Chuyên đề Giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

Chúng ta đã biết, một nền văn học chân chính bao giờ cũng có giá trị nhân văn sâu sắc. Một trong những giá trị nhân văn ấy chính là cảm hứng nhân đạo trong văn học. Nền văn học trung đại ra đời cách đây khá xa. Nó tồn tại và phát triển trong khuôn khổ của xã hội phong kiến. Nó chịu ảnh hưởng sâu sắc của những luồng tư tưởng trong xã hội ấy. Cho đến nay, nền văn học trung đại với những tác phẩm tiêu biểu vẫn được người Việt Nam trân trọng, ca ngợi và gìn giữ. Vậy điều gì đã làm nên sức sống vĩnh hằng ấy? Cảm hứng yêu nước hay cảm hứng nhân văn? Có lẽ cả hai.
Có thể nói, một trong những nguồn cảm hứng chủ đạo của văn học nói chung, văn học trung đại nói riêng là cảm hứng nhân đạo. Nó như mạch nước ngầm không bao giờ vơi cạn trong dòng chảy của lịch sử văn học dân tộc. Chính cảm hứng này đã rung lên trong trái tim người đọc những cảm xúc, yêu thương, bởi nó đề cập tới những gì là bản chất của con người. Mà tác phẩm tiêu biểu cho nguồn cảm hứng ấy chính là “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Vì vậy, nghiên cứu giá trị nhân đạo trong tác phẩm này là hoàn toàn có cơ sở để từ đó ta có thể tìm hiểu giá trị ấy thông qua nhiều tác phẩm cùng giai đoạn, cùng một nền văn học. Đồng thời giúp học sinh có khả năng nhận biết, khai thác vấn đề này vừa đúng, vừa sâu trên cơ sở khái quát, tổng hợp.
CHUYÊN ĐỀ GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO TRONG TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU Người thực hiện: Phạm Thị Hồng Huế Đơn vị công tác: Trường THCS Liên Bảo- Thành phố Vĩnh Yên- Vĩnh Phúc A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn chuyên đề Văn học là nhân học( M.Góoc-ki).Văn học là cuốn sách về cuộc đời, phản ánh đời sống, số phận con người ở mọi thời đại, đấu tranh cho quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Văn học chắp đôi cánh để các em đến với mọi thời đại văn minh, mọi nền văn hoá, xây dựng trong các em niềm tin vào cuộc sống, trang bị vốn sống, hướng các em tới đỉnh cao của chân - thiện – mĩ. Nhiệm vụ của người giáo viên dạy môn Ngữ văn là phải giúp học sinh hiểu được cái hay, cái đẹp của văn học, kích thích sự hứng thú học tập của học sinh; tạo ra được những rung động thẩm mĩ sâu sắc khiến các em say mê. Từ tác phẩm văn chương, những cảm xúc thẩm mĩ phải được uốn nắn, định hướng và bồi dưỡng nâng lên thành năng lực thẩm mĩ đúng đắn. Muốn đạt được mục tiêu đó, bên cạnh việc dạy học sinh đại trà theo chuẩn kiến thức kĩ năng cần chú trọng đến công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Đây là việc làm góp phần phát hiện, bồi dưỡng, tiến tới đào tạo một lực lượng lao động đặc biệt của xã hội – lao động sáng tạo nghệ thuật. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một trong những công tác trọng tâm trong nhà trường, tác động thiết thực vào việc nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ thầy, cô giáo, nâng cao chất lượng giảng dạy, góp phần bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Bồi dưỡng học sinh giỏi là một công việc khó khăn, đòi hỏi người giáo viên phải có kiến thức, năng lực chuyên môn, có lòng nhiệt tình, có những tìm tòi, sáng tạo. Từ thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy một trong những nguyên nhân có được sự thành công là bên cạnh những kiến thức cơ bản được trang bị ở giờ học chính khoá cần có những chuyên đề mang tính chất tổng hợp, nâng cao trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi để học sinh có cái nhìn thấu đáo, sâu sắc về giá trị của văn học. Từ đó các em cảm thụ và thẩm thấu văn chương một cách tốt hơn. Đó là lý do thứ nhất nhất tôi chọn chuyên đề Giá trị nhân đạo trong“Truyện Kiều” của Nguyễn Du Lý do thứ hai tôi tìm hiểu, nghiên cứu chuyên đề này là bởi “ Truyện Kiều” là một kiệt tác đỉnh cao của nền văn học dân tộc. Đồng thời có một vị trí quan trọng trong chương trình Ngữ văn THCS. Đây là tác phẩm duy nhất được bố trí một tiết giới thiệu về tác giả, tác phẩm và được học tới ba đoạn trích. Những đoạn trích được lựa chọn nhằm giúp học sinh tiếp cận với nhiều phương diện đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của “ Truyện Kiều”. Có nhiều yếu tố làm nên sức sống của tác phẩm song có thể khẳng định giá trị nhân đạo là nội dung quan trọng nhất của“ Truyện Kiều”. Xuất phát từ những cơ sở trên, tôi chọn chuyên đề Giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. II. Cơ sở khoa học của chuyên đề 1. Cơ sở lí luận Chúng ta đã biết, một nền văn học chân chính bao giờ cũng có giá trị nhân văn sâu sắc. Một trong những giá trị nhân văn ấy chính là cảm hứng nhân đạo trong văn học. Nền văn học trung đại ra đời cách đây khá xa. Nó tồn tại và phát 2. Phạm vi nghiên cứu Bàn về giá trị của “Truyện Kiều” không phải là một vấn đề nhỏ dễ viết, vì thế trong phạm vi của chuyên đề, tôi chỉ xin dừng lại ở việc tìm hiểu giá trị nhân đạo trong tác phẩm. Với vấn đề cơ bản trên, tôi đi sâu nghiên cứu tìm hiểu các văn bản được học trong chương trình Ngữ văn 9 gồm bài giới thiệu “Truyện Kiều” của Nguyễn Du và các đoạn trích (Chị em Thuý Kiều, Cảnh ngày xuân, Kiều ở lầu Ngưng Bích), các đoạn trích được giới thiệu trong sách giáo khoa đồng thời tập hợp thêm những tư liệu trong “Truyện Kiều” ở mức độ phù hợp với học sinh THCS để làm nổi bật những biểu hiện cụ thể của giá trị nhân đạo. 3. Mục đích. Bồi dưỡng học sinh giỏi nhằm phát hiện tài năng, nâng cao năng lực cảm thụ văn chương cho học sinh là một việc làm thiết thực. Muốn đạt được kết quả tốt thì nhất thiết phải có những chuyên đề có tính chuyên sâu, khái quát đối với học sinh giỏi. Đó là mục đích cơ bản giúp tôi nghiên cứu chuyên đề này. Đồng thời qua chuyên đề giáo viên giúp học sinh có những hiểu biết đầy đủ sâu sắc về giá trị nhân đạo trong ‘Truyện Kiều”, hiểu được trái tim giàu tình yêu thương của Nguyễn Du. Qua đó các em hoàn thiện nhân cách của mình. Mặt khác, chuyên đề này còn giúp học sinh có đầy đủ kiến thức và kỹ năng để thực hiện những chuyên đề khác phục vụ cho quá trình nâng cao kiến thức bộ môn, khơi dậy ở các em niềm say mê, tìm tòi, nghiên cứu. Đây cũng là cơ sở, là việc làm cần thiết của bản thân tôi trong quá trình tự học nhằm nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn. IV. Phương pháp nghiên cứu Để làm sáng tỏ giá trị nhân đạo trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, tôi đã tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu bắt nguồn từ những cơ sở mang tính lí luận như: Nhân đạo là gì? Những biểu hiện cụ thể của giá trị nhân đạo trong văn học trung đại? Từ đó dùng lí luận soi vào tác phẩm “Truyện Kiều” để tìm ra giá trị ấy thông qua một hệ thống luận điểm, luận cứ và cách lập luận chặt chẽ giàu sức thuyết phục bằng các phép lập luận cụ thể như giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, so sánh, khái quát, tổng hợp; chú ý bám sát các đoạn trích được học trong chương trình kết hợp vói việc nâng cao, mở rộng kiến thức ở mức độ phù hợp với học sinh giỏi bậc THCS. B. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ I. Lý thuyết Nguyễn Du đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hoá thế giới, một thiên tài rực rỡ trên bầu trời thi nhân Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Ông sinh ra từ đêm mờ sương xa của lịch sử, khi mà xã hội phong kiến Việt Nam quằn quại trong cơn hấp hối đưa nước ta vào một tấn bi kịch thê thảm. Vốn có một trái tim nhân hậu và trên cơ sở hiểu đời, hiểu người, hiểu mình, Nguyễn Du đã gửi vào “Truyện Kiều” - kiệt tác bất hủ của nền văn học dân tộc và văn học nhân loại một nỗi niềm thương cảm với những yêu ghét rạch ròi. Vì vậy, có thể nhận thấy giá trị lớn nhất của Truyện Kiều là nội dung nhân đạo sâu sắc. Cảm hứng chủ đạo này Nếu là một tâm hồn không bị sóng gió vùi dập, một trái tim không thổn thức trước những nỗi đắng cay của bức tranh thế sự, một lương tâm không phẫn nộ trước những thói đời vô nhân bạc nghĩa, thì Nguyễn Du, dẫu có tài ba lỗi lạc đến đâu cũng không tìm ra những âm điệu, những vần thơ khiến cho người đọc trong cuộc nghe như khóc, như than, như uất ức, oán hờn.” “Truyện Kiều” là tiếng nói thiết tha bảo vệ quyền sống con người. Trong vô số nạn nhân của xã hội xưa, Nguyễn Du đặc biệt trân trọng và xót thương cho số kiếp mỏng manh, bất hạnh của người phụ nữ có tài sắc. Xã hội phong kiến vốn coi thường người phụ nữ nhưng Nguyễn Du lại dành cả tấm lòng trọn vẹn của mình với những người phụ nữ bất hạnh. Ông đã đi ngược lại thời đại để cảm thông, sẻ chia với họ. Với Nguyễn Du, họ là hình ảnh kết tinh về số kiếp bi đát của con người trong cuộc đời bế tắc. Chứng kiến những mảnh đời bất hạnh đang quằn quại trong vũng lầy của xã hội cũ, Nguyễn Du một trái tim lớn đã từng xúc động đến nghẹn lòng.Tiếng khóc của ông trước hết dành cho Đạm Tiên một người con gái tài sắc vẹn toàn mà một thời xuân sắc đã có biết bao người thầm yêu trộm nhớ. Nổi danh tài sắc một thì, Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh. Nhưng đau đớn thay cuộc đời nàng lại là đời của một ca nhi ê chề đau đớn: Sống làm vợ khắp người ta, Khéo thay thác xuống làm ma không chồng! Biết bao người đàn ông đi qua đời nàng nhưng bất hạnh thay, cuối cùng Đạm Tiên lại quay trở lại với con số không tròn trĩnh, xót xa hơn sau khi mất nấm mồ của nàng chỉ là nấm mồ vô chủ, hoang lạnh, tội nghiệp không hương khói, không người viếng thăm ngay trong ngày lễ tảo mộ: “Sè sè nấm đất ven đường Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh” Đặc biệt Thuý Kiều là nhân vật mà Nguyễn Du đã dành cho sự yêu thương. Khóc Thuý Kiều, Nguyễn Du khóc cho những nỗi đau lớn của con người khi tình yêu tan vỡ; tình cốt nhục lìa tan, nhân phẩm bị chà đạp, thân xác bị đoạ đày. Nguyễn Du như hoá thân vào nàng Kiều trong từng trang viết để cùng đau, cùng buồn, cùng cất lên tiếng kêu xé ruột. Đứng trên bậc thang của xã hội thượng lưu, nhưng tác giả không ngần ngại nói những lời tha thiết để làm dịu bớt nỗi đau của Kiều. Thuý Kiều là một con người đầy đau khổ, một số phận đáng thương. Có thể nói tạo hoá đã cho Kiều một vẻ đẹp lộng lẫy, đằm thắm và dịu dàng. Với vẻ đẹp, tài năng ấy, nàng là bảo vật của đất trời; là sự kết tinh của những nét tinh hoa. Những tưởng nàng được sống một cuộc đời êm đềm, hạnh phúc. Nhưng trớ trêu thay, bất hạnh lại rơi đúng vào con người tài hoa ấy. Trong cuộc đời, nàng đã khóc với tất cả sự đau xót của một kiếp người. Và quả thật Kiều đã đứng trước muôn vàn nghịch cảnh, đã chịu đựng tới tận cùng thống khổ. Trong suốt mười lăm năm lưu lạc của Thuý Kiều, ta không hề thấy bóng dáng của những người thân yêu mà chỉ thấy Nguyễn Du lận đận theo Kiều qua từng trang viết. Ngưng Bích, ôm trọn tâm trạng cô đơn, đau đớn, tủi hổ bẽ bàng. Nỗi đau bủa vây, nỗi nhớ người yêu da diết, nỗi xót thương cha mẹ già. Nỗi nhớ người thân cũng không làm Kiều khuây khoả, tâm trạng của nàng thấm vào cảnh vật: Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ rầu rầu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh, Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Tám câu thơ dựng lên bức tranh tứ bình bắt đầu bằng hai chữ” buồn trông” với ngôn ngữ độc hoại nội tâm đặc sắc; dường như ở đây không có con người chỉ có cái nhìn hay đúng hơn- chỉ có tâm trạng. Đây là một trong những đoạn tả cảnh ngụ tình thành công nhất trong Truyện Kiều. Với quan niệm thẩm mĩ truyền thống, Nguyễn Du luôn luôn lấy khung cảnh thiên nhiên làm nền cho sự hoạt động của nội tâm nhân vật. Tính chất truyền thống ấy biểu hiện qua sự chi phối của lôgic nội tâm đối với lôgic cảnh vật khách quan, qua bút pháp phác hoạ và khái quát, qua hình tượng và ngôn ngữ ước lệ công thức. Nhưng bút lực của một thi tài đã phát huy cao độ tính đa nghĩa của ngôn ngữ và do đó tính đa dạng của hình tượng, tạo nên trường liên tưởng phong phú rộng mở và cũng tạo nên nhiều tầng ý nghĩa của từ ngữ, hình tượng văn học. Cánh hoa trôi man mác giữa dòng nước mênh mông cũng là tâm trạng và số phận vô định của Kiều. Nội cỏ rầu rầu - một sự tàn úa, thê lương giữa chân mây mặt đất vô cùng rộng lớn xa xăm hay chính là tâm trạng bi thương tương lai mờ mịt của nàng? Và thiên nhiên dữ dội, gió cuốn mặt duyềnh, ầm ầm tiếng sóng như nói lên tâm trạng hãi hùng và cuộc sống đầy đe doạ đang bao quanh nàng. Mỗi từ ngữ, mỗi hình ảnh thiên nhiên đồng thời là một ẩn dụ về tâm trạng, về cả số phận con người. Toàn bộ tám câu thơ kết thành bức tranh toàn cảnh với mặt biển, chân mây, cánh hoa, nội cỏ, sóng gào, gió cuốn vừa buồn thảm, vừa ghê sợ. Bức tranh thiên nhiên ấy đồng thời mang ý nghĩa phúng dụ về tâm trạng và hoàn cảnh cô đơn, tâm trạng hãi hùng trước một cuộc sống đầy đe doạ, dự báo trước một tương lai mờ mịtĐoạn thơ nói lên hiện tại lẻ loi, đơn độc thương thân, xót mình đầy bế tắc và báo hiệu một ngày mai khủng khiếp của nàng với sự xuất hiện đáng ngờ và đáng sợ của một hình dung chải chuốt áo khăn dịu dàng, con người ấy đã cùng Tú Bà đẩy nàng vào cuộc sống ô nhục. Bọn chúng là những kẻ mất hết cả nhân tính lẫn nhân hình. Khi bắt được Kiều bỏ trốn, Tú Bà sẵn sàng vùi liễu dập hoa một cách nhẫn tâm, thô bạo. Khóc cho thân phận con người bị đánh đập tra tấn, nhà thơ cũng như oằn mình trước những trận đòn tan da nát thịt: Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra Đang tâm vùi liễu dập hoa tơi bời Tâm trạng Kiều phải chăng cũng là tâm trạng của thi hào Nguyễn Du. Nhà thơ đã hoá thân vào nhân vật, hoà vào tâm trạng của nhân vật trữ tình; cùng đồng
Tài liệu đính kèm:
chuyen_de_gia_tri_nhan_dao_trong_truyen_kieu_cua_nguyen_du.doc