Báo cáo sáng kiến Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4 ở trường tiểu học

Báo cáo sáng kiến Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4 ở trường tiểu học

Thay đổi ngữ liệu yêu cầu của bài trong Sách giáo khoa sao cho phù hợp với thực tế và tư duy của học sinh.

- Ví dụ 1: Trong bài: Luyện tập cẩu kể Ai là gì?

Bài tập số 3: Có lần, em cùng một số bạn trong lớp đến thăm bạn Hà bị ốm. Em giới thiệu với bố mẹ bạn Hà từng người trong nhóm. Hãy viết một đoạn văn ngắn kể lại chuyện đó (có dùng câu kể "Ai là gì?”).

- Trong lớp sẽ có học sinh chưa từng đi thăm bạn ốm cùng nhau, vậy học sinh sẽ sử dụng câu kể Ai là gì? để giới thiệu với bố mẹ bạn ra sao? Chính vì vậy, để các em có thể viết được đoạn văn này, tôi mạnh dạn thay đổi ngữ liệu như sau:

Bài tập số 3: Có lần, em cùng một số bạn trong lớp đến nhà bạn chơi, dự sinh nhật bạn hay thăm bạn ốm,. Em giới thiệu với bố mẹ bạn từng người trong nhóm. Hãy viết một đoạn văn ngắn kể lại buổi đi thăm đó (có dùng câu kể "Ai là gì?”).

=> Với biện pháp này, học sinh thực sự dễ hình dung và viết đoạn văn chân thực, phong phú hơn rất nhiều.

 

docx 21 trang thanh tú 22 07/10/2022 9913
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo sáng kiến Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4 ở trường tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN A: ĐẶT VẤN ĐỀ
     I. Lí do chọn đề tài:
     Mục tiêu của môn Tiếng Việt trong chương trình tiểu học là hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi.
    Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Con người học ngôn ngữ từ thuở còn thơ và suốt cuộc đời không ngừng trau dồi ngôn ngữ cho mình. Qua những năm đứng trên bục giảng, tôi nhận thấy hầu như tất cả giáo viên đều rất coi trọng môn Tiếng Việt, dành rất nhiều thời gian cho môn học nhưng  chất lượng môn Tiếng Việt vẫn chưa đạt như mong muốn.
     Luyện từ và câu là phân môn của môn Tiếng Việt, thông qua phân môn này, học sinh biết: Mở rộng và hệ thống hóa vốn từ, trang bị cho học sinh một số hiểu biết cơ bản về từ và câu. Rèn cho học sinh kĩ năng dùng từ và câu, sử dụng dấu câu phù hợp. Bồi dưỡng học sinh thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu. Có ý thức sử dụng Tiếng Việt trong văn hóa giao tiếp. Có lẽ vì thế mà môn  Luyện từ và câu trong sách Tiếng Việt lớp 4 thường được đánh giá là khô khan, trừu tượng trong các phân môn của Tiếng Việt.
    Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy các em thường không thích môn học này. Sau khi nghiên cứu tôi thấy, nội dung phân môn Luyện từ và câu là phù hợp với năng lực nhận thức của các em. Nếu người giáo viên có phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, tổ chức hướng dẫn các hoạt động một cách linh hoạt, nhẹ nhàng, thì các em sẽ rất hứng thú, chủ động nắm chắc kiến thức.
     Vậy làm thế nào để dạy học tốt phân môn luyện từ và câu góp phần nâng cao chất lượng của môn Tiếng Việt?
     Trong khuôn khổ bài viết này, tôi mạnh dạn trình bày: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4 ở trường tiểu học” mà tôi đã rút ra trong quá trình dạy học.
    II. Mục đích nghiên cứu: 
- Nâng cao chất lượng học Tiếng Việt nói chung và phân môn Luyện từ và câu lớp 4 nói riêng.
- Rèn kĩ năng nói đúng, nói hay, sử dụng đúng từ ngữ trong nói và viết qua đó giáo dục cho học sinh lòng tự hào, yêu quý và ý thức giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
     III. Nội dung nghiên cứu:
- Các phương pháp dạy học Tiếng Việt.
- Một số dạng bài tiêu biểu trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4.
     IV. Đối tượng nghiên cứu:
     Đối tượng nghiên cứu của đề tài là biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4 ở trường tiểu học.
    V. Phương pháp nghiên cứu:
     Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp thu nhận tài liệu.
- Phương pháp điều tra thực trạng.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp nghiên cứu.
- Trao đổi, tọa đàm với đồng nghiệp cùng cấp học.
     VI. Phạm vi nghiên cứu:
    Phạm vi nghiên cứu của đề tài là phân môn Luyện từ và câu lớp 4 tại trường tiểu học.
PHẦN B: NỘI DUNG ĐỀ TÀI
     I. Cơ sở lí luận
     Phân môn Luyện từ và câu ở Tiểu học thực hiện ba nhiệm vụ: giúp học sinh phong phú hoá vốn từ, chính xác hoá vốn từ và tích cực hoá vốn từ
    Trong ba nhiệm vụ cơ bản nói trên, nhiệm vụ phong phú hoá vốn từ, phát triển, mở rộng vốn từ được coi là trọng tâm. Bởi vì, đối với học sinh tiểu học, từ ngữ được cung cấp trong phân môn Luyện từ và câu giúp các em hiểu được các phát ngôn khi nghe - đọc.
     Ở một mức độ nào đó, phân môn Luyện từ và câu ở Tiểu học còn có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh một số khái niệm có tính chất cơ bản ban đầu về cấu tạo từ và nghĩa của từ Tiếng Việt.
     II. Cơ sở thực tiễn
     Nội dung chương trình, yêu cầu kiến thức, kĩ năng của phân môn Luyện từ và câu lớp 4.
     1. Nội dung chương trình: 
          Học kỳ I: 5 chủ điểm.
          Học kỳ II: 5 chủ điểm:
     2. Yêu cầu về kiến thức:
- Mở rộng và hệ thống hóa vốn từ.
- Trang bị các kiến thức giảng dạy về từ và câu: Từ, cấu tạo từ, từ loại.
- Các kiểu câu: Câu hỏi, câu kể, câu khiến, câu cảm.
- Thêm trạng ngữ trong câu: Trạng ngữ chỉ thời gian, nơi chốn, nguyên nhân, mục đích, phương tiện.
- Các dấu câu: dấu hỏi, dấu chấm, dấu ngoặc kép, dấu gạch ngang,...
     3. Yêu cầu về kĩ năng:
- Từ: Nhận biết được cấu tạo của tiếng, từ, từ loại, đặt câu với những từ đã cho.
- Câu: Nhận biết các kiểu câu, các trạng ngữ, tác dụng của dấu câu, đặt câu theo mẫu. Viết đoạn văn với dấu câu thích hợp.
     III. Thực trạng của việc dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 4
- Chương trình của phân môn Luyện từ và câu lớp 4 khá sinh động, phong phú và đa dạng. Nhiều dạng bài mới phù hợp, gần gũi với sở thích, tâm lí của học sinh lớp 4. Song để học sinh nói đúng, sử dụng đúng từ ngữ trong khi nói cũng như khi viết đã là một điều rất khó và để các em có thể nói hay lại càng khó hơn.
- Năm học 2018-2019 này, lớp tôi chủ nhiệm có 60 học sinh. Để biết được cụ thể số lượng học sinh nói đúng, sử dụng linh hoạt từ ngữ nói và viết khi học phân môn này của lớp ra sao. Ngay từ khi mới nhận lớp tôi đã khảo sát cho 60 học sinh. Kết quả điều tra cụ thể như sau:
Bảng khảo sát trước khi áp dụng:
Tổng số HS
Dùng từ ngữ đúng
khi nói và viết
Dùng từ ngữ linh hoạt
khi nói và viết
Số HS
Số %
Số HS
Số %
60
45
75%
15
25%
     Dựa vào kết quả ở bảng trên tôi thấy, năm học này, đa số các em đã dùng từ ngữ đúng khi nói và viết. Đây là một điều dễ hiểu vì phân môn này cung cấp cho các em nhiều kiến thức, giúp các em nói đúng và sử dụng đúng từ ngữ trong nói và viết.
     Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy còn một số hạn chế ảnh hưởng không nhỏ đến việc học Tiếng Việt nói chung và phân môn Luyện từ và câu nói riêng. Cụ thể là:
     1. Về phía giáo viên:
+ Ưu điểm:
- Giáo viên được trang bị đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên, tranh ảnh và các đồ dùng dạy học hiện đại phục vụ cho việc giảng dạy. Giáo viên thường xuyên sử dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, thường xuyên đổi mới phương pháp dạy học vào tiết học.
- Được nhà trường thường xuyên tổ chức các tiết chuyên đề về phân môn Luyện từ và câu để nâng cao hiệu quả dạy học trong khối. Nhà trường tổ chức học hai buổi trên ngày nên giáo viên có thời gian rèn thêm vào buổi chiều.
- Mỗi giáo viên luôn cố gắng trau dồi kiến thức, rèn kĩ năng nghiệp vụ, nhiệt tình, chú ý học hỏi, tích góp các kinh nghiệm của bản thân và đồng nghiệp, thích nghiên cứu và dạy Luyện từ và câu có hiệu quả.
+ Tồn tại:
- Còn một số giáo viên chưa quan tâm đến việc làm giàu vốn từ, sửa lỗi cho học sinh khi các em nói sai, viết sai,
- Một số giáo viên chưa kích thích được sự ham muốn, yêu thích môn học này của học sinh.
     2. Về phía học sinh:
+ Ưu điểm:
- Các em có đủ sách giáo khoa, sách vở bài tập, từ điển Tiếng Việt.
- Được sự quan tâm ủng hộ nhiệt tình của các bậc phụ huynh.
+ Tồn tại:
- Khả năng tiếp thu của học sinh trong lớp không đồng đều. Một số em chưa thích học phân môn Luyện từ và câu.
- Kiến thức về vốn từ, cấu tạo từ, từ loại, thành phần câu, là mạch kiến thức mới, lên lớp 4 các con mới bắt đầu làm quen nên khá khó với học sinh.
    IV. Những biện pháp dạy học chung:
Biện pháp1:   Phát huy tính tích cực của học sinh bằng hình ảnh trực quan.
Muốn phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh người giáo viên phải có hệ thống câu hỏi trong mỗi bài phải thật cụ thể phù hợp với mọi đối tượng học sinh.
Ví dụ 1: Bài Mở rộng vốn từ “Đồ chơi – Trò chơi”
Giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị 1 số đồ chơi các con hay chơi hàng ngày. Sau đó, miêu tả lại đồ vật đó cùng cách chơi.
Ví dụ 2: Bài Mở rộng vốn từ Nhân hậu - Đoàn kết (trang 17)
         Bài 1: Tìm các từ ngữ:
 a. Thể hiện lòng nhân hậu, tình cảm yêu thương đồng loại.
b. Trái nghĩa với nhân hậu hoặc yêu thương.
c. Thể hiện tinh thần đùm bọc hoặc giúp đỡ đồng loại.
d. Trái nghĩa với đùm bọc hoặc giúp đỡ.
Ở bài tập này, tôi hướng dẫn học sinh như sau:
- Dựa vào các bài Tập đọc Dế Mèn bênh vực kẻ yếu, bài Chính tả Mười năm cõng bạn đi học để tìm các từ theo các yêu cầu của bài tập.
- Cho học sinh xem một trích đoạn đĩa hình về cảnh cứu trợ, ủng hộ đồng bào gặp thiên tai, ủng hộ người nghèo để giúp các em liên hệ tìm từ dễ hơn.
- Các em có thể tìm: tương thân tương ái, đùm bọc, khó khăn, hoạn nạn, thiên tai, đoàn kết, chia sẻ, cảm thông...
=> Với cách làm này, học sinh dễ dàng tìm từ mà không bị nhầm và sai từ, các em tìm được nhiều từ khá phong phú.
Biện pháp 2 : Thay đổi nhiều hình thức dạy học phong phú, đa dạng.
Ví dụ: 
- Thảo luận nhóm để tìm từ đúng với yêu cầu đề bài.
- Chơi trò chơi “Gắn thẻ từ”. Từ trò chơi tạo cho học sinh hứng thú học tập.
- Tọa đàm, trao đổi, và trả lời các câu hỏi do mình đưa ra dẫn dắt để giúp học sinh hiểu thế nào là danh từ.
- Học sinh vận dụng những kiến thức đã học để hoàn thành các bài vào phiếu.
=> Như vậy trong một tiết học, việc giáo viên vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học trong dạy luyện từ và câu là nhiệm vụ cần thiết. Với cách làm này đã thu hút học sinh hào hứng tham gia vào bài học, các con chủ động tiếp thu kiến  thức,vận dụng làm bài tốt mà giờ học vẫn nhẹ nhàng.
Biện pháp 3: Bồi dưỡng học sinh năng khiếu, nâng cao chất lượng đại trà:
     Một lớp học bao giờ cũng có nhiều đối tượng như học sinh khá, giỏi, học sinh trung bình và có thể có cả học sinh yếu. Các bài tập trong sách giáo khoa theo yêu cầu của Chuẩn kiến thức, kĩ năng thì mọi đối tượng học sinh đều phải đạt được. Hơn nữa nhà trường tổ chức học hai buổi trên ngày nên  có nhiều thời gian rèn luyện thêm vào buổi chiều. Chính vì vậy, bản thân tôi nhận thấy cần phải có các bài tập dành cho học sinh năng khiếu, từng bước nâng cao chất lượng học sinh trung bình và yếu là việc làm thường xuyên trong các giờ học.
Ví dụ:Bài Mở rộng vốn từ: Ý chí - Nghị lực
Buổi sáng, các em đã được làm các bài tập trong SGK. Đến buổi chiều, tôi xây dựng thêm hệ thống bài tập cho các em rèn luyện thêm như sau:
 Bài tập 1: Chọn từ thích hợp trong các từ sau để điền vào ô trống: ý chí, quyết chí, chí hướng, chí thân.
          a. Nam là người bạn .. của tôi.
          b. Hai người thanh niên yêu nước ấy cùng theo đuổi một
          c. ..của Bác Hồ cũng là của toàn thể nhân dân Việt Nam.
          d.      Không có việc gì khó
                  Chỉ sợ lòng không bền
                  Đào núi và lấp biển
                  . ắt làm nên.
=>Việc xây dựng bài tập để luyện tập củng cố như trên càng giúp học sinh ghi nhớ sâu những kiến thức đã học. Việc xây dựng bài tập phải phù hợp với các đối tượng học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu đã giúp cho chất lượng học phân môn Luyện từ và câu tiến bộ rõ rệt.
Biện pháp 4: Phối hợp bài dạy với các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Ví dụ 1 : Tổ chức các cuộc thi; hội vui học tập, giao lưu học sinh giỏi.
Ví dụ 2 : Qua trò chơi Rung chuông vàng, tôi hướng dẫn học sinh chơi như sau:
- Bước 1: Phổ biến luật chơi.
- Bước 2: Nêu yêu cầu chơi.
Học sinh suy nghĩ, lần lượt viết vào bảng con các từ thích hợp trong ngoặc để hoàn chỉnh các câu thành ngữ. Sau thời gian quy định học sinh sẽ giơ bảng. Em nào sai sẽ bị loại đứng sang một bên và phải hát một bài hoặc làm một động tác gây cười cho cả lớp mới được quay lại “sàn thi đấu”
- Bước 3: Yêu cầu học sinh chơi. 
Sau đó tôi chốt lời giải đúng cho học sinh ghi nhớ các câu thành ngữ đã hoàn chỉnh.
=> Tóm lại trong dạy học, tạo hứng thú cho học sinh là rất quan trọng. Nó gần như quyết định hiệu quả của việc dạy học. Luyện từ và câu được đánh giá là khô khan trong các phân môn Tiếng Việt. Vì vậy việc phối hợp với các hoạt động ngoài giờ lên lớp sẽ  tạo hứng thú cho học sinh trong việc tiếp thu kiến thức. Khi học sinh có hứng thú, các em sẽ tự giác, chủ động học tập chủ động nắm được kĩ năng, kiến thức.
Biện pháp 5: Thay đổi ngữ liệu yêu cầu của bài trong Sách giáo khoa sao cho phù hợp với thực tế và tư duy của học sinh.
- Ví dụ 1: Trong bài: Luyện tập cẩu kể Ai là gì?
Bài tập số 3: Có lần, em cùng một số bạn trong lớp đến thăm bạn Hà bị ốm. Em giới thiệu với bố mẹ bạn Hà từng người trong nhóm. Hãy viết một đoạn văn ngắn kể lại chuyện đó (có dùng câu kể "Ai là gì?”).
- Trong lớp sẽ có học sinh chưa từng đi thăm bạn ốm cùng nhau, vậy học sinh sẽ sử dụng câu kể Ai là gì? để giới thiệu với bố mẹ bạn ra sao? Chính vì vậy, để các em có thể viết được đoạn văn này, tôi  mạnh dạn thay đổi ngữ liệu như sau:
Bài tập số 3: Có lần, em cùng một số bạn trong lớp đến nhà bạn chơi, dự sinh nhật bạn hay thăm bạn ốm,... Em giới thiệu với bố mẹ bạn từng người trong nhóm. Hãy viết một đoạn văn ngắn kể lại buổi đi thăm đó (có dùng câu kể "Ai là gì?”).
=> Với biện pháp này, học sinh thực sự dễ hình dung và viết đoạn văn chân thực, phong phú hơn rất nhiều.
Kiến thức tiếng Việt vốn bắt nguồn từ đời sống thực tế, nếu trong khi dạy, giáo viên liên hệ thực tế để học sinh tìm kiến thức thì các em làm bài tập tốt hơn, hứng thú hơn. Ngược lại sau mỗi hoạt động hoặc mỗi bài, giáo viên cần liên hệ thực tế để giáo dục các em vận dụng những điều đã học vào cuộc sống. Có như vậy, các em mới cảm thấy kiến thức bài học thật gần gũi, yêu thích môn học hơn.
Ví dụ 2: Mở rộng vốn từ: Ý chí - Nghị lực (tuần 13)
Bài 3: Viết một đoạn văn ngắn nói về một người do có ý chí, nghị lực nên đã vượt qua nhiều thử thách, đạt được thành công. 
     Với bài tập này, tôi yêu cầu học sinh có thể liên hệ ngoài việc viết về những nhân vật mà các em được học, được xem trên báo, đài các em có thể viết về những bạn trong lớp, trong trường hoặc chính người thân của em. Và thực tế khi dạy bài này, khá nhiều học sinh trong lớp tôi đã chọn viết bạn trong lớp và người thân của mình. Khi mời đọc bài, sửa trước lớp, các em rất ngạc nhiên, thích thú. Tôi đã chọn bài làm tốt kể về những người gần gũi xung quanh để giáo dục, nêu gương trước lớp. Vì những nhân vật đó chính là con người cụ thể mà các em được biết, được thấy, như vậy sẽ có tính giáo dục tốt hơn.
=> Như vậy từ thực tiễn cuộc sống, các con đã gắn vào với bài học một cách nhẹ nhàng. Rất nhiều học sinh trong lớp có bài viết hay, cảm động với lời kể chân thành mộc mạc.
Biện pháp 6: Nắm vững phương pháp dạy một số dạng bài tiêu biểu: 
DẠNG 1: CẤU TẠO TỪ
1 . Hướng dẫn và tổng hợp cho học sinh ghi nhớ nội dung kiến thức .
Khi giảng dạy, tôi luôn cố gắng rèn học sinh trong các giờ học. Tổng hợp cho học sinh hiểu và ghi nhớ những kiến thức trọng tâm.
* Từ ghép: Là từ do hai hoặc nhiều tiếng có nghĩa ghép lại tạo thành nghĩa chung. Từ ghép được chia thành hai kiểu:
- Từ ghép có nghĩa tổng hợp: Là từ ghép mà nghĩa của nó biểu thị những loại rộng hơn, lớn hơn, khái quát hơn so với nghĩa các tiếng trong từ.
- Từ ghép có nghĩa phân loại: Thường gồm có hai tiếng, trong đó có một tiếng chỉ loại lớn và một tiếng có tác dụng chia loại lớn đó thành loại nhỏ hơn.
* Từ láy: Là từ gồm hai hay nhiều tiếng láy nhau. Các tiếng láy có thể có một phần hay toàn bộ âm thanh được lặp lại.
- Căn cứ vào bộ phận được lặp lại, người ta chia từ láy thành bốn kiểu: Láy tiếng, láy vần, láy âm, láy cả âm và vần.
- Căn cứ vào số lượng tiếng được lặp lại, người ta chia thành ba dạng từ láy: láy đôi, láy ba, láy tư.
2 . Hướng dẫn học sinh cách phân định ranh giới từ .
Để xác định được từ nào đó là một từ (từ phức) hay hai từ đơn bằng cách xem xét tổ hợp ấy về hai mặt: kết cấu và nghĩa.  
* Về mặt kết cấu, tôi hướng dẫn học sinh dùng thao tác chêm, xen:
Ví dụ : tung cánh             Tung đôi cánh
                     lướt nhanh            Lướt rất nhanh
  - Tôi yêu cầu học sinh so sánh từ tung cánh với từ tung đôi cánh có gì khác nhau?
 -  Quan hệ giữa các tiếng trong từ như thế nào?
- Sau đó tôi chốt cho học sinh hiểu nếu quan hệ giữa các tiếng trong từ mà lỏng lẻo, dễ tách rời, có thể chêm, xen một tiếng khác từ bên ngoài vào mà nghĩa của từ về cơ bản vẫn không thay đổi thì đó là hai từ đơn.
* Về mặt nghĩa:
 -  Nếu tổ hợp đó gọi tên, một sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan hay biểu đạt một khái niệm về sự vật, hiện tượng thì tổ hợp ấy là một từ ghép.
Ví dụ: Mặt hồ, sóng thần, bánh rán.
- Tôi hướng dẫn để học sinh hiểu một số từ gọi tên hai hay nhiều sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan hay biểu đạt nhiều khái niệm về sự vật, hiện tượng thì từ ấy là kết hợp của hai hay nhiều từ đơn.
Ví dụ: trải rộng, chạy đi,.
Lưu ý học sinh:
+ Có những từ mang tính chất trung gian, nghĩa của nó mang đặc điểm của cả hai loại (từ phức và hai từ đơn). Trong trường hợp này, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà ta có kết luận nó thuộc loại nào.
         + Khả năng dùng một yếu tố thay cho cả từ cũng là cách để chúng ta xác định tư cách từ.
          Ví dụ:  Mùa xuân những cánh én đã bay về.    (cánh én chỉ con chim én)
           Những bắp ngô chỉ còn chờ tay người  đến mang về. (tay người chỉ con người).
    3 . Hướng dẫn học sinh các cách phân biệt từ ghép và từ láy dễ lẫn lộn.
- Nếu các tiếng trong từ có cả quan hệ về nghĩa và quan hệ về âm (âm thanh) thì ta xếp vào nhóm từ ghép.
          Ví dụ: thúng mủng, tươi tốt, đi đứng, mặt mũi, phẳng lặng, mơ mộng,...
- Nếu các từ chỉ còn một tiếng có nghĩa, còn một tiếng đã mất nghĩa nhưng hai tiếng không có quan hệ về âm thì ta xếp vào nhóm từ ghép.
Ví dụ: Xe cộ, tre pheo, gà qué, chợ búa,...
- Nếu các từ chỉ còn một tiếng có nghĩa, còn một tiếng đã mất nghĩa nhưng hai tiếng có quan hệ về âm thì ta xếp vào nhóm từ láy.
Ví dụ: chim chóc, đất đai, tuổi tác, thịt thà, cây cối, máy móc,...
- Các từ không xác định được hình vị gốc (tiếng gốc) nhưng có quan hệ về âm thì đều xếp vào lớp từ láy.
Ví dụ: nhí nhảnh, bâng khuâng, dí dỏm, chôm chôm, thằn lằn, chích choè,...
- Các từ có một tiếng có nghĩa và một tiếng không có nghĩa nhưng các tiếng trong từ được biểu hiện trên chữ viết không có phụ âm đầu thì cũng xếp vào nhóm từ láy (láy vắng khuyết phụ âm đầu).
Ví dụ: ồn ào, ầm ĩ, ấm áp, im ắng, ao ước, yếu ớt,...
- Các từ có một tiếng có nghĩa và một tiếng không có nghĩa có phụ âm đầu được ghi bằng những con chữ khác nhau nhưng có cùng cách đọc (c/k/q; ng/ngh; g/gh) cũng được xếp vào nhóm từ láy.
 Ví dụ: cuống quýt, cũ kĩ, ngốc nghếch, gồ ghề,...
4 . Bài luyện tập luyện thêm:
Bài tập: Chép lại đoạn thơ sau rồi gạch một gạch dưới các từ phức:
Em mơ làm mây trắng
Bay khắp nẻo trời cao
Nhìn non sông gấm vóc
Quê mình đẹp biết bao.
          *Đáp án: Từ phức: non sông, gấm vóc, biết bao.
DẠNG 2: TỪ LOẠI
1. Hướng dẫn và tổng hợp cho học sinh những kiến thức cần ghi nhớ về danh từ, động từ, tính từ.
* Danh từ:  là những từ dùng chỉ sự vật; người, vật, hiện tượng, khái niệm, đơn vị,... Có hai loại danh từ đó là danh từ chung và danh từ riêng.
-  Danh từ chung: Dùng để gọi chung tên của các sự vật
Tôi yêu cầu học sinh cho ví dụ cụ thể cho mỗi loại danh từ:
   - Danh từ chỉ người: bố, mẹ, học sinh, bộ đội,...
   - Danh từ chỉ vật: bàn ghế, sách vở, sông, suối, cây cối,...
   - Danh từ chỉ hiện tượng: nắng, mưa, gió, bão, động đất,...
   - Danh từ chỉ đơn vị: (ghép được với số đếm).
- Danh từ khái niệm : Là các khái niệm trừu tượng tồn tại trong nhận thức của người, không nhìn được bằng mắt.Không cảm nhận được bằng các giác quan. Ví dụ: đạo đức, kinh nghiệm, cách mạng, tư tưởng, tinh thần, hạnh phúc, cuộc sống, lịch sử, tình yêu, niềm vui,...
- Danh từ riêng: Dùng chỉ các tên riêng của người hoặc địa danh.
   Ví dụ: 
   - Chỉ tên người: Phạm Đức Hải Huy, Thu Hiền,...
   - Từ dùng với ý nghĩa đặc biệt: Người, Bác Hồ,..
- Danh từ có thể kết hợp với các từ chỉ số lượng ở phía trước, các từ chỉ định ở phía sau và một số từ ngữ khác để lập thành cụm danh từ. Cụm danh từ là loại tổ hợp từ do danh từ và một số từ ngữ phụ thuộc nó tạo thành.
* Động từ: Động từ là những từ chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật.
Ví dụ : - Đi, chạy ,nhảy,... (động từ chỉ hoạt động )
                       - Vui, buồn, giận, ... (động từ chỉ trạng thái )
 Khi dạy những bài về động từ, tôi lưu ý học sinh mấy lưu ý về động từ chỉ trạng thái:
 - Đặc điểm ngữ pháp nổi bật nhất của động từ chỉ trạng thái là:
           + Động từ chỉ hoạt động có thể kết hợp với từ xong ở phía sau  (ăn xong, đọc xong,)
          + Động từ chỉ trạng thái không kết hợp với xong ở phía sau (không nói: còn xong, hết xong, kính trọng xong,).
- Trong Tiếng Việt có một số loại động từ chỉ trạn

Tài liệu đính kèm:

  • docxbao_cao_sang_kien_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_giang.docx