Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 18 - 24 tháng tuổi ở trường Mầm Non Nga Thủy thông qua hoạt động nhận biết
Ngôn ngữ chính là phương tiện để tư duy, là cơ sở của mọi sự suy nghĩ. Nó đóng vai trò rất lớn trong việc phát triển trí tuệ và các quá trình tâm lí khác, chính vì vậy mà trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non cần hình thành và phát triển ngôn ngữ. Bởi ngôn ngữ phát triển sẽ tạo ra nền tảng vững chắc cho tư duy của trẻ phát triển. Ngôn ngữ là công cụ, là phương tiện của tư duy. Tư duy phát triển giúp cho quá trình nhận thức phát triển, thúc đẩy cho việc học tập tốt hơn. Ngay từ những năm tháng đầu tiên của cuộc đời, ngôn ngữ phát triển rất mạnh mẽ, tạo ra những điều kiện cơ hội để trẻ lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của nền văn hoá loài người. Nó giúp trẻ tích luỹ kiến thức, phát triển tư duy, giúp trẻ giao tiếp được với mọi người xung quanh. Ngôn ngữ giúp trẻ tìm hiểu khám phá, nhận thức về môi trường xung quanh, thông qua cử chỉ lời nói của người lớn trẻ sẽ được làm quen với các sự vật hiện tượng có trong môi trường xung quanh. Nhờ có ngôn ngữ mà trẻ sẽ nhận biết ngày càng nhiều màu sắc, hình ảnh của các sự vật hiện tượng trong cuộc sống hằng ngày. Vì vậy trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ, chúng ta càng thấy rõ vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục, phát triển toàn vẹn nhân cách trẻ.
Nhờ có ngôn ngữ trẻ nhận biết ngày càng nhiều các sự vật, hiện tượng mà trẻ được tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày. Ngôn ngữ là phương tiện giáo dục đạo đức cho trẻ, ngôn ngữ đã góp phần không nhỏ vào việc trang bị cho trẻ những hiểu biết về những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức, rèn luyện cho trẻ những tình cảm và hành vi đạo đức phù hợp với xã hội mà trẻ đang sống. Thông qua ngôn ngữ trẻ biết những gì nên, không nên , qua đó rèn luyện những phẩm chất đạo đức tốt ở trẻ, dần dần hình thành ở trẻ những khái niệm ban đầu về đạo đức (ngoan - hư, tốt - xấu.) [1] Ngoài ra ngôn ngữ còn là phương tiện giữ gìn bảo tồn, truyền đạt phát triển những kinh nghiệm lịch sử và sự phát triển xã hội của loài người và nó gắn bó mật thiết với con người.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NGA SƠN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 18 – 24 THÁNG TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON NGA THỦY THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG NHẬN BIẾT Người thực hiện: Nghiêm Thị Duyên Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Mầm non Nga Thủy SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn THANH HOÁ NĂM 2018 MỤC LỤC TT NỘI DUNG Trang 1 Mục lục 2 1. LỜI MỞ ĐẦU 1 3 1.1. Lí do chọn đề tài 1 4 1.2. Mục đích nghiên cứu 2 5 1.3. Đối tượng nghiên cứu 2 6 1.4. Phương pháp nghiên cứu 2 7 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2 8 2.1. Cơ sở lý luận 2 9 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 4 10 2.2.1. Thuận lợi. 4 11 2.2.2. Khó khăn: 4 12 2.2.3. Kết quả thực trạng: 4 13 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 5 14 2.3.1. Xây dựng môi trường ngôn ngữ phong phú cho trẻ hoạt động. 5 15 2.3.2. Làm đồ dùng, đồ chơi, tự tạo để phục vụ cho hoạt động nhận biết nhằm kích thích trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tích cực. 9 16 2.3.3. Tạo hứng thú lôi cuốn trẻ thực hành trải nghiệm phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết. 10 17 2.3. 4: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua hoạt động nhận biết ở mọi lúc mọi nơi. 14 18 2.3. 5. Phối kết hợp với phụ huynh rèn luyện phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ. 16 19 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt đông giáo dục, đối với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. 17 20 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 18 21 3.1. Kết luận 18 22 3.2. Kiến nghị 19 23 Tài liệu tham khảo 1. LỜI MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Ngôn ngữ chính là phương tiện để tư duy, là cơ sở của mọi sự suy nghĩ. Nó đóng vai trò rất lớn trong việc phát triển trí tuệ và các quá trình tâm lí khác, chính vì vậy mà trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non cần hình thành và phát triển ngôn ngữ. Bởi ngôn ngữ phát triển sẽ tạo ra nền tảng vững chắc cho tư duy của trẻ phát triển. Ngôn ngữ là công cụ, là phương tiện của tư duy. Tư duy phát triển giúp cho quá trình nhận thức phát triển, thúc đẩy cho việc học tập tốt hơn. Ngay từ những năm tháng đầu tiên của cuộc đời, ngôn ngữ phát triển rất mạnh mẽ, tạo ra những điều kiện cơ hội để trẻ lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của nền văn hoá loài người. Nó giúp trẻ tích luỹ kiến thức, phát triển tư duy, giúp trẻ giao tiếp được với mọi người xung quanh. Ngôn ngữ giúp trẻ tìm hiểu khám phá, nhận thức về môi trường xung quanh, thông qua cử chỉ lời nói của người lớn trẻ sẽ được làm quen với các sự vật hiện tượng có trong môi trường xung quanh. Nhờ có ngôn ngữ mà trẻ sẽ nhận biết ngày càng nhiều màu sắc, hình ảnh của các sự vật hiện tượng trong cuộc sống hằng ngày. Vì vậy trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ, chúng ta càng thấy rõ vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục, phát triển toàn vẹn nhân cách trẻ. Nhờ có ngôn ngữ trẻ nhận biết ngày càng nhiều các sự vật, hiện tượng mà trẻ được tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày. Ngôn ngữ là phương tiện giáo dục đạo đức cho trẻ, ngôn ngữ đã góp phần không nhỏ vào việc trang bị cho trẻ những hiểu biết về những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức, rèn luyện cho trẻ những tình cảm và hành vi đạo đức phù hợp với xã hội mà trẻ đang sống. Thông qua ngôn ngữ trẻ biết những gì nên, không nên, qua đó rèn luyện những phẩm chất đạo đức tốt ở trẻ, dần dần hình thành ở trẻ những khái niệm ban đầu về đạo đức (ngoan - hư, tốt - xấu...) [1] Ngoài ra ngôn ngữ còn là phương tiện giữ gìn bảo tồn, truyền đạt phát triển những kinh nghiệm lịch sử và sự phát triển xã hội của loài người và nó gắn bó mật thiết với con người. Ngôn ngữ còn là phương tiện để con người giao tiếp với nhau trong cuộc sống, đặc biệt là đối với trẻ nhỏ. Đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình thành những cảm xúc tích cực. Mặt khác trẻ cũng có thể dùng ngôn ngữ để bày tỏ nhu cầu mong muốn của mình với mọi người nhưng không phải tất cả trẻ ở tuổi này đều bắt đầu giao tiếp rõ ràng. Qua quá trình chăm sóc trẻ tại nhóm lớp bản thân tôi thấy với một số trẻ có thể nói được những câu ngắn với từ ngữ đơn giản đi kèm điệu bộ. Nhưng cũng có một số trẻ còn nói ngọng, nói lắp, nói dấp dính từ và chỉ có bố, mẹ trẻ mới có thể hiểu được trẻ đang nói gì, việc trẻ phát âm sai là khá phổ biến. Trẻ thường gặp khó khăn với chữ cái được phát âm gần giống nhau. Có thể trẻ sẽ lắp bắp khi không thể nhớ chính xác từ cần nói. Vì vậy việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ em trong giao tiếp sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp nhận những môn học khác nhau như: Hoạt động nhận biết, tạo hình, âm nhạc, đọc thơ, kể chuyện, đóng kịch tạo cho trẻ được hoạt động nhiều. Việc phát triển vốn từ luyện phát âm và dạy trẻ nói đúng ngữ pháp không thể tách rời các môn học cũng như các hoạt động của trẻ. Mỗi từ cung cấp cho trẻ phải dựa trên một biểu tượng cụ thể, có nghĩa, gắn liền với âm thanh và tình huống sử dụng của chúng. Như vậy ngôn ngữ có vai trò to lớn đối với xã hội và đối với con người. Ngôn ngữ là công cụ, phương tiện giúp bé làm quen với thế giới mới và biểu đạt những suy nghĩ, tư duy của mình. Vì thế vấn đề phát triển ngôn ngữ một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của mỗi giáo viên chúng ta, nên tôi đã quyết định nghiên cứu và thực hiện đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 18-24 tháng tuổi ở trường Mầm Non Nga Thủy thông qua hoạt động nhận biết ” nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ đối với chương trình giáo dục mầm non mới hiện nay. 1.2. Mục đích nghiên cứu Dựa vào đề tài đã chọn nhằm tìm ra những giải pháp để cải tiến, nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 18 - 24 tháng tuổi. Đồng thời đã đề xuất được 6 biện pháp hướng dẫn cho trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động nhận biết. Qua đó nâng cao nhận thức của bản thân về lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 1. 3. Đối tượng nghiên cứu Đề tài đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc cho trẻ 18 – 24 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ tại trường mầm non Nga Thủy. 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết. - Phương pháp khảo sát chất lượng học sinh trên lớp. - Phương pháp quan sát. - Phương pháp thực hành trải nghiệm. - Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp. - Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận Theo E. L. Tikhêeva – Nhà giáo dục học Liên xô cũ đã khẳng định rằng: “Ngôn ngữ là công cụ để tư duy, là chìa khóa để nhận thức, là vũ khí để chiếm lĩnh kho tàng kiến thức của dân tộc, của nhân loại. Do ngôn ngữ giữ vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống con người”[2] Không chỉ có vậy, ngôn ngữ tạo nên những con người có linh hồn. Ngôn ngữ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành nên tư duy, nhân cách của con người, thúc đẩy quá trình tự điều chỉnh hành động chính bản thân mình. Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong cuộc sống của con người. Nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể trao đổi với nhau những hiểu biết, truyền cho nhau những kinh nghiệm, tâm sự với nhau những nỗi niềm thầm kín. Đối với trẻ em, ngôn ngữ là cầu nối để đến với thế giới của nhân loại. Ngôn ngữ trở thành công cụ để trẻ bày tỏ suy nghĩ, những tâm tư, tình cảm, những mong muốn của cá nhân mình. Bởi lẽ, trẻ có nhu cầu rất lớn trong việc nhận thức thế giới xung quanh, mong muốn hòa nhập với xã hội của loài người. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thực chất là phát triển hoạt động lời nói. Quá trình phát triển lời nói của trẻ gắn bó rất chặt chẽ với 2 cơ chế của hoạt động lời nói là sản sinh ngôn ngữ và tiếp nhận ngôn ngữ. Quá trình hình thành lời nói ở trẻ gắn bó rất chặt chẽ với hoạt động của tư duy. Sự mạch lạc trong lời nói của trẻ thực chất là sự mạch lạc của tư duy. Việc tiếp thu ngôn ngữ có nhiều đặc điểm khác với việc tiếp thu kiến thức trong các lĩnh vực khác. Ngôn ngữ được hình thành từ rất sớm. Ban đầu trẻ không có ý thức về ngôn ngữ và học nói theo cách tự nhiên, về sau, khi tư duy phát triển thì có thể tổ chức học nói có ý thức hơn. Tâm lý của trẻ trước tuổi học được chia thành nhiều thời kỳ, do vậy cần dựa vào đó để tìm ra phương pháp, hình thức tổ chức dạy nói cho phù hợp. Ngôn ngữ tồn tại trong con người không phải do bẩm sinh di truyền mà hoàn toàn do bên ngoài vào, nhờ có người khác ở xung quanh nói từ ngữ đó mà con người biết sử dụng ngôn ngữ từ nhỏ. Từ ngữ có thể bị xoá sạch khỏi trí nhớ, thậm chí cả tiếng mẹ đẻ nếu như con người vì lý do nào đó không sử dụng đến ngôn ngữ đó. Bởi chỉ có thể nói đến sự tồn tại của ngôn ngữ chừng nào ngôn ngữ đó được sử dụng. Ở lứa tuổi 18-24 tháng các cơ quan trong cơ thể trẻ đang phát triển và dần dần hoàn thiện, nhất là hệ thần kinh, trẻ rất hiếu động và ham thích bắt chước cái mới, cái đẹp, những điều mới lạCảm giác, tri giác của trẻ đã được phát triển nhờ việc trẻ biết đi và thực hiện được các hành động với đồ vật. Việc xuất hiện ngôn ngữ đã giúp cho cảm giác của trẻ trở lên chính xác và có căn cứ hơn, trẻ bắt đầu phát triển tư duy bằng lời nói bên cạnh tư duy trực quan hành động. Tuy nhiên tri giác của trẻ vẫn còn sơ sài trẻ thích khám phá thế giới xung quanh trẻ nhưng khả năng tập trung chú ý của trẻ chưa cao, sự ghi nhớ của trẻ còn mang tính không chủ định, thời gian ghi nhớ ngắn. Vì thế cần tạo mối quan hệ giữa cô và trẻ là tình cảm yêu thương như mẹ con, thực hiện các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ mầm non. Giáo viên phải lắm được nguyên tắc dạy trẻ: “học mà chơi, chơi mà học” [3]. Trẻ học thông qua các hình thức giờ học, trò chuyện, vui chơiTrẻ lĩnh hội các tri thức một cách thoải mái, nhẹ nhàng, hứng thú chứ không bị gò bó, ép buộc. Trong cuộc sống hàng ngày, khi giao tiếp với người lớn, với bạn bè trẻ sẽ có cơ hội để nhận thức những biểu tượng về thế giới xung quanh, từ đó giúp trẻ hiểu được ý nghĩa của một số loại từ, phát triển năng lực ngôn ngữ trong tự nhiên. O. P. Skinner trong tác phẩm Hành vi bằng lời cũng cho rằng: “Ngôn ngữ của trẻ cũng như mọi hành vi khác được hình thành do thao tác quyết định, và sự “bắt chước” là rất quan trọng. Những thao tác về ngôn ngữ cùng với sự giúp đỡ của người lớn sẽ cho trẻ nhanh chóng trưởng thành và phát triển về ngôn ngữ.”[4] Vì thế việc giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, mở rộng các loại vốn từ là nhiệm vụ quan trọng của giáo viên mầm non nói chung và bản thân tôi nói riêng. Căn cứ trên cơ sở của các ngành khoa học và phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ tôi đã tìm ra những cách làm tốt nhất để phát triển lời nói cho trẻ. Đây chính là mục đích mà tôi nghiên cứu và thực hiện đề tài này. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 2.2.1. Thuận lợi: - Trường mầm non Nga Thủy được sự quan tâm của UBND- HĐND xã, các cấp lãnh đạo có một ngôi trường đẹp khang trang. Cơ sở trang thiết bị đồ dùng đồ chơi phong phú phù hợp với sự phát triển của bậc học mầm non, là điều kiện tốt đối với việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. - Bản thân là một giáo viên luôn tâm huyết với nghề, yêu nghề và mến trẻ, coi trẻ như con của mình, và bên cạnh đó còn được tiếp thu đầy đủ các chuyên đề, được dự giờ dạy mẫu từ đồng nghiệp, luôn tham khảo sách báo, tập san, để có thể tự tin truyền đạt tri thức cho trẻ. - Thường xuyên xây dựng các hoạt động cho giáo viên theo từng tháng, tổ chức đối xứng các chuyên đề, vận dụng và áp dụng phương pháp mới trong việc tổ chức hoạt động giáo dục mầm non. - Bản thân tôi cũng nhận được sự động viên giúp đỡ của Ban giám hiệu Nhà trường, bạn bè đồng nghiệp, sự ủng hộ của gia đình, phụ huynh đã luôn quan tâm đến các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại nhóm lớp, đặc biệt là tình cảm yêu quý của các bé dành cho tôi. 2.2.2. Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi trên còn có một số khó khăn như sau: - Trí nhớ của trẻ đang còn hạn chế chưa nói được câu nói dài và đang còn bị bỏ bớt từ, bớt âm khi nói. - Phát âm của trẻ chưa chuẩn còn nói ngọng, nói lắp, nói dính câu. - Kỹ năng giao tiếp giữa trẻ với trẻ, giữa cô giáo và trẻ còn có nhiều khó khăn và hạn chế. Đa số trẻ chỉ nói được câu ngắn 1 đến 2 từ, trẻ nói ngọng nói lắp bắp không rõ tiếng. 2.2.3. Kết quả thực trạng: Trong quá trình tiếp xúc với trẻ bản thân tôi thấy rất lo lắng về vấn đề này và tôi cho rằng mình phải tìm tòi, suy nghĩ, nghiên cứu các tài liệu để tìm ra biện pháp phát triển ngôn ngữ và giao tiếp cho trẻ một cách có hiệu quả nhất để có thể giúp trẻ tự tin hơn khi giao tiếp với mọi người. Vì thế tôi đã khảo sát chất lượng của trẻ đầu năm như sau. Bảng kết quả khảo sát trẻ tháng 9 năm 2017 STT Nội dung Tổng số trẻ Đạt yêu cầu Chưa đạt Số trẻ Tỷ lệ Số trẻ Tỷ lệ 1 Khả năng nghe hiểu lời nói 15 11 73% 4 27% 2 Khả năng nghe, nhắc lại các âm, các tiếng và các câu 15 10 67% 5 33% 3 Khả năng sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp 15 9 60% 6 40% Thông qua kết quả của thực trạng trên với tổng số trẻ có khả năng nghe hiểu lời nói, nhắc lại các âm, các tiếng và các câu, khả năng sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp chưa cao. Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn đưa ra những giải pháp và tổ chức thực hiện đã đem lại kết quả khá khả thi như sau: 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 2.3.1. Xây dựng môi trường ngôn ngữ phong phú cho trẻ hoạt động. Để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ đạt kết quả cao thì giáo viên phải chuẩn bị môi trường cho trẻ hoạt động, vì môi trường đóng vai trò rất quan trọng. Xây dựng môi trường phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một việc làm rất cần thiết góp phần nâng cao chất lượng thực hiện Chương trình GDMN, tăng cường các điều kiện để đổi mới hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm đáp ứng với nhu cầu phát triển của trẻ và nhu cầu đổi mới của ngành học hiện nay. Ở độ tuổi 18-24 tháng tuổi trẻ thích quan sát và khám phá để tìm hiểu thế giới xung quanh trẻ. Khi xây dựng môi trường cho trẻ hoạt động, các hình ảnh tôi trang trí luôn có nội dung rõ ràng, màu sắc đẹp và hình ảnh sống động, các hình ảnh này đều mang tính thẫm mỹ và tính giáo dục cao. Chính vì vậy khi xây dựng môi trường cho trẻ hoạt động thì phải đảm bảo theo các nguyên tắc, quy trình xây dựng môi trường giáo dục trong trường mầm non. * Tạo môi trường trong lớp phù hợp với chủ đề. Để kích thích tính tò mò và ham hiểu biết của trẻ tôi đã tận dụng các mảng tường trống để trang trí các hình ảnh xung quanh lớp phù hợp với chủ đề mà mình đang thực hiện. Mặt khác trẻ ở độ tuổi nhà trẻ, tư duy của trẻ là tư duy trực quan sinh động. Khả năng tri giác về các sự vật, hiện tượng thông qua sử dụng vật thật, đồ dùng đồ chơi, tranh ảnh,Qua đó trẻ được tiếp xúc trưc tiếp, được nhìn, quan sát để giúp trẻ hình thành và phát triển vốn từ. Vì vậy ở các góc chơi tôi treo tranh ảnh hợp với chủ đề đang thực hiện. Ví dụ: Chủ đề: “Những con vật đáng yêu”. Để trẻ nhận biết về các con vật tôi đã trang trí mảng chính của chủ đề bằng hình ảnh các con vật gần gũi, đồng thời xung quanh lớp các mảng tường trống tôi cũng trang trí hình ảnh các con vật như con chó, con mèo, con cá, con voi, có màu sắc đẹp cho trẻ quan sát, khám phá. Tôi cho trẻ khám phá các bức tranh vào giờ đón trẻ, trả trẻ, giờ chơi. Tôi cùng trẻ trò chuyện về các bức tranh, ảnh xung quanh lớp để trẻ nhận biết về tên gọi, đặc điểm của các con vật đó như ở bức tranh con chó tôi hỏi: Con gì đây? (Con chó) Đây là gì? ( cái mắt ) Cá gì đây? ( cái mồm ) Chó kêu thế nào? (Gâu gâu) Tôi cho cả lớp, tổ, và cá nhân từng trẻ phát âm nhiều lần từ “Con chó”, “Cái mắt”, “cái mồm” và bắt chước tiếng kêu “gâu gâu” để cung cấp làm giàu thêm vốn từ cho trẻ. Khi trẻ phát âm tôi chú ý lắng nghe trẻ, nhưng vẫn có trẻ phát âm sai “con chó” thành “con tó”, “con ó”, trả lời một từ “mắt”, “ mồm” tôi phải sửa sai ngay cho trẻ bằng cách là dạy trẻ phát âm chính xác từ “con chó”, dạy trẻ nói đủ câu “cái mắt”, “Cái mồm” nhiều lần và trong quá trình sửa sai cho trẻ thì tôi phải phát âm chuẩn, không nói ngọng, nói dính câu mà tôi luôn phát âm chậm, rõ ràng cho trẻ phát âm theo. Đồng thời tôi luôn chú ý đến khả năng nghe của trẻ trong quá trình hướng dẫn, cụ thể hơn để giúp trẻ hứng thú biết về con chó tôi cho trẻ nghe tiếng kêu của con chó qua video và cho trẻ bắt chước lại tiếng kêu, khi cho trẻ nghe và nói nhiều giúp trẻ có nhiều cơ hội phát triển ngôn ngữ. Hình ảnh trang trí môi trường trong lớp Ngoài ra trong lớp học tôi còn bố trí sắp xếp các góc, các khu vực chơi khác nhau vừa đáp ứng nhu cầu phát triển toàn diện cho trẻ, vừa tạo không gian để tôi có thể bố trí các các vật liệu, đồ dùng, đồ chơi đa dạng về chủng loại, các con vật, hình khối, các hộp chơi lắp ráp, xếp hình luôn có nhiều màu sắc, hình dạng khác nhau, các góc chơi được kê thấp, đồ chơi bày đẹp mắt, giúp trẻ dễ lấy và dễ cất. Số lượng đồ chơi luôn đủ cho trẻ hoạt động tránh chanh giành. giúp trẻ có cơ hội khám phá và phát triển các giác quan, khả năng quan sát và nhận biết và giúp trẻ phát triển ngôn ngữ được tốt hơn. Ví dụ: Trong chủ đề “Những con vật đáng yêu” để cho trẻ chơi khám phá tìm hiểu về đặc điểm, hình dáng, của những con vật đáng yêu. Tôi đặt các con vật trên giá khuyến khích trẻ tự lấy chơi, ngoài ra tôi còn treo tranh ảnh về chủ đề ở các góc cho trẻ được quan sát, gọi tên và nhận xét đặc điểm của các con vật, giúp ngôn ngữ trẻ phát triển. Hay ở chủ đề: “Những loại quả thơm ngon bổ dưỡng” ở các góc chơi tôi đã sắp xếp những đồ dùng đồ chơi tự tạo từ những phế liệu như nhựa, xốp, vải dạ may nhồi bông như: Cây chuối, quả dâu, quả dưa hấu, quả đu đủ, có màu sắc, hình dạng đẹp mắt và hấp dẫn bày trên giá vừa tầm mắt cho trẻ được dễ lấy, dễ chơi, trong quá trình trẻ chơi tôi thường xuyên giao tiếp và hỏi trẻ, giúp trẻ nhận biết và phát âm tốt hơn như: Hôm nay có những đồ chơi gì? Trẻ trả lời theo những gì quan sát thấy. Tuy nhiên vẫn có một số cháu gọi sai như “quả xoài” trẻ phát âm là “cả xài”: “Màu xanh” trẻ phát âm thành “Màu xăn” lúc này tôi sẽ điều chỉnh kịp thời và hướng dẫn cho trẻ phát âm đúng. Hình ảnh: Đồ dùng trong lớp học * Môi trường ngoài lớp: Trên các mảng tường ở ngoài lớp tôi trang trí bằng cách vẽ hình các con vật có trong nội dung của câu chuyện, bài thơ phù hợp với lứa tuổi của trẻ nhà trẻ và để khi cho trẻ đi dạo, chơi cô trò chuyện với trẻ về các bức vẽ trên tường kích thích trẻ trả lời, và luyện phát âm chuẩn các từ chỉ tên gọi màu sắc của các con vật, các đồ vật trên mảng tường. Từ đó trẻ nhận biết, gọi tên các con vật, nhân vật, cây hoa, cây xanh, một cách chính xác hơn. Môi trường thiên nhiên xung quanh trẻ như vườn rau, vườn hoa, vườn cây xanh, cây ăn quả,khi cho trẻ đi dạo chơi ngoài trời tôi luôn chú ý đặt các câu hỏi cho trẻ phát âm như: “hoa hồng”, “màu đỏ”, “hoa cúc”, “màu vàng”,giúp trẻ củng cố và phát triển vốn từ tốt hơn. Bên cạnh đó các đồ chơi ngoài trời: Đu quay, cầu trượt, bập bênh,Đó là cơ sở vật chất rất quan trọng trong việc giúp trẻ dạo chơi, quan sát nhận biết và gọi tên, màu sắc, giúp rèn luyện củng cố và phát triển vốn từ cho trẻ. Vì thế tôi đã tham mưu với ban giám hiệu nhà trường huy động phụ huynh và các đoàn thể như hội phụ nữ xã, hội cựu chiến binh, hội cựu giáo chức,mua sắm ủng hộ và trồng nhiều cây xanh, cây ăn quả, vườn hoa, vườn rau, Từ đó giúp trẻ có môi trường thiên nhiên phong phú để học tập tạo cơ hội cho trẻ nhận biết, khám phá tìm hiểu về môi trường xung quanh ở mọi lúc mọi nơi giúp cho nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ cho trẻ được thuận lợi hơn. Hiệu quả: Nhà trường đã có khuôn viên với vườn hoa có nhiều loại hoa đẹp, có nhiều cây xanh, vườn cổ tích và vườn rau với các loại rau theo mùa. Với môi trường như trên thì trẻ lớp tôi cũng đã tiến bộ rõ rệt về vốn từ và khả năng phát âm chuẩn. Nếu như ban đầu trẻ phát âm”Cầu trượt” thành “Cầu tượt”, “Bập bênh” thành “bập ênh” sau một thời gian đa số trẻ đã phát âm chuẩn vốn từ cũng phát triển hơn với khả năng tự nói được các câu dài hơn. Để trẻ có nhiều cơ hội phát triển ngôn ngữ tôi luôn chú trọng tạo môi trường giao lưu ngôn ngữ tích cực thuận lợi giúp cho trẻ thường xuyên được giao tiếp, tương tác, thể hiện mối quan hệ thân thiện giữa cô với trẻ, trẻ với trẻ, vì muốn phát triển khả năng nghe nói cho trẻ, không gì nhanh chóng và tích cực bằng việc thường x
Tài liệu đính kèm:
- mot_so_bien_phap_phat_trien_ngon_ngu_cho_tre_18_24_thang_tuo.doc