Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý để học tốt phân môn tập làm văn, ở lớp 5B Trường Tiểu học Thọ Thanh, huyện Thường Xuân

Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý để học tốt phân môn tập làm văn, ở lớp 5B Trường Tiểu học Thọ Thanh, huyện Thường Xuân

Là giáo viên Tiểu học ai cũng nắm rất rõ: Mục tiêu giáo dục tiểu học là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách của trẻ và cung cấp cho trẻ những tri thức cần thiết. Trong đó phải kể đến phân môn tập làm văn ở tiểu học có nhiệm vụ rất quan trọng là rèn luyện kỹ năng nói và viết cho học sinh. Là nơi thử thách ở học sinh các kỹ năng tiếng Việt, vốn sống, vốn từ ngữ, năng lực cảm thụ văn học một cách tổng hợp. Song trên thực tế đa số học sinh còn lúng túng không biết nói gì, viết gì.

 Qua thực tế nhiều năm trong quá trình giảng dạy học sinh lớp 5 tại Trường Tiểu học Thọ Thanh. Tôi nhận thấy rằng hầu hết các bài văn của các em thường rập khuôn theo môtíp quen thuộc, lời văn còn nghèo nàn, thiếu hình ảnh, thiếu sự quan sát tinh tế làm cho nhân vật trở nên méo mó, cảnh vật thì khô cứng

Đa phần giáo viên và học sinh đều chưa nhận thức hết tầm quan trọng của giờ hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý nên các em ít được phát huy hết khả năng tiềm ẩn và hoàn toàn không có tính sáng tạo trong bài viết dẫn đến chất lượng giờ dạy còn nhiều hạn chế.

Vì vậy dạy cho học sinh biết quan sát tìm ý để hình thành một thói quen, tiền đề chuẩn bị làm bài văn là một yêu cầu quan trọng khi làm văn. Muốn quan sát tốt, học sinh cần nắm được cách quan sát và những yêu cầu quan sát để làm văn.

Để giải quyết những tồn tại trên đây hay nói cách khác là giúp các em có kỹ năng quan sát tìm ý để học tốt phân môn tập làm văn. Bản thân tôi đã trăn trở, tìm tòi trong nhiều năm qua và đó cũng chính là lý do tôi chọn đề tài “Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý để học tốt phân môn tập làm văn, ở lớp 5B Trường Tiểu học Thọ Thanh, huyện Thường Xuân”.

 

doc 13 trang thuychi01 7802
Bạn đang xem tài liệu "Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý để học tốt phân môn tập làm văn, ở lớp 5B Trường Tiểu học Thọ Thanh, huyện Thường Xuân", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
STT
NỘI DUNG
TRANG
1.
Mục lục
2.
1. Mở đầu
1
3.
1.1. Lí do chọn đề tài
1
4.
1.2. Mục đích nghiên cứu
1
5.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1
6.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1
7.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2
8.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2
9.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3
10.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
4
11.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
10
12.
3. Kết luận, kiến nghị
11
1. Mở đầu
	1.1. Lí do chọn đề tài
	Là giáo viên Tiểu học ai cũng nắm rất rõ: Mục tiêu giáo dục tiểu học là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách của trẻ và cung cấp cho trẻ những tri thức cần thiết. Trong đó phải kể đến phân môn tập làm văn ở tiểu học có nhiệm vụ rất quan trọng là rèn luyện kỹ năng nói và viết cho học sinh. Là nơi thử thách ở học sinh các kỹ năng tiếng Việt, vốn sống, vốn từ ngữ, năng lực cảm thụ văn học một cách tổng hợp. Song trên thực tế đa số học sinh còn lúng túng không biết nói gì, viết gì.
	Qua thực tế nhiều năm trong quá trình giảng dạy học sinh lớp 5 tại Trường Tiểu học Thọ Thanh. Tôi nhận thấy rằng hầu hết các bài văn của các em thường rập khuôn theo môtíp quen thuộc, lời văn còn nghèo nàn, thiếu hình ảnh, thiếu sự quan sát tinh tế làm cho nhân vật trở nên méo mó, cảnh vật thì khô cứng
Đa phần giáo viên và học sinh đều chưa nhận thức hết tầm quan trọng của giờ hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý nên các em ít được phát huy hết khả năng tiềm ẩn và hoàn toàn không có tính sáng tạo trong bài viết dẫn đến chất lượng giờ dạy còn nhiều hạn chế.
Vì vậy dạy cho học sinh biết quan sát tìm ý để hình thành một thói quen, tiền đề chuẩn bị làm bài văn là một yêu cầu quan trọng khi làm văn. Muốn quan sát tốt, học sinh cần nắm được cách quan sát và những yêu cầu quan sát để làm văn.
Để giải quyết những tồn tại trên đây hay nói cách khác là giúp các em có kỹ năng quan sát tìm ý để học tốt phân môn tập làm văn. Bản thân tôi đã trăn trở, tìm tòi trong nhiều năm qua và đó cũng chính là lý do tôi chọn đề tài “Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý để học tốt phân môn tập làm văn, ở lớp 5B Trường Tiểu học Thọ Thanh, huyện Thường Xuân”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Dựa vào việc tìm hiểu thực trạng của việc giảng dạy và học tập giờ quan sát tìm ý cho bài tập làm văn hiện nay, người viết có một số đề xuất về việc hướng dẫn học sinh biết quan sát tìm ý một cách tích cực có hiệu quả tiến tới học sinh có khả năng nói và viết tốt hơn.
	1.3. Đối tượng nghiên cứu
	- Chương trình phân môn tập làm văn.
	- Phương pháp dạy phân môn tập làm văn 
	- Cách tổ chức học sinh quan sát, tìm ý.
	- Giáo viên và học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Thọ Thanh.
	1.4. Phương pháp nghiên cứu
	- Nghiên cứu tài liệu:
+ Đọc tài liệu, sách tham khảo.
- Khảo sát thực tế: 
+ Dự giờ thăm lớp.
	+ Khảo sát tình hình thực tế.
	- So sánh đối chiếu.
	- Phương pháp thực hành 
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Vị trí nhiệm vụ phân môn tập làm văn
Phân môn tập làm văn có nhiệm vụ chủ yếu là dạy học sinh viết ra các ngôn bản hay viết tập làm văn còn là sản phẩm thể hiện rõ vốn hiểu biết, đời sống, trình độ văn hoá của học sinh, bài tập làm văn trở thành sản phẩm tổng hợp, là nơi trình bày kết quả đích thực của việc học tiếng Việt.
2.1.2. Tiết dạy quan sát và tìm ý
Tổ chức cho học sinh quan sát đối tượng miêu tả là một công việc thuận về nguyên tắc khi dạy học văn miêu tả. Trên cơ sở thu nhận trực tiếp các nhận xét, ấn tượng, cảm xúc giúp cho việc quan sát tốt hơn. Từ đó hiểu biết kỹ năng về văn miêu tả được hình thành một cách tự giác chủ yếu qua con đường thực hành.
Tiết học này mở đầu một quy trình dạy một kiểu bài, thông qua một bài cụ thể luyện cho học sinh hai kỹ năng.
- Tìm tư liệu cho đề bài để chuẩn bị cho bài tập làm văn.
- Cung cấp hiểu biết chung nhất mang tính lý thuyết về kiểu bài, loại bài.
2.1.3. Cơ sở tâm lý và cơ sở ngôn ngữ
- Ở lứa tuổi lớp 5, học sinh đang phát triển về hệ xương, hệ thần kinh, ... 
- Các em đã có sự phát triển về trí tuệ, tâm hồn, các em thích quan sát mọi vật xung quanh. Khả năng tư duy cụ thể nhiều hơn khả năng khái quát hoá. Về tình cảm các em rất nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, các em dễ xúc động và bắt đầu biết mơ ước, có trí tưởng tượng phong phú. Thích ghi lại các vấn đề mà mình đã quan sát được song vốn ngôn ngữ còn hạn chế, sắp xếp ý chưa có hệ thống và diễn đạt còn thiếu mạch lạc.
2.1.4. Chương trình và sách giáo khoa
Phân môn tập làm văn ở lớp 5 một tuần có 2 tiết bao gồm các thể loại sau:
- Miêu tả: 	
+ Tả người
+ Tả cảnh sinh hoạt 
- Kể chuyện xây dựng theo chủ đề
- Viết biên bản
Số tiết dạy quan sát tìm ý cho học sinh lớp 5 không nhiều nhưng lại vô cùng quan trọng
- Tiết quan sát tìm ý tả cảnh ( tuần 1)
- Tiết quan sát tìm ý tả người ( tuần 12).
Tiết học này mở đầu cho quy trình dạy một bài văn miêu tả cụ thể. Kết quả cuối cùng của tiết học này là học sinh phải tìm được ý cần thiết chuẩn bị cho việc làm bài văn theo yêu cầu của đề bài đã cho.
- Hình thành phương pháp kỹ năng quan sát cho những yêu cầu của các đề văn khác.
 Sách giáo khoa : Sách tiếng Việt lớp 5 và một số sách tham khảo.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng của giáo viên và học sinh
- Phần đông học sinh khi được hỏi các em có thích nghe phân tích cái hay, cái đẹp trong văn học không thì các em trả lời là “Thích” nhưng hỏi các em có thích học văn không thì nhiều em đều trả lời “Không thích” vì “Khó học”, “ngại viết”.
Còn với giáo viên thì đa số đều cho các tiết dạy học sinh quan sát, tìm ý “khó dạy”. Đây là các tiết mới có từ khi thực hiện SGK cải cách giáo dục, các chỉ dẫn về phương pháp giảng dạy còn sơ lược, kinh nghiệm giảng dạy của giáo viên về quan sát tìm ý chưa nhiều. Tuy vậy các tiết quan sát tìm ý lại đóng vai trò quan trọng đối với phân môn tập làm văn.
2.2.2. Thực trạng việc dạy giờ quan sát tìm ý ở trường Tiểu học
* Nội dung mức độ kỹ năng cần đạt được
Đề bài tập làm văn ở lớp 5 thường chọn những đề bài gần gủi với học sinh và học sinh có điều kiện quan sát cụ thể đối tượng cần miêu tả.
* Mức độ kỹ năng cần đạt
- Kỹ năng quan sát biết lựa chọn trình tự quan sát, biết sử dụng các giác quan để quan sát, quan sát cần đi vào trọng tâm của cảnh vật và người từ đó rèn luyện sự tinh tế trong quan sát.
* Phương pháp 
Trình tự tiết dạy thường được thiết kế như sau:
- Kiểm tra phần chuẩn bị của học sinh.
- Giới thiệu đề bài.
- Tìm hiểu đề.
- Đọc phần hướng dẫn, ghi nhớ.
- Đọc phần quan sát, tìm ý của học sinh đã sắp xếp thành dàn ý.
- Cho nhận xét.
- Tổng kết, dặn dò.
* Thực tế học sinh đã học, đã thực hành và thu được kết quả gì qua giờ học
- Học sinh quan sát còn đại khái, lướt qua nên không tìm được ý, do đó ý nghèo nàn, bài văn không có sáng tạo, học sinh ngại nói, ngại viết.
- Học sinh không biết ghi chép những gì mà mình quan sát được một cách rõ ràng, chưa biết sắp xếp ý theo một trình tự hợp lý. Từ đó hạn chế tới việc nói và viết.
2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại
- Sự hướng dẫn ở học sinh chưa thật cụ thể, dể hiểu.
- Sự chuẩn bị của giáo viên chưa thật chu đáo do đó hướng dẫn học sinh quan sát chưa kỹ.
- Học sinh thiếu sự tưởng tượng, ít cảm xúc về đối tượng miêu tả. Không quan sát theo đúng yêu cầu. Với ngôn ngữ quá ít ỏi, nghèo nàn ... Những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng không tốt đến giờ dạy, không gây được hứng thú học tập của học sinh.
Đứng trước thực trạng trên, để học sinh lớp 5B trường Tiểu học Thọ Thanh có kỹ năng quan sát tìm ý, biết sắp xếp các ý mình đã quan sát được và vân dụng vào các tiết tập làm văn. Bản thân đã cố gắng tìm tòi cách dạy nhằm giúp các em học tốt phân môn tập làm văn. Nên ngay từ những tuần đầu tiên bản thân đã mạnh dạn khảo sát học sinh lớp mình thực dạy. Cụ thể như sau:
Kết quả khảo sát trước khi áp dụng sáng kiến:
Qua thực tế khảo sát đầu năm học 2015 - 2016 với đề bài văn “tả cảnh” ở lớp 5B, Trường Tiểu học Thọ Thanh do tôi giảng dạy. Kết quả đạt mức như sau: 
Tổng số bài
Nắm được yêu cầu, thể loại đề bài
Chưa nắm được yêu cầu, thể loại đề bài
Biết cách quan sát tìm ý và sắp xếp được những điều quan sát theo trình tự
Chưa biết cách quan sát tìm ý và sắp xếp được những điều quan sát theo trình tự
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
24
14
58,3
10
41,7
11
45,8
13
54,2
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Từ thực trạng trên để giúp học sinh có hứng thú học tập và có khả năng quan sát, tìm ý cho bài tập làm văn tốt, tôi có một số giải phảp sau đây:
2.3.1. Người giáo viên phải xác định rõ nhiệm vụ của phân môn tập làm văn và nhiệm vụ của giờ quan sát, tìm ý
Bản thân xác định dạy học sinh phân môn tập làm văn là giúp cho các em nói, viết lưu loát, học sinh phát triển vốn từ ngữ, bồi dưỡng cảm xúc tình cảm lành mạnh, trong sáng, khả năng lựa chọn sắp xếp ý rõ ràng. Rèn khả năng tư duy, trí tưởng tượng phong phú. Qua đó vốn sống của các em được tăng lên giúp các em có khả năng tự tìm tòi và ứng xử linh hoạt trong cuộc sống.
2.3.2. Những việc cần chuẩn bị
a. Chọn đề bài tập làm văn. Chọn những đề bài phù hợp, gần gủi với học sinh, các em có khả năng trực tiếp quan sát.
Ví dụ: Tả hình dáng tính tình của cô giáo... của mẹ.... của người thân, hay, tả quang cảnh sân trường trong giờ ra chơi...
b. Đọc kỹ yêu cầu của đề bài.
Đây là khâu chuẩn bị rất quan trọng của cả giáo viên và học sinh .
- Học sinh đọc kỹ đề bài.
- Phân tích đề bài bằng cách đặt ra các câu hỏi ( bài văn thuộc thể loại 
gì? nội dung bài văn là gì? kiểu bài văn? trọng tâm? muốn làm bài tốt cần quan sát những gì?.
c. Hướng dẫn học sinh quan sát: 
Giáo viên cho học sinh biết quan sát để làm tập làm văn và quan sát tìm hiểu khoa học có mục đích khác nhau:
Mục đích quan sát khoa học là tìm ra công dụng cấu tạo của sự vật, đặc điểm, tính chất của hiện tượng.
Quan sát văn học là tìm ra màu sắc, âm thanh, hình ảnh tiêu biểu và cảm xúc của người đối với sự vật.
+ Quan sát bằng nhiều giác quan.
Quan sát bằng mắt: Nhận ra màu sắc, hình khối, sự vật.
Quan sát bằng tai: Âm thanh, nhịp điệu gợi cảm xúc.
Quan sát bằng mũi: Những mùi vị tác động đến tình cảm.
Quan sát bằng vị giác và xúc giác: Quan sát cảm nhận
Nhờ cách quan sát này mà các em ghi nhận lại những ý mình đã quan sát được một cách đa dạng, phong phú.
+ Quan sát tỉ mỉ nhiều lượt.
Nhận tìm ý cho bài văn , học sinh phải quan sát kỹ, quan sát nhiều lần cảnh đó, tránh quan sát qua loa như ta nhìn lướt qua, hay liếc nhìn nó thì sẽ không tìm ra những ý hay cho bài văn.
+ Học sinh cần xác định rõ vị trí, thời điểm, thời gian, trình tự quan sát.
- Học sinh có thể lựa chọn các trình tự trên xuống dưới hoặc từ dưới lên trên, từ trái sang phải hay từ ngoài vào trong, từ xa đến gần.
Trình tự thời gian, quan sát từ sáng đến tối, từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc...
Trình tự tâm lý, thấy nét gì nổi bật thu hút bản thân, gây cảm xúc quan sát trước.
d. Học sinh học nắm được yêu cầu quan sát của bài văn. 
Phải tìm được những nét riêng tiêu biểu của sự vật. Không cần đầy đủ sự việc, chỉ cần chép lại những đặc điểm mà mình cảm nhận sâu sắc nhất không thống kê tỉ mỉ mọi chi tiết về sự vật.
Để làm được bài văn đúng yêu cầu của đề bài, quá trình quan sát không thể dàn đều mà phải tìm ra trọng tâm. Để tìm hiểu kỹ trọng tâm quan sát là nét chính của bài nổi bật chủ đề của bài văn và dùng ý của người viết. Có như vậy bài viết mới tránh khỏi dàn trải, nhạt nhẽo, lan man.
Quan sát trong văn học cần giúp cho học sinh có hứng thú và say mê, từ đó bộc lộ được cảm xúc của bản thân trước đối tượng quan sát. Có hứng thú, cảm xúc học sinh mới dễ dàng tìm từ, chọn ý giúp cho việc diễn tả sinh động và hấp dẫn.
e. Giáo viên phải chuẩn bị các câu hỏi gợi ý hướng dẫn học sinh quan sát:
Ví dụ: Bài văn thuộc thể loại gì ?
	Kiểu bài văn là gì ?
	Trọng tâm miêu tả cảnh nào ?
	Quan sát cảnh đó vào lúc nào ?
	Quan sát theo thứ tự nào ?
	Quan sát bằng những giác quan nào ?
	Quan sát như vậy nhìn thấy cảnh gì ? 
	Nghe thấy âm thanh gì ? Có cảm xúc gì ?
	Có nhận xét gì qua những quan sát đó.
2.3.3. Tổ chức cho học sinh quan sát:
Tuỳ theo đề bài, giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát ngay tại địa điểm có cảnh vật cần tả. 
Ví dụ: Tả một cây cổ thụ
Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát cây cổ thụ
Nếu không thể tổ chức quan sát được thì giáo viên cho học sinh quan sát cảnh vật trước khi tới lớp và ghi lại những điều ghi nhận được.
Học sinh phải tự làm việc, tự quan sát, tự ghi chép là chính.
Giáo viên có thể nêu những câu hỏi chung cả lớp.
Giáo viên có thể có những câu hỏi gợi mở, học sinh trả lời miệng hoặc giáo viên chỉ cần gợi ý riêng cho một số đối tượng học sinh chưa biết cách quan sát tìm ý.
Giáo viên giành thời gian tối đa cho hoạt động này, học sinh có thể đứng một chỗ, để có vị trí thích hợp quan sát, các em có thể dịch chuyển vị trí thảo luận nhóm để tìm ý.
Học sinh đứng ở vị trí thích hợp để quan sát
Giáo viên có thể gợi ý các em phát hiện những nét đặc sắc của bầu trời, cây cối, cảnh vật từ đó các em có sự liên tưởng.
Giáo viên hướng dẫn học sinh phát hiện những nét đặc sắc của cây cối, bầu trời
2.3.4. Quy trình lên lớp:
a. Giáo viên kiểm tra phần chuẩn bị của học sinh
b. Lên lớp:
- Giới thiệu đề bài, viết đề bài
- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu, nắm chắc đề bài.
+ Thể loại 
+ Kiểu bài 
- Đối tượng miêu tả.
- Trọng tâm 
- Cảnh đó diễn ra ở đâu lúc nào ?
- Giáo viên vừa gợi ý, vừa gạch dưới những từ quan trọng.
2.3.5. Hoàn chỉnh bài chuẩn bị
Học sinh đọc hướng dẫn và ghi nhớ
2.3.6. Học sinh trình bày những điều quan sát được đã sắp xếp theo trình tự.
Học sinh trình bày 
Học sinh nhận xét: Đã quan sát tỉ mỉ chưa:
	Đã sắp xếp theo trình tự hợp lý chưa ?
	Đã có trọng tâm chưa? 
	Hoạt động nào để tả chính ?
	Đã chọn lọc nét tiêu biểu chưa ?
	Đã bộc lộ được cảm xúc khi tả chưa ?
2.3.7. Củng cố: 
- Một em đọc phần tìm ý tương đối hoàn chỉnh
Dặn dò: 
- Tiếp tục quan sát, bổ sung cho dàn bài chi tiết.
- Chú ý tìm từ, câu sinh động để diễn tả những điều quan sát được.
2.3.8. Kết hợp các yếu tố giáo dục khác
Như chúng ta đều biết các bài làm văn miêu tả, thì vốn sống, vốn hiểu biết của các em chưa phong phú, các em còn hạn chế trong quá trình tìm hiểu thế giới xung quanh. Dù giáo viên cố gắng rất nhiều song việc hướng dẫn, tổ chức quan sát đối tượng miêu tả, dù các em có quan sát rất kỹ đến mấy, nhưng do vốn từ nghèo nàn. Nên các em cũng chỉ biết dựa vào giàn bài liệt kê hàng loạt chi tiết quan sát được, không biết lựa chọn từ ngữ vừa sát thực và gợi tả, gợi cảm.
Để cung cấp thêm vốn từ cho học sinh, trước tiên phải dạy tốt các phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện, Chính tả. Khi dạy cần chú ý xây dựng vốn từ cho học sinh ngoài những từ đã có trong sách giáo khoa. Các em có thể tự bổ sung thêm một số từ ngữ khác bằng sự hiểu biết của mình.
Trong các giờ Luyện từ và câu giáo viên hướng dẫn để các em có thể sử dụng từ ngữ để đặt câu đúng, câu hay hoặc giáo viên ra bài tập cho các em làm để các em nắm được giá trị gợi tả, gợi cảm. Khi sử dụng từ chúng ta có thể cho các em tìm từ điền vào chỗ trống.
Ví dụ: Em hãy điền những từ ngữ sau đây vào chỗ trống sao cho câu thơ đúng và gợi cảm nhất (ríu rít, thánh thoát, râm ram,) 
Muốn bài văn được tốt, cái đơn giản nhất nhưng cũng khó nhất là dùng từ chính xác. Loại từ thường được sử dụng và mang giá trị biểu đạt cao là từ tượng thanh và từ láy, từ tượng hình.
Ví dụ: 
Tả màu da có thể dùng: xanh xao, hồng hào, trắng trẻo,
Tả về đôi mắt có thể dùng: lay láy, long lanh, tròn xoe,
 Hình dáng: lênh khênh, mập mạp, gầy gầy, thon thả, 
 Tả tiếng cười, giọng nói: thỏ thẻ, ríu rít, khúc khích, thì thào, lanh lảnh,
Khi miêu tả tính nết tuỳ thuộc vào lứa tuổi để tả phù hợp 
Ví dụ: 
Một đứa trẻ có thể: 
+ Hiền lành, thông minh, sáng dạ,
+ Một đứa trẻ chậm chạp, lười biếng, 
+ Một đứa trẻ hiếu thảo, đáng thương, 
Một bà mẹ có thể: 
+ Một người mẹ dịu dàng.
+ Một người mẹ bao dung.
+ Một người mẹ đảm đang, chịu thương, chịu khó,
Ví dụ: 
 Một cụ già có thể: 
+ Sống giản dị , hiền lành, phúc hậu, khoan dung, độ lượng,
+ Thật thà, chất phát, hiền hoà, thương con, quý cháu, 
Ví dụ: Đi cày về
	Bố em đội sấm, đội chớp, đội cả trời mưa
	Tại sao tác giả lại dùng từ “đội” mà không dùng từ “chịu”, “vượt”
Ngoài ra, khi quan sát bản thân đã định hướng cho học sinh cần chọn một số nét đặc trưng để tả
Ví dụ: Tả người không cần thiết bao giờ cũng tả đẹp, tả những nét tốt, nét tiêu biểu mà có thể chỉ là một nét riêng biệt của người đó như:
Cùng tả về một người mẹ: Một em học sinh viết: "Mẹ của em phải làm lụng vất vả, các ngón tay của mẹ gầy gầy, xương xương. Mái tóc của mẹ đã điểm bạc và làn da có nhiều nếp nhăn". 
Có em chỉ chọn nét đặc trưng đó là đôi vai của mẹ, em viết: "đôi vai của mẹ đã thành chai sạn từ bao giờ không biết, chỉ thấy cái u chai đã dày cộm lên do suốt đời mẹ chỉ biết gánh và gánh. Mấy chiếc đòn gánh không rời vai mẹ, mẹ gánh thóc, gánh gạo gánh đến lúc da rớm máu. Đôi vai ấy con tin rằng suốt đời không bao giờ trở lại lành lặn như đôi vai người thường đâu mẹ ạ. Nhưng chính vì đôi vai chai sạn, bé nhỏ mỏng manh ấy lại gánh được bao nhiêu thứ mà người thường không thể làm được". 
Khi tả một đôi vai của người mẹ ở đoạn 2 chúng ta thấy hiện lên một hình ảnh bà mẹ vất vả, chịu thương, chịu khó dù không nói một lời yêu thương mẹ nhưng chúng ta lại thấy tác giả bài viết bộc lộ qua bài viết yêu mẹ biết nhường nào.
Mặt khác qua các bài tập đọc, tôi đã hướng dẫn các em về cách dùng từ ngữ, hình ảnh hay phân tích tâm trạng cảm xúc của nhân vật qua các bài văn.
Chỉ rõ những biện pháp tu từ mà tác giả đã sử dụng trong các tác phẩm. Để khi làm văn các em biết cách sử dụng những biện pháp tu từ cho bài văn sinh động.
Ví dụ: “ Mắt hiền sáng tựa vì sao
 Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời”
Hay khi học đến bài “Hạt gạo làng ta”, tôi cung cấp thêm cho học sinh nghệ thuật tu từ, cách miêu tả giàu cảm xúc và sử dụng các hình ảnh đối lập. Qua đó học sinh biết cách quan sát tinh tế có chọn lọc khi miêu tả.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Với một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý như trên. Tôi thấy tiết quan sát tìm ý của phân môn tập làm văn lớp tôi thực dạy đã đạt kết quả tốt. Số lượng học sinh nắm được thể loại, yêu cầu bài đã tăng lên. Nhiều học sinh đã biết cách quan sát tìm ý và sắp xếp được những điều quan sát theo trình tự. Đa phần bài văn của các em đã biết dùng từ ngữ gợi tả, gợi cảm. Nhiều em đã biết sử dụng biện pháp tu từ để câu văn chứa đầy hình ảnh và giàu cảm xúc. Qua cách dạy này đã rèn luyện cho học sinh có kỹ năng quan sát, tìm ý. Học sinh đã thực sự có hứng thú trong các tiết học các tiết tập làm văn. Chính vì vậy hiệu quả giờ học tập làm văn lớp tôi thực dạy đã được nâng lên rõ rệt. 
 	So sánh với kết quả khảo sát trước khi áp dụng sáng kiến và sau khi áp dụng sáng kiến trên kết quả lớp tôi thu được như sau:
Tổng số bài
Nắm được yêu cầu, thể loại đề bài
Chưa nắm được yêu cầu, thể loại đề bài
Biết cách quan sát tìm ý và sắp xếp được những điều quan sát theo trình tự
Chưa biết cách quan sát tìm ý và sắp xếp được những điều quan sát theo trình tự
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
24
24
100
0
0
22
91,7
2
8,3
Các bài kiểm tra định kỳ phân môn tập làm văn các em làm bài đạt từ hoàn thành trở lên là 100%.
3. Kết luận, kiến nghị 
Hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý trước khi làm bài tập làm văn thực sự là một vấn đề cần thiết và quan trọng.
Giáo viên phải tạo điều kiện cho các em đến tận nơi quan sát đối tượng được miêu tả. Tổ chức cho các em quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả. Mặt khác giáo viên phải dạy tốt tiết quan sát tìm ý. Trong tiết học đó, học sinh phải tập quan sát bằng nhiều giác quan khác nhau. Tuy vậy giáo viên cũng cần hướng dẫn các em quan sát, phải huy động vốn sống, khả năng tưởng tượng và cảm xúc rồi ghi chép lại. Trong giờ học giáo viên phải hướng dẫn các em, nhận xét, uốn nắn, chuẩn bị ứng phó các tình huống sư phạm. Giờ tập làm văn phải đảm bảo theo hướng đổi mới phương 

Tài liệu đính kèm:

  • docmot_so_kinh_nghiem_huong_dan_hoc_sinh_quan_sat_tim_y_de_hoc.doc