Chuyên đề Khai thác nghệ thuật miêu tả thiên nhiên và miêu tả nhân vật trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du

Chuyên đề Khai thác nghệ thuật miêu tả thiên nhiên và miêu tả nhân vật trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du

Miêu tả là bút pháp khá quen thuộc đối với bất kỳ nhà văn hay nhà thơ nào dù ở nước ngoài hay trong nước. Nhờ bút pháp này mà nó làm cho mỗi bài văn, bài thơ thêm cụ thể hơn, sinh động hơn, gần gũi hơn, hấp dẫn hơn. Có rất nhiều loại bút pháp miêu tả: Có thể là tả cảnh, có thể là tả người... có thể tả trực tiếp, có thể tả gián tiếp (mượn cảnh để tả tình) và không phải tác giả nào cũng thành công ở tất cả các loại bút pháp như vậy, nhưng riêng Nguyễn Du miêu tả là một thiên tài bậc thầy của nền văn học dân tộc.

Trong chương trình Ngữ Văn 9 bậc Trung học cơ sở, những nét sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Du được thể hiện cụ thể qua mỗi đoạn trích trong "Truyện Kiều".

- Ở phần đầu đoạn trích "Cảnh ngày xuân" Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp miêu tả thiên nhiên trực tiếp.

"Ngày xuân con én đưa thoi,

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa".

Bốn câu thơ đầu Nguyễn Du đã mở ra một không gian nghệ thuật hữu sắc, hữu hương, hữu tình, nên thơ. Giữa bầu trời bao la, mênh mông là những cánh én bay qua, bay lại như "thoi đưa". Cánh én ngày xuân thân mật biết bao. Hai chữ "đưa thoi" rất gợi hình, gợi cảm. Nhà thơ miêu tả cánh én như con thoi vút qua, vút lại chao liệng như muốn nói thời gian đang trôi nhanh, mùa xuân đang trôi nhanh, ngày vui trôi rất nhanh.

doc 12 trang Mai Loan 06/08/2025 140
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Khai thác nghệ thuật miêu tả thiên nhiên và miêu tả nhân vật trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Người viết: Lê Thị Phương Huệ
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Lập Thạch- Lập Thạch- Vĩnh Phúc
 CHUYÊN ĐỀ:
 KHAI THÁC NGHỆ THUẬT
 MIÊU TẢ THIÊN NHIÊN VÀ MIÊU TẢ NHÂN VẬT
 TRONG "TRUYỆN KIỀU" CỦA NGUYỄN DU
A/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:
- Thông qua nội dung chuyên đề, giúp HS đội tuyển HSG có cái nhìn khái quát, hệ thống, 
đầy đủ về một trong những thành công tuyệt đỉnh trong nghệ thuật Truyện Kiều đó là 
nghệ thuật miêu tả thiên nhiên và miêu tả nhân vật giúp vào việc tìm hiểu, khai thác giá 
trị của “ Truyện Kiều” tốt hơn.
- HS có kiến thức mở rộng nâng cao và biết vận dụng kiến thức vào làm các bài tập liên 
quan đến nội dung chuyên đề.
- Giáo dục cho HS có ý thức tìm hiểu tài liệu để mở rộng, nâng cao, hiểu sâu sắc kiến 
thức trong chương trình học; kích thích tinh thần ham học, sự sáng tạo của HS trong học 
và làm văn.
B/ ĐỐI TƯỢNG- PHẠM VI- PHƯƠNG PHÁP BỒI DƯỠNG.
1- Đối tượng bồi dưỡng: HS đội tuyển HSG Ngữ Văn lớp 9( đang bồi dưỡng thi HSG 
cấp Tỉnh)
 Thời gian thực hiện: 4 tiết.
2- Phạm vi kiến thức bồi dưỡng: Thế giới nhân vật trong " Truyện Kiều" và một vài nét 
sáng tạo về nghệ thuật miêu tả thiên nhiên và xây dựng nhân vật của Nguyễn Du trong " 
Truyện Kiều”.
3- Phương pháp bồi dưỡng: Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương 
pháp so sánh, phương pháp khái quát hoá.
C/ NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ:
 PHẦN A: PHẦN LÍ THUYẾT:
 Truyện Kiều là kiệt tác văn học của Việt Nam, là tác phẩm hội tụ đầy đủ tinh hoa 
của ngôn ngữ Việt, và tác giả Nguyễn Du đã được thế giới công nhận là Danh nhân văn 
hóa thế giới. Từ nền văn chương dân tộc, Truyện Kiều đã gia nhập vào thế giới văn 
chương siêu việt nhất của nhân loại và Nguyễn Du đã cùng với Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, 
Lý Bạch của Trung Hoa; Sếch-xpia, Đíc-ken của Anh; Pút-xkin, Tôn-xtôi của Nga; Đantơ 
của Ý; Xéc-van-tét của Tây Ban Nha; Víc-to Huy-gô, Ban-dắc của Pháp và Gớt của 
Đức... đi vào cõi bất tử.
 Việc nghiên cứu Truyện Kiều cũng đã vượt ra ngoài đất nước Việt Nam với một 
đội ngũ các nhà Kiều học nói hơn 20 thứ ngôn ngữ khác nhau của hơn 20 nước trên thế 
giới. Vị thế của Truyện Kiều trong xã hội Việt Nam mà tác giả của nó là một đại thi hào 
dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới đòi hỏi phải được nâng tầm nghiên cứu, đánh giá 
để phát lộ hết những giá trị, những tinh hoa kết tinh, hội tụ trong tác phẩm, để phát huy 
 1 thiên bích - lê chi sổ điểm hoa": Hai chữ "Trắng điểm" là nhãn tự, cách chấm phá điểm 
xuyết của thi pháp cổ gợi lên vẻ đẹp thanh xuân trinh trắng của thiên nhiên cỏ hoa; bút 
pháp nghệ thuật phối sắc tài tình: Thảm cỏ xanh non trải rộng tới chân trời là gam màu 
nền cho bức tranh xuân. Trên nền màu xanh non ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. 
Màu sắc có sự hài hoà đến tuyệt diệu. Tất cả đều gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân: mới 
mẻ, tinh khôi, giàu sức sống.
 Như vậy, bằng vài nét chấm phá, miêu tả bậc thầy, "Cảnh ngày xuân" trở thành bức 
tranh xuân hoa lệ, là vần thơ tuyệt bút mà Nguyễn Du trao tặng cho đời, điểm tô cho cuộc 
sống của mỗi chúng ta. Phải chăng thi sĩ Chế Lan Viên đã học tập Tố Như để viết nên vần 
thơ xuân tuyệt đẹp này:
 "Tháng giêng hai xanh mướt cỏ đồi,
 Tháng giêng hai vút trời bay cánh én...”
 ("Ý nghĩ mùa xuân")
Không chỉ có cảnh mùa xuân, Nguyễn Du còn đưa vào “ Truyện Kiều” bức tranh bốn 
mùa đặc sắc:
Cảnh đông qua, xuân đến:
 Hải đường lả ngọn đông lân
 Hạt sương chíu nặng, cành xuân la đà.
 Cảnh xuân qua, hạ đến:
 Buồn trông khung cảnh quê người
 Đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa.
Mùa hè chói chang: 
 Dưới trăng quyên đã gọi hè
 Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông.
Mùa thu : 
 Long lanh đáy nước in trời
 Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng.
 Cảnh nào cũng hữu sắc, hữu hương với những nét thật riêng.
 2. Tả cảnh ngụ tình:
 Trong Truyện Kiều tình - cảnh thường gắn bó chặt chẽ với nhau: nửa tình , nửa cảnh 
như chia tấc lòng. Cảnh thường đượm tình, tình nương theo cảnh mà thể hiện: có khi 
cảnh chuẩn bị sự bộc lộ của tình, có khi cảnh kéo dài dư âm của tình, có khi tình và cảnh 
quyện chặt vào nhau không tách ra được: tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này.
 Thi nhân xưa thường hay mượn cảnh để tả tình, nhìn cảnh mà thấy được tình. Trong 
bức tranh "Cảnh ngày xuân" cũng vậy:
 "Tà tà bóng ngả về tây,
 Chị em thơ thẩn dan tay về.
 Bước dần theo ngọn tiểu khê, 
 Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
 Nao nao dòng nước uốn quanh,
 Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”
 Bức tranh ở đây không còn tươi rói, tinh khôi nữa mà dường như đã nhuốm màu tâm 
trạng. Nguyễn Du thật khéo khi miêu tả thiên nhiên, vẫn là cây cầu nhỏ, khe nước nhỏ, 
vẫn là cái thanh, cái dịu của mùa xuân, nhưng ông đã tả chúng dưới một góc nhìn khác, 
 3 được một bức tranh sinh động về ngoại cảnh và tâm cảnh, trong đó nổi lên tâm trạng nàng 
Kiều bề bộn bao nỗi buồn đau, chua xót, lo sợ, vô vọng...
 II- NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT:
 1. Miêu tả nhân vật qua ngoại hình:
 1.1- Bút pháp tương trưng, ước lệ.
 Đây là một loại bút pháp khá quen thuộc của văn học cổ Việt Nam được thể hiện rõ 
ở những nhân vật chính diện. Trong "Truyện Kiều", ngoại hình nhân vật là những qui 
phạm, những hình ảnh, chữ nghĩa có sẵn, tiêu biểu là trong nghệ thuật miêu tả: Thuý 
Kiều, Thuý Vân, Kim Trọng, Từ Hải.
 Trong đoạn trích "Chị em Thuý Kiều", trước khi miêu tả vẻ đẹp của từng người, 
Nguyễn Du đem đến cho chúng ta những cảm nhận chung về vẻ đẹp của hai chị em. 
Đúng là những trang tuyệt sắc giai nhân:
 "Đầu lòng hai ả tố nga,
 Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân.
 Mai cốt cách tuyết tinh thần,
 Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười".
 Bút pháp ở đây mang tính ước lệ, tượng trưng, tác giả mượn vẻ đẹp của tự nhiên để 
nói lên vẻ đẹp của con người, cả hai chị em đều có vóc dáng thanh tao, tâm hồn trong 
trắng như tuyết. Song mỗi người lại có một vẻ đẹp riêng và đều đạt đến độ hoàn mỹ 
"mười phân vẹn mười".
 Ở đây Thuý Vân là: 
 "Vân xem trang trọng khác vời,
 Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
 Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
 Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.”
 Không chỉ tươi tắn trẻ trung mà còn kiều diễm. Nguyễn Du lấy thiên nhiên làm tiêu 
chuẩn cho sắc đẹp của con người. Ở đây, Thuý Vân được so sánh với trăng, hoa, mây, 
tuyết, ngọc - những biểu tượng của thiên nhiên. Thuý Vân khuôn mặt tròn trịa, đầy đặn, 
sáng đẹp như trăng rằm, tiếng nói trong như ngọc, mái tóc mượt mà óng ả hơn mây, da 
trắng hơn tuyết. Đó là vẻ đẹp của một cô gái phúc hậu, đoan trang, một vẻ đẹp khiến thiên 
nhiên phải nhún nhường, phải chịu thua bức chân dung đẹp và có hồn, vừa bộc lộ tính 
cách, vừa dự báo số phận nhân vật: một tương lai êm đềm, hạnh phúc sẽ đến với Thuý 
Vân, chỉ có thể có được ở con người mắt nhìn người sâu sắc và nghệ thuật miêu tả bậc 
thầy của Nguyễn Du.
 Chân dung Thuý Kiều nổi bật trên nền chân dung Thuý Vân:
 "Kiều càng sắc sảo mặn mà,
 So về tài sắc lại là phần hơn.
 Làn thu thuỷ nét xuân sơn,
 Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.
 Thuý Vân đã được miêu tả như một cô gái đẹp hoàn hảo. Thuý Kiều vượt lên trên 
cái đẹp hoàn hảo ấy để trở thành một cái đẹp tuyệt đỉnh. Vẫn bằng bút pháp ước lệ, tượng 
trưng, khi tả Thuý Kiều, Nguyễn Du chuyển sang chấm phá theo kiểu "điểm nhãn", cốt 
nêu bật cái thần của vẻ đẹp Thuý Kiều, tập trung vào đôi mắt: Đôi mắt Kiều được ví như 
" làn nước mùa thu", làn nước mùa thu vừa trong sáng, vừa long lanh, vừa dợn sóng, lại 
 5 buôn của Mã Giám Sinh. Đó là một cử chỉ vội vàng và khiếm nhã, không phù hợp với địa 
 vị người đi hỏi vợ và không đúng với phẩm cách văn hoá của một Giám Sinh.
 Cũng cùng bọn người xấu xa, lừa lọc, Sở Khanh đã trở thành một nỗi lo sợ cho 
 những bạn gái nào đang độ tuổi yêu đương... chỉ bằng một hành động "lẻn", một cử chỉ 
 "lẩm nhẩm gật đầu", Nguyễn Du đã lột trần bộ mặt đáng ghê sợ của Sở Khanh khi đánh 
 lừa Kiều:
 "Tường đông lay động bóng cành,
 Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào".
 Rồi nghe Kiều ân cần kể lể, hắn:
 "Lắng nghe lẩm nhẩm gật đầu,
 Ta đây nào phải ai đâu mà rằng”.
 Cử chỉ "lẩm nhẩm" của Sở Khanh có một cái gì đó rất ám muội, không được ngay 
 thẳng nên nó không mang dáng vẻ của một con người tử tế.
 Đó là cử chỉ của những loại người lưu manh, xảo trá còn Hồ Tôn Hiến, một viên 
 quan đại thần thì sao? Hắn được sai đi dẹp loạn đã tìm cách mua chuộc Kiều, lừa hại chết 
 Từ Hải. Sau đó, hắn còn ép Kiều hầu hạ rượu đàn, làm nhục Kiều:
 "Nghe càng đắm, ngắm càng say,
 Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”.
 Đằng sau vẻ uy nghiêm của một viên quan đại thần, trước vẻ đẹp của Kiều, Hồ Tôn 
 Hiến cũng phải "ngây vì tình", hành động "ngây" đã bộc lộ rõ một hình ảnh si mê thấp 
 hèn...
 Ngoài những cử chỉ của những loại người trên, trong "Truyện Kiều" chúng ta còn thấy 
 có cử chỉ "xăm xăm" của Thuý Kiều, "thoăn thoắt" của Kim Trọng khi họ đến với nhau. 
 Nhân dịp gia đình Kiều về quê mừng thọ - đây một thời cơ tốt để Kim gặp Kiều:
 "Thời trân thức thức sẵn bày,
 Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường”.
 Còn Kiều, vì tình yêu, vì khao khát hạnh phúc, được tâm sự với người yêu, nàng đã: 
 "Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”.
 Với cử chỉ "xăm xăm", "thoăn thoắt", Kiều và Kim Trọng đã bộc lộ rõ họ là những 
 con người dám sống cho tình yêu, họ đã vượt ra khỏi lễ giáo phong kiến để hành động 
 theo sự mách bảo của trái tim.
 Tóm lại, những từ "tót", "lẻn", "lẩm nhẩm","xăm xăm", "thoăn thoắt", là những từ 
 rất chính xác, rất đắt chỉ có ở Nguyễn Du, chứ không có ở "Kim Vân Kiều truyện". Nhờ 
 thế nhân vật trong "Truyện Kiều" hiện lên cụ thể, sinh động hơn nhiều so với nhân vật của 
 Thanh Tâm Tài Nhân.
 3. Miêu tả nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ tự sự: 
 Ở đoạn "Mã Giám Sinh mua Kiều" trong cảnh mua bán Thuý Kiều là hiện thân của 
con người lương thiện bị chà đạp, của tài sắc bị dập vùi thảm thương. Nguyễn Du càng căm 
ghét tên buôn người Mã Giám Sinh bao nhiêu thì càng cảm thương sâu sắc trước nỗi đau 
xót nhục nhã ê chề của cô gái tài hoa bấy nhiêu. Kiều là một trang quốc sắc thiên hương, 
vậy mà bị đem ra mua bán như món hàng ngoài chợ. Nguyễn Du kể mà như nhập vào nhân 
vật, cũng đau xót với nhân vật: 
 "Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
 Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng.
 7

Tài liệu đính kèm:

  • docchuyen_de_khai_thac_nghe_thuat_mieu_ta_thien_nhien_va_mieu_t.doc