hoặc ít dùng) thành những từ ngữ tích cực (từ ngữ được chủ thể nói năng sử dụng trong nói - viết) phát triển kỹ năng, kỹ xảo phát triển từ ngữ cho học sinh.

 

doc 20 trang thuychi01 6501
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số giải pháp hướng dẫn học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ THANH HOÁ
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 5 PHÂN BIỆT TỪ ĐỒNG ÂM VÀ TỪ NHIỀU NGHĨA
Người thực hiện: Lê Thị Loan
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường Tiểu học Hoàng Hoa Thám
SKKN thuộc lĩnh vực: Tiếng Việt
THANH HOÁ NĂM 2019
 MỤC LỤC
STT
 Nội dung
Trang
1
1.PHẦN MỞ ĐẦU
1
2
1.1. Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm
1-2
3
1.2. Mục đích nghiên cứu
2
4
1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
5
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2
6
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
2
7
2. NỘI DUNG
3
8
2.1. Cơ sở lý luận thực tiễn
3
9
2.2. Thực trạng của vấn đề
3
10
2.2.1. Thuận lợi
3
11
2.2.2. Khó khăn
4
12
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để hướng dẫn học sinh
6
13
 Giải pháp 1: Hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa bằng cách sử dụng tranh ảnh, vật thật để minh họa cho nghĩa của từ.
7
14
 Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa bằng cách đặt từ vào văn cảnh để hiểu đúng nghĩa của từ.
8
15
 Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa bằng cách dùng bảng hệ thống phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
9
16
 Giải pháp 4: Hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa bằng cách thành lập bảng những từ đồng âm, từ nhiều nghĩa để mở rộng vốn từ cho học sinh.
12
17
 Giải pháp 5: Hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa bằng cách thường xuyên đưa những câu văn, đoạn văn, bài đọc có chứa từ đồng âm, nhiều nghĩa trong các buổi sinh hoạt ngoại khóa.
13
18
2.4.Hiệu quả
14
19
3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
15- 16
1. MỞ ĐẦU 
1.1. Lí do chọn đề tài 
Giáo dục Tiểu học là một khoa học giáo dục khó nhất. Nó là nến móng đầu tiên để giúp con người tồn tại và phát triển. Môn Tiếng Việt là môn học có ý nghĩa quan trọng ở cấp Tiểu học. Đây là môn học cơ sở, môn học có mục tiêu hình thành, phát triển ở học sinh bốn kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết). Có thể nói đây chính là những kĩ năng không thể thiếu để học sinh có thể học tập, giao tiếp. Tuy nhiên qua khảo sát, qua trực tiếp giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy rất nhiều học sinh không thích học môn Tiếng Việt, ngại học môn Tiếng Việt, đặc biệt là các tiết Luyện từ và câu nhất là bài từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Trong chương trình môn Tiếng Việt ở Tiểu học, Luyện từ và câu được tách thành một phân môn độc lập có vị trí ngang bằng với các phân môn khác như Tập đọc, Chính tả, Tập làm văn... Ngoài ra, Luyện từ và câu còn được đặt trong các phân môn khác thuộc môn Tiếng Việt và trong giờ học của các môn khác...
 Như vậy nội dung dạy về Luyện từ và câu trong chương trình môn Tiếng Việt nói riêng, các môn học nói chung ở Tiểu học chiếm một tỷ lệ đáng kể. Điều đó nói lên ý nghĩa quan trọng của việc dạy Luyện từ và câu ở Tiểu học. Nói đến dạy Luyện từ và câu ở Tiểu học, người ta thường nói tới ba nhiệm vụ chủ yếu là giúp học sinh phong phú hoá vốn từ, chính xác hoá vốn từ và tích cực hoá vốn từ. Phong phú hoá vốn từ còn gọi là mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ nghĩa là xây dựng một vốn từ ngữ phong phú, thường trực và có hệ thống trong trí nhớ học sinh, để tạo điều kiện cho từ đi vào hoạt động ngôn ngữ (nghe - đọc, nói - viết) được thuận lợi. Chính xác hoá vốn từ là giúp học sinh hiểu nghĩa của từ một cách chính xác - nhất là đối với những từ ngữ mà học sinh thu nhận được qua cách học tự nhiên, đồng thời giúp học sinh nắm được nghĩa của những từ ngữ mới. Tích cực hoá vốn từ là giúp học sinh luyện tập, sử dụng từ ngữ trong nói - viết, nghĩa là giúp học sinh chuyển hoá những từ ngữ tiêu cực (từ ngữ mà chủ thể nói năng hiểu nhưng không hoặc ít dùng) thành những từ ngữ tích cực (từ ngữ được chủ thể nói năng sử dụng trong nói - viết) phát triển kỹ năng, kỹ xảo phát triển từ ngữ cho học sinh.
Trong ba nhiệm vụ cơ bản nói trên, nhiệm vụ phong phú hoá vốn từ, phát triển, mở rộng vốn từ được coi là trọng tâm. Bởi vì đối với học sinh Tiểu học, từ ngữ được cung cấp trong phân môn Luyện từ và câu giúp các em hiểu được các phát ngôn khi nghe - đọc. Ngoài ra, ở một chừng mực nào đó, phân môn Luyện từ và câu ở Tiểu học còn có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh một số khái niệm có tính chất sơ giản ban đầu về cấu tạo từ và nghĩa của từ Tiếng Việt (như các khái niệm từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng âm, nghĩa của từ...). Những kiến thức có tính chất lý thuyết về từ này có tác dụng làm cơ sở, làm chỗ dựa cho việc thực hành luyện tập về từ ngữ cho học sinh. Dân gian có câu: ‘‘Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”. Vấn đề từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là một vấn đề khá phức tạp, dễ nhầm lẫn.
	Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là mảng kiến thức quan trọng của phân môn Luyện từ và câu lớp 5. Tuy nhiên, đa số học sinh vẫn chưa thấy được mối quan hệ giữa chúng nên các em còn lúng túng khi gặp các bài tập dạng này. Để nắm chắc về mảng kiến thức này, yêu cầu các em phải có đầu óc tổng hợp cao trong khi tư duy của các em còn cụ thể, chưa phát triển tư duy trừu tượng. Điều này đòi hỏi giáo viên cần phải tìm ra được biện pháp dạy học thích hợp với tâm lý nhận thức của các em. 
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm qua, tôi nhận thấy: Số tiết dạy về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa là rất ít (5 tiết):
+ Tuần 5: Từ đồng âm.
+ Tuần 7: Từ nhiều nghĩa.
 Luyện tập về từ nhiều nghĩa.
+ Tuần 8: Luyện tập về từ nhiều nghĩa.
Sách giáo khoa chỉ đưa ra một vài ví dụ điển hình, mang tính chất giới thiệu. Trong khi đó mảng kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa khá trừu tượng. Đó là điều trăn trở, lo nghĩ của biết bao giáo viên đứng trên bục giảng khi dạy phân môn Luyện từ và câu 
Trăn trở về vấn đề này, qua nhiều năm dạy lớp 5, bản thân tôi đã đúc rút ra một số kinh nghiệm nhỏ về cách hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Vì vậy, tôi mạnh dạn đề xuất: ‘‘Một số giải pháp hướng dẫn học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa ” nhằm giúp học sinh tốt hơn phần kiến thức này, đồng thời giúp các em học sinh hiểu bài sâu hơn, nhớ bài lâu hơn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
1.2. Mục đích nghiên cứu : 
 Tìm ra các biện pháp giúp học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để từ đó giúp các em tiếp thu và lĩnh hội tốt phần kiến thức này . 
1.3. Đối tượng nghiên cứu
S¸ng kiÕn: “Một số giải pháp hướng dẫn học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa ” ®­îc t«i ¸p dông thùc hiÖn ®èi víi häc sinh líp 5C Tr­êng TiÓu học Hoàng Hoa Thám
- SÜ sè: 42 häc sinh: Trong đó; Nam: 21 em, N÷: 21 em
1.4. Phương pháp nghiên cứu
 Việc dạy hai bài học trên cũng tuân theo nguyên tắc chung khi dạy Luyện từ và câu và vận dụng các phương pháp, hình thức dạy học như:
- Phương pháp hỏi đáp.	- Hình thức học cá nhân.
- Phương pháp giảng giải.	- Thảo luận nhóm.
- Phương pháp trực quan.	- Tổ chức trò chơi.
- Phương pháp luyện tập thực hành.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm 
 Giáo viên giúp các em nắm chắc khái niệm và nhận diện chính xác từ đồng âm, từ nhiều nghĩa. Trên cơ sở đó, đưa ra các biện pháp giúp các em phân biệt hai kiểu từ này.
2. NỘI DUNG 
2.1. Cơ sở lí luận thực tiễn
Con người muốn tư duy phải có ngôn ngữ. Cả những lúc chúng ta nghĩ thầm trong bụng, chúng ta cũng “bụng bảo dạ” cũng nói thầm, tức là cũng sử dụng ngôn ngữ, một hình thức ngôn ngữ mà các nhà chuyên môn gọi là ngôn ngữ bên trong. Còn thông thường thì chúng ta thể hiện ra ngoài kết quả của hoạt động tư duy, những ý nghĩ tư tuởng của chúng ta thành những lời nói, những thực thể ngôn ngữ nhất định. Ngôn ngữ là công cụ, là hiện thực của tư duy. Bởi lẽ đó, tư duy và ngôn ngữ có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Người có tư duy tốt sẽ nói năng mạch lạc, trôi chảy và nếu trau dồi ngôn ngữ được tỉ mỉ, chu đáo thì sẽ tạo điều kiện cho tư duy phát triển tốt. Con em chúng ta, muốn lớn lên trở thành những con người hiện đại phải được giáo dục đầy đủ trong gia đình, trong trường học, ngoài xã hội. Nhưng giáo dục về bản chất có thể nói, đó là sự chuyển giao các giá trị văn hoá đông tây, kim cổ một sự giao tiếp cùng thời và lịch sử mà phương tiện chủ yếu là lời nói của cha mẹ, thầy cô, là sách báo các loại; nói một cách khác, giáo dục trong sự biểu hiện cụ thể của nó. Xét cho cùng chính là một sự giao tiếp ngôn từ, giao tiếp bằng ngôn ngữ. Trong giáo dục, việc nắm vững tiếng nói (trước hết là tiếng mẹ đẻ) có ý nghĩa quyết định. Nếu học sinh chưa tốt về ngôn ngữ, nghe nói chỉ hiểu lơ mơ, nói viết không chính xác, không thể hiện được ý mình cho suôn sẻ, thì không thể nào khai thác đầy đủ các thông tin tiếp nhận từ người thầy, từ sách vở được. Bởi vậy, trong nội dung giáo dục, chúng ta cần phải hết sức coi trọng việc đào tạo về mặt ngôn ngữ, xem đó là điều kiện không thể thiếu để bảo đảm thành công trong thực hiện sứ mệnh trọng đại của mình. Mặt khác, Tiếng Việt là môn học chiếm thời lượng lớn nhất trong các môn học. Chính Tiếng Việt đã cung cấp vốn ngôn ngữ đồ sộ cho học sinh. Nó không những giúp học sinh am hiểu tiếng mẹ đẻ mà còn giúp học sinh phát triển tư duy để học tốt môn học khác. Do đó, bản thân tôi cũng như mọi giáo viên khác khi đi dạy luôn coi trọng việc dạy ngôn ngữ là một điều kiện không thể thiếu để đảm bảo thành công trong việc thực hiện sứ mệnh trọng đại của mình. Như vậy, môn Tiếng Việt có vai trò hết sức quan trọng. 
Một trong những nguyên tắc cơ bản của dạy Tiếng Việt là dạy học thông qua giao tiếp. Các hoạt động giao tiếp, đặc biệt giao tiếp bằng ngôn ngữ là công cụ cực mạnh để học sinh tiếp cận, rèn luyện và phát triển khả năng sử dụng từ Tiếng Việt. Do đó, việc đưa học sinh vào các hoạt động học tập trong giờ Tiếng Việt của chúng ta thực sự có nhiều khía cạnh khó, một trong những nội dung khó đó là phần nghĩa của từ. Trong đó, việc phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là vấn đề mà rất nhiều học sinh còn lúng túng. 
 2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Thuận lợi
a. Giáo viên:
Nhà trường luôn tạo điều kiện cho công tác, đầy đủ SGK, sách hướng dẫn và được học về sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại. Bản thân luôn yêu nghề, có năng lực sư phạm. Phân môn Luyện từ và câu của lớp 5 nhìn chung ngắn gọn, cụ thể đã được bớt nhiều so với chương trình Từ ngữ - ngữ pháp của lớp 5 cũ, phân môn chỉ rõ 2 dạng bài: Bài lý thuyết và bài tập thực hành với định hướng rõ ràng.
b. Học sinh:
- Học sinh đã quen với cách học mới từ lớp 1, 2, 3, 4 nên các em đã biết các lĩnh hội và luyện tập thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
- Sự quan tâm của phụ huynh học sinh cũng góp phần nâng cao chất lượng môn học nói riêng và môn Tiếng việt nói chung.
- Các em học sinh đều được học 9 buổi/tuần và được sự quan tâm dạy dỗ nhiệt tình của các thầy giáo, cô giáo. Từ đó giúp các em có khả năng sử dụng thành thạo các bài tập thực hành và áp dụng linh hoạt vào các phân môn khác.
2.2.2. Khó khăn
Do Luyện từ và câu là một phân môn mới và khó và việc hiểu nghĩa của từ đối với học sinh lại càng khó hơn cho nên giáo viên còn lúng túng trong việc tổ chức một tiết dạy - học Luyện từ và câu sao cho đúng yêu cầu của phân môn, đúng đặc trưng của phân môn và đạt được hiệu quả dạy - học cao. Dưới cái nhìn của giáo viên, có thể nói một số nội dung giảng dạy (được trình bày trong sách giáo khoa) còn ít nhiều xa lạ và phương pháp dạy phân môn này hầu như chưa định hình, cho nên giáo viên gặp nhiều khó khăn trong giảng dạy. Giáo viên có tâm lý ngại dạy Luyên từ và câu nhất là phần từ đồng âm và từ nhiều nghĩa . Vì thế hiệu quả dạy - học giờ phần này nhìn chung còn thấp. Với tôi, việc dạy phân môn Luyện từ và câu phần từ đồng âm và từ nhiều nghĩa còn chưa tốt thường có mấy nguyên nhân cơ bản sau:
a. Giáo viên
- Vốn từ ngữ của một số giáo viên chưa phong phú, chưa đáp ứng được yêu cầu hướng dẫn học sinh mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ. Đa số giáo viên còn lúng túng khi miêu tả, giải thích nghĩa của từ. Vì vậy, việc giáo viên hướng dẫn học sinh tập giải nghĩa từ, làm bài tập giải nghĩa từ cũng chưa đạt hiệu quả cao. Kiến thức về từ vựng - ngữ nghĩa học của một số giáo viên còn hạn chế, nên bộc lộ những sơ suất, sai sót về kiến thức.
 - Thời lượng giảng dạy về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa còn ít, (02 tiết dạy về từ đồng âm, 03 tiết dạy về từ nhiều nghĩa) trong khi đó căn cứ vào Hướng dẫn điều chỉnh nội dung chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì một tiết luyện tập về từ đồng âm được giảm tải tức là tiết "Dùng từ đồng âm để chơi chữ" được giảm tải. Vì vậy, các em vận dụng vào luyện tập, thực hành và giao tiếp trong cuộc sống còn nhiều hạn chế.
 - Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có đặc điểm và hình thức giống nhau, (đọc giống nhau, viết giống nhau) chỉ khác nhau về ý nghĩa nên việc xác định từ đồng âm, từ nhiều nghĩa là vấn đề không hề đơn giản.
b. Học sinh:
 - Học sinh ít hứng thú học phân môn này.
 - Vốn từ vựng của các em học sinh còn hạn chế.
 - Vì ảnh hưởng của phương ngữ nên có nhiều học sinh phát âm chưa chuẩn dẫn đến phân biệt từ chưa chính xác. 
 - Một số ít học sinh chưa hiểu được bản chất (khái niệm) của từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
 - Khả năng đọc hiểu của học sinh còn hạn chế, không hiểu được văn cảnh của câu văn. Bên cạnh đó còn một bộ phận học sinh do hổng kiến thức từ lớp dưới, nên không thể hoàn thành hệ thống bài tập trên lớp. Từ những tồn tại nêu trên, bản thân tôi đã rất băn khoăn và trăn trở, luôn suy nghĩ để tìm ra nguyên nhân để nâng cao chất lượng phần từ đồng âm và từ nhiều nghĩa .
Năm học 2018 - 2019, tôi được phân công dạy Tiếng việt lớp 5C và lớp 5A, trường Tiểu học Hoàng Hoa Thám. Lớp tôi có 42 học sinh trong đó có: 21 em nữ, 21 em nam. Hầu hết các em đều mạnh dạn, ngoan ngoãn, vâng lời thầy cô. Tuy nhiên, các bài tập bản thân tôi đưa ra các em đều khó hoàn thành hoặc hoàn thành nhưng thiếu chiều sâu, nhiều em nhớ nhanh nhưng cũng nhanh quên, vốn hiểu biết của các em không được mở rộng. Để nắm cụ thể về thực trạng của các em trong lớp về thực trạng tiếp thu phần từ Đồng âm và từ nhiều nghĩa với mong muốn học sinh của mình học tốt hơn, hiệu quả giờ dạy đạt cao hơn, bản thân tôi đã khảo sát chất lượng và xem mức độ tiếp thu phần này của các em như thế nào với đề bài như sau:
Đề bài: (Thời gian 40 phút)
Câu 1:(1 điểm )
 a) Dòng nào dưới đây chứa từ đồng âm ?
 A. Ba/ Tía/ Bố/ Thầy 
 B. Cánh đồng/ Tượng đồng/ Đồng xu
 C. Miệng rộng thì sang/ Miệng bát/ Miệng ăn
 b) Cặp từ ngữ nào dưới đây chứa từ nhiều nghĩa ?
 A. Vách đá - Đá bóng
 B. Anh dũng - Dũng cảm
 C. Đôi mắt - Mắt cá chân
Câu 2: (3 điểm)
 Từ bay trong các câu sau là từ đồng âm hay từ nhiều nghĩa ?
 A. Bác thợ nề đang cầm bay trát tường.
 B. Cánh cò bay lả dập dờn.
 C. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đạn quân thù bay vèo vèo.
 D. Chiếc áo xanh của bố em đã bay màu.
Câu 3: (3 điểm)
Đặt câu với các từ nhiều nghĩa sau: (một câu theo nghĩa gốc, một câu theo nghĩa chuyển): nhà, đi, ngọt.
Câu 4: (3 điểm)
Với mỗi từ sau, hãy đặt 2 câu để phân biệt các từ đồng âm: chiếu, kén, mọc.
Đáp án đề khảo sát:
 Tôi tiến hành khảo sát ở 2 lớp: Lớp 5C (do tôi làm chủ nhiệm) và 5A
Câu 1: (1 điểm) Mỗi lựa chọn đúng được 0,5 điểm
a) B b) C
Câu 2: (3 điểm) Mỗi xác định đúng được 0,75 điểm
A. Cầm bay trát tường: Từ đồng âm
B. Cánh cò bay: Từ nhiều nghĩa (nghĩa gốc)
C. Đạn bay: Từ nhiều nghĩa (nghĩa chuyển)
D. Bay màu: Từ nhiều nghĩa (nghĩa chuyển)
Câu 3: (3 điểm) Học sinh đặt đúng mỗi câu được 0,5 điểm
Ví dụ:
- Ngôi nhà đẹp quá./ Nhà tôi đi vắng.
- Em bé đang chập chững tập đi. / Tuần sau, chúng tôi đi du lịch Thái Lan.
- Quả cam ngọt quá./ Chị ấy nói ngọt thật.
Câu 4: (3 điểm) Học sinh đặt đúng mỗi câu được 0,5 điểm
Ví dụ:
- Ánh trăng chiếu qua kẽ lá./ Bà tôi trải chiếu ra sân ngồi hóng mát.
- Con tằm đang làm kén. / Cô ấy là người hay kén chọn.
- Mặt trời mọc./ Bát bún mọc ngon tuyệt.
Sau khi thu và chấm bài, chúng tôi thấy các em đều làm đúng câu 1; câu 2 thì có một số ít em còn nhầm lẫn; câu 3, 4 thì chỉ ít em đặt câu đúng yêu cầu. Câu 4 có một, hai em chưa kịp làm đến .
 Và kết quả làm bài của học sinh đạt được như sau:
Thời gian
kiểm tra
Lớp 
Tống số học sinh 
Kết quả
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
%
SL
%
SL
%
Đầu học kỳ I
(tháng 9/2018)
5A
39
5
12,8
18
46,2
16
41
5C
42
10
23,8
20
47,6
12
28,5
Qua kết quả làm bài khảo sát, tôi nhận thấy đa số các em đều làm chưa tốt. Số em hoàn thành tốt còn ít, số em hoàn thành và chưa hoàn thành còn nhiều. Bản thân tôi suy nghĩ và rút ra được: các em làm được kết quả như vậy là do những nguyên nhân sau: 
 - Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có đặc điểm và hình thức giống nhau, đọc giống nhau, viết cũng giống nhau chỉ khác nhau về ý nghĩa. 
Ví dụ 1: Từ đồng âm “bàn”(1) trong “cái bàn” và “bàn” trong “bàn công việc” xét về hình thức ngữ âm thì hoàn toàn giống nhau còn nghĩa thì hoàn toàn khác nhau: “bàn” (1) là danh từ chỉ một đồ vật có mặt phẳng, chân đứng để đồ đạc hoặc làm việc, “bàn” (2) là động từ chỉ sự trao đổi ý kiến.
Ví dụ 2: Từ nhiều nghĩa: “bàn”(1) trong “cái bàn” và “bàn”(2) trong “bàn phím”. Hai từ “bàn” này, về hình thức ngữ âm hoàn toàn giống nhau còn nghĩa thì “bàn” (1) là danh từ chỉ một đồ vật có mặt phẳng, có chân dùng để đi kèm với ghế làm đồ nội thất; “bàn”(2) là bộ phận tập hợp các phím trong một số loại đàn hoặc máy tính. bàn” trong “cái bàn” và “bàn” trong “bàn công việc”đều mang nghĩa gốc, VD2 “bàn” trong “cái bàn” mang nghĩa gốc còn “bàn” trong “bàn phím” mang nghĩa chuyển.
 - Trong chương trình Tiếng Việt 5 chưa có dạng bài tập phối hợp cả hai kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để học sinh rèn kĩ năng phân biệt. 
 - HS còn chưa phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa. 
 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
 Giải pháp 1: Hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa bằng cách sử dụng tranh ảnh, vật thật để minh họa cho nghĩa của từ.
Trong quá trình dạy học các bài về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, giáo viên cần sử dụng đồ dùng dạy học, tranh ảnh minh họa nhằm giúp học sinh dễ dàng phân biệt nghĩa của từ.
Ví dụ: 
Cờ Tổ quốc
Cờ vua
Cá cờ
Học sinh dễ dàng nhận biết từ cờ trong ví dụ trên là từ đồng âm vì chúng không liên quan gì với nhau về nghĩa.
Bàn ghế
Bàn bạc
Học sinh dễ dàng nhận biết từ bàn trong ví dụ trên là từ đồng âm vì chúng không liên quan gì với nhau về nghĩa, hơn nữa chúng lại khác nhau về từ loại.
Lá tre
Lá thư
Học sinh dễ dàng phân biệt được: 
+ Lá tre: Từ nhiều nghĩa (nghĩa gốc. Lá: Bộ phận của cây, thường mọc ở cành hay thân và thường có hình dẹt, màu lục, có vai trò chủ yếu trong việc tạo ra chất hữu cơ nuôi cây)
+ Lá thư: Từ nhiều nghĩa (nghĩa chuyển. Lá: Giấy viết gửi cho người nào đó, mang nội dung những điều mình muốn nói với người ấy).
Như vậy: Khi hướng dẫn các em phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa thì việc dùng tranh ảnh, vật thật minh họa có vai trò quan trọng và giúp học sinh dễ dàng nhận biết nghĩa của từ.
Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa bằng cách đặt từ vào văn cảnh để hiểu đúng nghĩa của từ.
Ví dụ 1:
Từ “đậu”trong câu sau quan hệ với nhau về nghĩa thế nào ?
 “Ruồi đậu mâm xôi đậu.” 
Trong văn cảnh này từ đậu thứ nhất “ruồi đậu” là động từ có nghĩa con ruồi nó dừng lại ở trên mâm xôi. Còn từ đậu thứ hai “xôi đậu” được nấu từ gạo nếp và loại đậu nào đó, từ đậu ở đây thuộc từ loại là danh từ. 
Vì vậy từ đậu trong câu trên là từ đồng âm.
Ví dụ 2:
Từ vàng trong các câu sau là từ đồng âm hay từ nhiều nghĩa ?
a) Giá vàng trong nước tăng đột biến.
b) Mẹ em là một người có tấm lòng vàng.
c) Chiếc lá vàng rơi xuống sân trường.
- Trước hết tìm hiểu nghĩa của từ vàng trong từng câu như sau:
+ Giá vàng: chỉ số tiền để mua một lượng vàng nhất định (Ví dụ: Hôm nay, giá vàng là 3.500.000 đồng một chỉ.)
+ Tấm lòng vàng: là một người có tình yêu thương với tất cả mọi người, sẵn sàng giúp đỡ mọi người không vì mục đích gì.
+ Lá vàng: chỉ trạng thái của lá cây ở giai đoạn chuẩn bị lìa cành.
- Như vậy, học sinh dễ dàng xác định được:
+ Từ vàng trong Giá vàng/ tấm lòng vàng là từ nhiều nghĩa (giá vàng: vàng mang nghĩa gốc/ tấm lòng vàng: vàng mang nghĩa chuyển)
+ Từ vàng trong Giá vàng/ lá vàn

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_huong_dan_hoc_sinh_lop_5_phan_biet_tu.doc