Chuyên đề môn Ngữ văn: “Giá trị nhân đạo trong truyện kiều của Nguyễn Du”

Chuyên đề môn Ngữ văn: “Giá trị nhân đạo trong truyện kiều của Nguyễn Du”

Giá trị nhân đạo là cảm hứng nhân văn bao trùm lên toàn bộ Truyện Kiều .Đó là tiếng nói ngợi ca những giá trị ,phẩm chất tốt đẹp của con người như tài săc , tình nghĩa ,long vị tha , chung thủy trong tình yêu… Đó còn là tấm lòng của nhà thơ đồng tình với những giá trị và khát vọng về tình yêu lứa đôi , về tự do công lí , là sự đồng cảm , xót thương với bao nỗi đau , bị vùi dập của con người ,nhất là đối với người phụ nữ “bạc mệnh” trong xã hội phong kiến . Có thể nói giá trị nhân đạo trong truyện Kiều thể hiện ở tấm long trân trọng và yêu thương con người bị áp bức , bị chà đạp.

Mộng Liên Đường đã bình luận: “ Lời văn tả ra nhơ máu chảy ở đầu ngọn bút , nước mắt thấm ở trên tờ giấy , khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn đứt ruột...Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt ,đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu sáu cõi , tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời , thì tài nào có cái bút lực ấy”.

Nếu là tâm hồn không bị sóng gió vùi dập, một trái tim không thổn thức trước những nỗi đắng cay của bức tranh thế sự , một lương tâm không phẫn lộ trước thói đời vô nhân bạc nghĩa, thì Nguyễn Du dẫu có tài ba lỗi lạc đến đâu cũng không tìm ra được những âm điệu , những vần thơ khiến cho người đọc trong cuộc nghe như khóc , như than , như uát , như oán hờn.

Quả đúng như vậy truyện Kiều là tiếng nói thiết tha bảo vệ quyền sống quyền tự do của con người bị áp bức ,truyện kiều còn là sự kết tinh truyền thống nhân đạo của dân tộc bao thế kỉ.

doc 11 trang Mai Loan 06/09/2025 280
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề môn Ngữ văn: “Giá trị nhân đạo trong truyện kiều của Nguyễn Du”", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 CHUYÊN ĐỀ MÔN NGỮ VĂN: 
 “ GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO TRONG TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU ”
 PHẦN MỞ ĐẦU .
 I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
 Nguyễn Du tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu là Hồng Sơn lạp hộ, 
 người xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
 Nguyễn Du thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt: cha là Xuân Quận Công Nguyễn 
 Nghiễm, từng làm tới Tể Tướng triều Lê Mạt; mẹ là người vợ thứ ba, nhũ danh Trần 
 Thị Tần, người Kinh Bắc; anh là Toản Quận Công Nguyễn Khản cũng làm tới Tham 
 Tụng, Thái Bảo trong triều.
 Sinh ra trong một gia đình quan lại, có truyền thống văn học, năng khiếu thơ văn của 
 Nguyễn Du sớm có điều kiện nảy nở và phát triển. Từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông 
 minh dĩnh ngộ. Năm 1783, Nguyễn Du thi hương đậu Tam Trường. Vì lẽ gì không rõ, 
 ông không tiếp tục thi lên nữa.
 Năm 1789, Nguyễn Huệ kéo binh ra Bắc, đại thắng quân Thanh. Nguyễn Du, vì tư 
 tưởng trung quân phong kiến, không chịu ra làm quan cho nhà Tây Sơn.
 Năm 1802, Nguyễn Ánh lật đổ Tây Sơn đã vời Nguyễn Du ra làm quan; ông từ chối 
 mãi mà không được nên miễn cưỡng tuân mệnh. Năm 1805, ông được thăng Đông 
 Các điện học sĩ, tước Du Đức Hầu. Năm 1813, thăng Cần Chánh điện học sĩ, được cử 
 làm Chánh Sứ đi Trung Quốc. Sau khi về nước, năm 1815, ông được thăng Lễ Bộ 
 Hữu Tham Tri.
 Đường công danh của Nguyễn Du với nhà Nguyễn chẳng có mấy trở ngại. Ông 
 thăng chức nhanh và giữ chức trọng, song chẳng mấy khi vui, thường u uất bất đắc 
 chí.
 Theo Đại Nam Liệt Truyện: Nguyễn Du là người ngạo nghễ, tự phụ, song bề ngoài 
 tỏ vẻ giữ gìn, cung kính, mỗi lần vào chầu vua thì ra dáng sợ sệt như không biết nói 
 năng gì...
 Năm 1820, Minh Mạng lên ngôi, cử ông đi sứ lần nữa, nhưng lần này chưa kịp đi thì 
 ông đột ngột qua đời.
 Đại Nam Liệt Truyện viết: Đến khi đau nặng, ông không chịu uống thuốc, bảo người 
 nhà sờ tay chân. Họ thưa đã lạnh cả rồi. Ông nói "được" rồi mất; không trối lại điều 
 gì.
 Nguyễn Du là con người có trái tim nhân hậu. Nhà thơ đã từng khẳng định Chữ tâm 
 kia mới bằng ba chữ tài. Mộng liên đường chủ nhân trong lời tựa Truyện Kiều cũng 
 đã đề cao tấm lòng nhân ái của Nguyễn Du đối với con người và cuộc đời: Lời văn tả 
 ra hình như có máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy, khiến ai đọc 
 lên cũng cũng phải thấm thía, ngậm ngùi, đau đớn đến đến đứt ruột.Tố Như tử dụng 
 tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết. Nếu không phải có con 
 mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì không thể nào có cái bút 
 lực ấy.
 Kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du là một truyện thơ nôm viết bằng thể lục bát, dựa 
theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc, Truyện 
Kiều, gồm 3.254 câu thơ.
 Hàng trăm năm qua, Truyện Kiều đã sống chan hoà trong đời sống của toàn dân tộc. 
 Chuyên đề môn Ngữ văn 1 thức trong chương trình học; kích thích tinh thần ham học, sự sáng tạo của HS trong học 
và làm văn.
II. ĐỐI TƯỢNG- PHẠM VI- PHƯƠNG PHÁP BỒI DƯỠNG.
1- Đối tượng bồi dưỡng: HS đội tuyển HSG Ngữ Văn lớp 9( đang bồi dưỡng thi HSG 
cấp Tỉnh)
 Thời gian thực hiện: 4 tiết.
2- Phạm vi kiến thức bồi dưỡng: Thế giới nhân vật và một vài nét sáng tạo về nghệ 
thuật của Nguyễn Du trong " Truyện Kiều”.
3- Phương pháp bồi dưỡng: Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương 
pháp so sánh, phương pháp khái quát hoá.
 PHẦN II NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
I. Giá tri nhân đạo trong truyện Kiều của Nguyễn Du .
Giá trị nhân đạo là cảm hứng nhân văn bao trùm lên toàn bộ Truyện Kiều .Đó là tiếng 
nói ngợi ca những giá trị ,phẩm chất tốt đẹp của con người như tài săc , tình nghĩa ,long 
vị tha , chung thủy trong tình yêu Đó còn là tấm lòng của nhà thơ đồng tình với 
những giá trị và khát vọng về tình yêu lứa đôi , về tự do công lí , là sự đồng cảm , xót 
thương với bao nỗi đau , bị vùi dập của con người ,nhất là đối với người phụ nữ “bạc 
mệnh” trong xã hội phong kiến . Có thể nói giá trị nhân đạo trong truyện Kiều thể hiện ở 
tấm long trân trọng và yêu thương con người bị áp bức , bị chà đạp.
Mộng Liên Đường đã bình luận: “ Lời văn tả ra nhơ máu chảy ở đầu ngọn bút , nước 
mắt thấm ở trên tờ giấy , khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn đứt 
ruột...Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt ,đàm tình đã thiết, nếu 
không phải có con mắt trông thấu sáu cõi , tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời , thì tài nào 
có cái bút lực ấy”.
 Nếu là tâm hồn không bị sóng gió vùi dập, một trái tim không thổn thức trước những 
nỗi đắng cay của bức tranh thế sự , một lương tâm không phẫn lộ trước thói đời vô nhân 
bạc nghĩa, thì Nguyễn Du dẫu có tài ba lỗi lạc đến đâu cũng không tìm ra được những 
âm điệu , những vần thơ khiến cho người đọc trong cuộc nghe như khóc , như than , như 
uát , như oán hờn.
 Quả đúng như vậy truyện Kiều là tiếng nói thiết tha bảo vệ quyền sống quyền tự do 
của con người bị áp bức ,truyện kiều còn là sự kết tinh truyền thống nhân đạo của dân 
tộc bao thế kỉ.
 - Kiều đã từng trải qua hầu hết những kiếp đời oan khổ của người phụ nữ dưới chế độ 
 phong kiến: Tình duyên tan vỡ , làm gái lầu xanh , làm nô ti , làm vợ lẽ , bị làm 
 nhục khi chồng vừa chết...và khi Từ Hải chết , lòng Kiều đã tắt hết mọi niềm ước ao 
 hạnh phúc trên cõi đời .
 “ Còn chi nữa cánh hoa tàn
 Tơ lóng đã đứt dât đàn tiểu lân
 Rông thương còn mảnh hồng quần
 Hơi tàn được thấy gốc phần là may”
 -Người ngoài cuộc nghe tiêngs nói của Kiều cũng phải thổn thức cùng nỗi niềm 
tuyệt vọng ẩn chứa trong ước mơ bé nhỏ ấy .
 Cuộc đơi nàng được nhà thơ vĩ đại giàu lòng nhân đạo tổng kết bằng những lời 
 thơ đau xót :
 Thương thay cũng một kiếp người
 Chuyên đề môn Ngữ văn 3 Buồn trông cửa biển chiều hôm
 Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
 Buồn trong ngon nước mới sa
 Hoa trôi man mác biết là về đâu
 Buồn trông nội cỏ dầu dầu
 Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
 Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
 Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
 Tám câu thơ dựng lên bốn bức tranh buồn được bắt đầu bằng hai chữ “Buồn 
 trông” . Dường như ở đây không có con người , chỉ có cái nhìn hay đúng hơn , chỉ 
 có tâm trạng . Tâm trạng của Kiều mà cũng là tâm trạng của Nguyễn Du . Lòng 
 nhà thơ tưởng như cũng hòa vào với lòng nhân vật ,cùng đồng cảm , buồn thương, 
 đau xót với nhân vật....
 -Không dừng lại ở sự ca ngợi , đồng cảm với người trong cuộc bể dâu . Nhà thơ còn 
dựng lên cả một bức tượng đồng Từ Hải – tượng trưng cho công bằng , công lý , dân 
chủ xã hội trong xã hôi phong kiến xấu xa , mục nát .
 - Đó là một bậc anh hùng cái thế với tính chất phi thường về diện mạo ,vóc dáng :
 Râu hùm , hàm en , mày ngài
 Vai năm tấc rộng thân mười thước cao
Phi thường cả về bản lĩnh , tài năng , phong độ ,chí khí : 
 Đường đường một đấng anh hào
 Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài
 Đội trời đạp đất ở đời
 Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông
 Giang hồ quen thói vẫy vùng
 Gươm đàn nửa gánh , non sông một chèo
Từ Hải chính là nhân vật phẩn ánh ước mơ tự do và công lý . Từ Hải là một người anh 
hùng cái thế , tài cao trí cả , dũng mãnh vô song , rất mực phóng túng , ngang tàng , 
sống trí khi “ đội trời đạp đất” , “ Dọc ngang trời rộng vẫy vùng biển khơi”. Từ Hải thiết 
tha với lý tưởng : “ Chọc trời khuấy nước măc dầu – Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”
 Với giọng điệu anh hùng ca , Nguyễn Du kể về sự nghiệp anh hùng của Từ Hải :
 “ Thừa cơ trúc chẻ ngói tan
 Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài
 Triều đình riêng một góc trời 
 Gồm hai văn vũ, rạch đôi sơn hà !”
 - Thái độ vô quân ấy , về nhiều mặt có ý nghĩa phản phong khá mạnh mẽ . Hình 
 tượng Từ Hải là một minh chứng cho sự sụp đổ của quyền lực phong kiến .
 - Từ Hải là con người có tấm lòng bao dung , nhân ái hào hiệp , tình cảm nhân văn 
 bình dị tôn trọng phẩm giá con người , đường hoàng cứu vớt Kiều ra khỏi lầu xanh 
 , đem lại cho Kiều cuộc sống hạnh phúc :
 Vinh hoa bõ lúc phong trần
 Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày.
 - Từ Hải là ân nhân lớn của Kiều , là người duy nhất có thể đem Kiều từ thân phận 
 một cô gái lầu xanh lên địa vị một phu nhân ngồi ở ghế quan tòa để báo an , báo 
 oán :
 Trướng hùm mở giữa trung quân
 Chuyên đề môn Ngữ văn 5 thương sâu sắc cho những bóng hồng tài sắc vẹn toàn mà bạc mệnh. Truyện Kiều kể về 
cuộc đời đầy trắc trở, nỗi đau đớn đoạn trường của nàng Kiều tài sắc, từ đó lên án hiện 
thực đau lòng của xã hội phong kiến đương thời. Trong tác phẩm, đoạn trích “ Chị em 
Thúy Kiều ” được đưa vào sách giáo khoa là một đoạn miêu tả nhân vật đặc sắc, thể 
hiện rõ nét tài sắc của nàng Kiều và đưa ra dự cảm cho số phận đoạn trường của nàng 
Nguyễn Du sinh ra trong thời kì loạn lạc, đất nước xảy ra nội chiến giữa hai miền Nam-
Bắc, nhà Thanh kéo quân xâm lược nước ta. Sinh thời ông chứng kiến nhiều nỗi bất 
hạnh oan khuất của nhân dân và cảm thương sâu sắc cho số phận của họ, đặc biệt đối 
với những người phụ nữ. Hoàn cảnh sống và tâm hồn đa tư đa lự của cụ Nguyễn Du đã 
cho ra đời danh tác truyện Kiều lưu truyền muôn đời. Tác phẩm đặc biệt thành công 
trong nghệ thuật miêu tả nhân vật, tiêu biểu là trong đoạn trích “ Chị em Thúy Kiều ” 
với bút pháp ước lệ - lấy cảnh tả người đặc sắc. Đoạn trích không những thành công 
khắc họa chân dung Vân, Kiều mà còn đưa ra dự cảm về số phận chìm nổi của nhân vật 
chính 
Hai câu thơ đầu trong đoạn trích đã giới thiệu sơ lược hai nhân vật được miêu tả 
Tự ngàn xưa trăng đã xuất hiện nhiều trong thơ ca. Trăng mang một vẻ đẹp dịu dàng, 
thanh cao mà tràn đầy quyến rũ. “ Tố nga ” là từ Hán Việt có nghĩa đen là vầng trăng 
đẹp, trong truyện Kiều lại được dùng để giới thiệu hai tiểu thư xinh đẹp, thật là tinh tế ! 
Ngay từ câu đầu tiên, cụ Nguyễn Du đã giúp người đọc hình dung được Vân và Kiều có 
vẻ đẹp thanh cao của con nhà quyền quí. 
Nhắc đến mai và tuyết, ta liền nhớ đến dáng vẻ thanh thoát, uyển chuyển của cây mai và 
màu trắng tinh khiết, trong sạch của những bông tuyết. Bút pháp ước lệ trong câu thơ “ 
Mai cốt cách, tuyết tinh thần ” đã nêu phẩm chất tốt đẹp của chị em Thúy Kiều: cốt cách 
thanh cao, tâm hồn trong sáng. Câu thơ kế tiếp lại khẳng định Vân và Kiều mỗi người 
đều có một vẻ đẹp riêng và đều là vẻ đẹp hoàn mĩ “ mười phân vẹn mười ”. 
Vẻ đẹp của nàng Vân là vẻ đẹp phúc hậu từ khuôn mặt đến cử chỉ. Hình ảnh trăng lại 
xuất hiện để tả khuôn mặt đầy đặn của nàng, hợp với hàng lông mày nở nang tạo nên nét 
đẹp thuần hậu. Nụ cười tươi như hoa và những lời ngọc ngà, đứng đắn, nghiêm trang 
của Vân đã nói lên phẩm chất tốt đẹp của nàng. Lại thêm mái tóc bồng bềnh mềm mại 
như mây và làn da trắng tuyết đã khẳng định Vân là một nữ nhân xinh đẹp, đức độ. 
Bằng bút pháp ước lệ, Nguyễn Du đã ví vẻ đẹp của Thúy Vân với những gì cao đẹp nhất 
của thiên nhiên: trăng, con ngài, hoa, ngọc, mây và tuyết. Tuy nhiên việc miêu tả nàng 
Vân của cụ mang tính cụ thể hơn đối với Kiều: cụ thể trong bút pháp liệt kê mặt, lông 
mày, tiếng cười, lời nói, mái tóc, làn da, trong cách dùng từ láy “ trang trọng ”, “ đầy 
đặn ”, “ nở nang ” khiến chân dung nàng trở nên thật rõ nét. Chân dung của nàng cũng 
mang tính dự báo số phận. Vẻ phúc hậu, hòa hợp với thiên nhiên, được thiên nhiên chấp 
nhận “ thua ”, “ nhường ” đã nói trước cuộc đời bình lặng, suôn sẻ của nàng 
Nhan sắc của Vân và Kiều lại mang tính đối lập nhau. Nếu sắc đẹp của Vân nhẹ nhàng, 
 Chuyên đề môn Ngữ văn 7

Tài liệu đính kèm:

  • docchuyen_de_mon_ngu_van_gia_tri_nhan_dao_trong_truyen_kieu_cua.doc