SKKN Nâng cao hiệu quả dạy tập làm văn cho học sinh lớp 4

SKKN Nâng cao hiệu quả dạy tập làm văn cho học sinh lớp 4

Dạy học tiếng Việt trong trường Tiểu học nói chung và dạy phân môn Tập làm văn nói riêng là một vấn đề vô cùng quan trọng. Nhất là Tập làm văn là môn tổng hợp cao nhất của tất cả các phân môn Tiếng Việt khác ở bậc Tiểu học: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu. Mục tiêu của cả người dạy và người học là “ có cảm xúc” trong mỗi tiết học văn. Người giáo viên giúp cho các em cảm nhận được cái hay cái đẹp trong các bài văn, bài thơ, cuộc sống xung quanh và thể hiện “cái đẹp” đó bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh. Song một thực tế mà chúng ta đều biết là hiện nay, trong các cấp học mà đặc biệt là bậc Tiểu học, phần lớn học sinh viết văn rất khô khan.

 Qua thực tế dạy môn Tập làm văn nhiều năm ở lớp 4, tôi nhận thấy bài viết của các em hầu như chỉ diễn đạt nội dung. Câu văn chỉ mang tính chất thông báo chứ chưa có hình ảnh, chưa có cảm xúc. Đây là điều tất nhiên, vì ở lứa tuổi này vốn sống và vốn kiến thức của các em còn hạn hẹp. Đứng trước thực tế đó, tôi rất băn khoăn và trăn trở: “ Làm thế nào để giúp các em yêu thích môn văn? Để giúp các em có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con người, của cảnh vật, thiên nhiên đất nước? Giúp các em có cơ hội bộc lộ cảm xúc của cá nhân, mở rộng tâm hồn và phát triển nhân cách cho các em?”.

Trả lời câu hỏi này, ngay từ đầu năm học nhận nhiệm vụ chủ nhiệm lớp 4A1 Trường Tiểu học Lê Tất Đắc. Tôi đã cố gắng dùng mọi khả năng và kinh nghiệm của mình để khơi dậy những tiềm năng văn học đang ẩn dấu trong mỗi học sinh. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi mạnh dạn trình bày một vài kinh nghiệm “ Nâng cao hiệu quả dạy Tập làm văn cho học sinh lớp 4”.

 

doc 18 trang thuychi01 13022
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Nâng cao hiệu quả dạy tập làm văn cho học sinh lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HOẰNG HÓA
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY TẬP LÀM VĂN 
CHO HỌC SINH LỚP 4
Người thực hiện: Vũ Thị Sự
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường TH Lê Tất Đắc
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Tiếng Việt
THANH HOÁ NĂM 2016
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
Trang
II. Đối tượng nghiên cứu:
III. Nhiệm vụ nghiên cứu:
V. Phương pháp nghiên cứu:
B. PHẦN NỘI DUNG
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
 Dạy học tiếng Việt trong trường Tiểu học nói chung và dạy phân môn Tập làm văn nói riêng là một vấn đề vô cùng quan trọng. Nhất là Tập làm văn là môn tổng hợp cao nhất của tất cả các phân môn Tiếng Việt khác ở bậc Tiểu học: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu. Mục tiêu của cả người dạy và người học là “ có cảm xúc” trong mỗi tiết học văn. Người giáo viên giúp cho các em cảm nhận được cái hay cái đẹp trong các bài văn, bài thơ, cuộc sống xung quanh và thể hiện “cái đẹp” đó bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh. Song một thực tế mà chúng ta đều biết là hiện nay, trong các cấp học mà đặc biệt là bậc Tiểu học, phần lớn học sinh viết văn rất khô khan.
 Qua thực tế dạy môn Tập làm văn nhiều năm ở lớp 4, tôi nhận thấy bài viết của các em hầu như chỉ diễn đạt nội dung. Câu văn chỉ mang tính chất thông báo chứ chưa có hình ảnh, chưa có cảm xúc. Đây là điều tất nhiên, vì ở lứa tuổi này vốn sống và vốn kiến thức của các em còn hạn hẹp. Đứng trước thực tế đó, tôi rất băn khoăn và trăn trở: “ Làm thế nào để giúp các em yêu thích môn văn? Để giúp các em có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con người, của cảnh vật, thiên nhiên đất nước? Giúp các em có cơ hội bộc lộ cảm xúc của cá nhân, mở rộng tâm hồn và phát triển nhân cách cho các em?”.
Trả lời câu hỏi này, ngay từ đầu năm học nhận nhiệm vụ chủ nhiệm lớp 4A1 Trường Tiểu học Lê Tất Đắc. Tôi đã cố gắng dùng mọi khả năng và kinh nghiệm của mình để khơi dậy những tiềm năng văn học đang ẩn dấu trong mỗi học sinh. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi mạnh dạn trình bày một vài kinh nghiệm “ Nâng cao hiệu quả dạy Tập làm văn cho học sinh lớp 4”.
II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
1. Học sinh lớp 4A1- Trường Tiểu học Lê Tất Đăc.
2. Chương trình phân môn Tập làm văn lớp 4.
	III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
 Để đạt được mục đích nghiên cứu, tôi xác định mình phải giải quyết các nhiệm vụ sau:
1. Tìm hiểu cơ sở lý luận của giờ Tập làm văn.
2. Tìm hiểu thực trạng của việc dạy phân môn Tập làm văn.
3. Tổ chức dạy thực nghiệm .
4. Một số giải pháp đề xuất để nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
1. Thu thập tài liệu, đọc sách và các tài liệu tham khảo.
2. Điều tra khảo sát thực tế.
3. Sử dụng các phương pháp khác: Phân tích ngôn ngữ, so sánh đối chiếu, thống kê và xử lý các số liệu thu được.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. SƠ LƯỢC CƠ SỞ LÍ LUẬN.
- Xuất phát từ mục đích, mục tiêu giáo dục cấp học, lớp học.
- Xuất phát từ vị trí, nhiệm vụ và yêu cầu của phân môn Tập làm văn.
- Xuất phát từ một số tồn tại và vướng mắc trong quá trình dạy Tập làm văn của cả giáo viên và học sinh.
- Xuất phát từ các chuyên đề, thực tế dự giờ, thăm lớp của đồng nghiệp.
- Xuất phát từ kinh nghiệm trực tiếp giảng dạy.
II. THỰC TRẠNG LÀM VĂN CỦA HỌC SINH LỚP 4 HIỆN NAY.
- Đầu năm học 2015-2016 tôi được nhà trường phân công dạy lớp 4. Qua quá trình giảng dạy và qua việc dự giờ, để học tập chuyên môn ở các đồng nghiệp. Tôi nhận thấy việc làm văn ở lớp 4 còn gặp một số khó khăn:
1.Về phía giáo viên .
- Chưa thực sự khai thác hết thế mạnh của các phương pháp dạy học tích cực và những kĩ thuật dạy học mới vào bài dạy trong từng bài học. 
2. Về phía học sinh. 
- Do khả năng tư duy của học sinh Tiểu học còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản trực quan nên việc làm văn của học sinh còn gặp nhiều khó khăn. Chất lượng cảm thụ văn học của học sinh chưa đồng đều dẫn đến chất lượng làm văn chưa cao.
- Vốn sống và vốn kiến thức văn của học sinh chúng tôi còn hạn chế .Đa số các em l chưa có ý thức mua sách báo để đọc, để tìm hiểu . Hơn nữa không ít em chưa có thói quen đọc sách, ham đọc sách vì thế các em ít có sự say mê với các tác phẩm văn học.
- Chính vì những khó khăn và hạn chế nêu trên nên chất lượng làm văn của học sinh lớp tôi chưa đạt kết quả như mong muốn. 
Qua khảo sát chất lượng làm văn của học sinh lớp tôi đầu năm học 2015- 2016 tôi đã thu được kết quả như sau với tổng số học sinh của lớp là 42 học sinh:
Kết quả khảo sát đầu năm học 2015 – 2016
Sĩ số
Bài viết hay có cảm xúc, giàu hình ảnh
Bài viết đúng thể loại, đủ ý, diễn đạt trôi chảy
Bài viết đúng thể loại, ghèo hình ảnh
Bài viết chưa đủ ý, diễn đạt
vụng, nghèo hình ảnh
42 em
Kết quả đầu năm
2 em=4,7%
12 em=28,5%
20 em=47,6%
8 em=19,2%
Đây cũng chính là một thực trạng khiến tôi luôn băn khoăn, trăn trở về việc làm văn của học sinh lớp 4 và của cả những năm học trước. Trước thực tế ấy, tôi đã luôn suy nghĩ tìm tòi và tham khảo: Làm thế nào để nâng cao được chất lượng làm văn cho học sinh lớp 4? Cuối cùng tôi cũng tìm được một số biện pháp để nâng cao chất lượng làm văn cho học sinh lớp 4. Tôi đã áp dụng những biện pháp này vào việc dạy làm văn cho học sinh lớp 4A1 trường Tiểu học Lê Tất Đắc trong năm học 2015- 2016 và tiếp tục đưa vào áp dụng trong những năm học tiếp theo. Thật đáng mừng qua một năm áp dụng chất lượng làm văn của học sinh lớp tôi đã được nâng cao một cách rõ rệt. Tôi xin mạnh dạn chia sẻ cùng các bạn đồng nghiệp .
III. CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY TẬP LÀM VĂN CHO HỌC SINH. 
Để nâng cao chất lượng làm văn cho học sinh lớp 4 đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì và bền bỉ vì đây là một công việc rất khó khăn. Tôi đã tiến hành những biện pháp sau nhằm nâng cao chất lượng làm văn . 
 1. Cung cấp các kiến thức văn học.
Từ ngữ là nhân tố cơ bản để xây dựng câu văn, đoạn văn, bài văn. Nó có một vị trí và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Hiểu, sử dụng đúng, sử dụng hay mới có thể diễn đạt và diễn đạt tốt nội dung, ý kiến của mình. Vậy mà vốn từ của các em rất ít. Điều này khiến tôi suy nghĩ rất nhiều. Những kiến thức lơ mơ, thiếu vốn từ làm thế nào có thể viết văn hay được. Bằng mọi cách phải bổ sung vào vốn từ ít ỏi của các em bằng sự phong phú của tiếng Việt. Cách làm nhanh nhất là thông qua môn Tập đọc. Tôi cho các em nêu và tập giải nghĩa tất cả những từ ngữ mà các em chưa hiểu, sau đó tôi chốt lại một từ yêu cầu các em ghi vào “ sổ từ”, tập đặt câu để hiểu chắc chắn, biến từ đó thực sự là vốn từ của mình.
 Ví dụ: Ở bài Đường đi Sa Pa. (Tiếng Việt lớp 4 tập 2 trang 102), tôi yêu cầu các em sau giờ học phải bổ sung vào vốn từ của mình các từ ngữ và hình ảnh.
- Trắng xóa tựa mây trời,
- Lướt thướt liễu rủ.
- Bồng bềnh huyền ảo.
Bài Con chuồn chuồn nước ( Tiếng Việt lớp 4 tập 2 trang 127).
- Từ: Long lanh, nhỏ xíu, mênh mông, thung thăng, cao vút.
- Đặt câu: - Thân đa cao vút, đỉnh chót vót giữa trời xanh.
 - Trời xuân trải sắc xanh trên biển lúa mênh mông.
Vậy qua môn Tập đọc học sinh tích lũy được “ vốn liếng” từ không hề nhỏ. Ngoài ra cuối mỗi tiết Tập đọc tôi thường cho học sinh tìm những câu văn hay trong bài, những câu văn mang tính nghệ thuật cao để các em đưa vào văn bản của mình. 
Ví dụ: Cá thu Biển Đông như đoàn thoi
 Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
 ( Đoàn thuyền đánh cá)
Con đen huyền, con trắng tuyết, con đỏ son, chân dịu dàng chùm đuôi cong lướt thướt liễu rủ.
 ( Đường đi Sa Pa)
2. Luyện điền từ, chọn từ.
 Song song với việc tích lũy vốn từ qua môn Tập đọc. Trong tiết luyện viết đoạn văn tôi thường xuyên cho các em củng cố về từ ngữ qua dạng bài luyện từ, từ dễ, từ khó.
* Điền từ để câu văn giàu hình ảnh:
- Nắng ban mai (hồng tươi) nhuốm chan hoà trên từng sắc lá.
- Hoa hồng đẹp (lộng lẫy) cánh hoa đỏ (thắm), mịn (như nhung).
- Mùa hè đến, hàng trăm, hàng nghìn cánh phượng như đang (phả lửa) lên trời.
- Bầu trời xanh (thăm thẳm), mây trắng (bồng bềnh) trôi.
- Cây cao (cao vút).
- Gió thổi (rì rào) trong đám lá.
- Mào của trống ta y hệt một bông hoa đỏ (chon chót)
- Những quả cam (vàng óng), da (căng mọng) như mời gọi người đến thưởng thức.
- Đôi mắt (long lanh như thuỷ tinh), lúc nào cũng (liến láu) nhìn quanh.
Việc chọn từ điền vào câu văn, giáo viên nên để học sinh thoải mái, không ép hay áp đặt. Sau mỗi lần để học sinh chọn điền tôi cũng để học sinh khác bình luận, nhận xét xem câu nào hay hơn. Các em học chưa tốt môn văn có thể học hỏi được nhiều từ, câu của các bạn giỏi. Bài tập này đa dạng, dễ cho ví dụ. Giáo viên nên khuyến khích và động viên làm tốt. Nếu với những câu quá khó giáo viên có thể gợi ý.
Với dạng bài này tôi cho các em luyện tập ở các tiết “Luyện tập xây dựng đoạn văn”, tiết “Hướng dẫn học” giúp các em lựa chọn các câu văn hay để viết đoạn văn, vừa khiến cho các em thoải mái trong giờ học, vừa nhớ lâu.
3. Dạy viết câu có kết cấu đơn giản.
Tháp cao nào cũng phải xây dựng từ dưới mặt đất. Để viết được những câu văn mang tính nghệ thuật trong kết cấu, trước tiên học sinh cần nắm được câu trong dạng đơn giản nhất, đó là những dạng câu học sinh đã được học: Ai làm gì? Ai thế nào? Ai là gì?... câu khiến, câu hỏi, câu cảm.
Dạy những loại câu này đối với học sinh không khó. Ta chỉ cần hướng dẫn tốt qua tiết Luyện từ và câu. Xác định các yêu cầu cơ bản học sinh cần nắm được, và thường xuyên củng cố thật nhiều.
Câu phải có hai bộ phận chính: Chủ ngữ và vị ngữ.
- Chủ ngữ trả lời câu hỏi: Ai? Cái gì? Con gì? Vật gì?
- Vị ngữ trả lời câu hỏi: Làm gì? Như thế nào? Là gì?
Đi đôi với việc dạy lý thuyết tôi cho học sinh luyện viết câu, phân tích thật nhiều, lấy ngay các từ học sinh tích luỹ được trong tiết Tập đọc để đặt câu:
 Ví dụ: Sau khi học xong bài Tập đọc “ Sầu riêng” Tiếng việt 4 tập 2:
+ Học sinh cần tích luỹ từ: ngọt ngào, quyến rũ, quyện.
+ Đặt câu và phân tích:
 Dạ hượng / ngọt ngào lan toả khắp khu vườn
 CN VN
 Vườn hoa / quyến rũ lũ ong bướm rập rờn bay đến
 CN VN
 Mít chín / thơm nồng, ngọt sắc như vị của trứng gà quyện với mật ong già 
 CN VN
 Cứ như vậy, luyện tập nhiều sẽ giúp học sinh có một kiến thức vững chắc về câu.
4. Dạy viết một vài dạng câu có kết cấu phức tạp.
Nếu một bài văn chỉ viết bằng một loại câu thì sẽ gây ra đơn điệu, không hấp dẫn người đọc. Bởi vậy, ta cần trang bị những kiến thức nâng cao về câu cho những “mầm non văn học”. Tuy nhiên ta không bắt buộc học sinh tiếp thu những gì quá phức tạp không phù hợp với tâm lí lứa tuổi. Một số dạng câu có thể dạy là:
- Câu có trạng ngữ.
- Câu có nhiều chủ ngữ, nhiều vị ngữ.
a. Với câu có trạng ngữ.
Đâu tiên tôi nên cho học sinh tiếp xúc với các loại câu này, tập tìm chủ ngữ, vị ngữ.
Trên vòm cây, chim hót líu lo.
Học sinh rất dễ nhầm lẫn “Trên vòm cây” là chủ ngữ nếu chưa tiếp xúc với loại câu này. Bởi vậy, tôi cho học sinh đặt câu hỏi:
+ Con gì hót líu lo? ( con“ chim” vậy “ chim” là chủ ngữ).
+ Con chim làm gì? (“hót líu lo” vậy “hót líu lo” là vị ngữ).
Vậy “Trên vòm cây” là bộ phận gì? học sinh sẽ rút ra đó là bộ phận phụ nói rõ chim hót ở đâu.
Tương tự như vậy tôi hướng dẫn học sinh hiểu về trạng ngữ chỉ thời gian, nguyên nhân, mục đích, nơi chốn để học sinh có thể đặt câu: 
Ví dụ:- Ngoài vườn, khóm hồng toả hương thơm ngào ngạt.
- Để chăm sóc con, chị gà cần mẫn bới đất tìm thức ăn. 
- Từ trong kẽ lá, những nụ hồng lấp ló trông thật xinh.
b. Câu có nhiều chủ, vị.
Tôi hướng dẫn học sinh thay thế nhiều câu thành một câu.
Ví dụ: Cánh hoa đỏ thắm, mịn như nhung.
Bằng cách làm này, bài văn sẽ không bị lặp lại từ và bớt đi sự cứng nhắc khô khan kể lể. Học sinh viết câu văn hấp dẫn hơn.
- Hoa lan, hoa cúc, hoa huệ đua nhau khoe sắc.
- Đóa hồng hồn nhiên, rực rỡ căng đầy sức sống.
- Chú mèo cuộn mình, lăn tròn như quả bóng.
- Chiếc cặp tuy giản dị, mộc mạc nhưng rất tiện lợi.
Sau khi được tập luyện nhiều, học sinh có thói quen kết hợp ý để diễn đạt. Bài văn không rời rạc, khô khan bởi chỉ được viết từ các câu đơn. 
5. Dạy các biện pháp nghệ thuật.
Muốn bài văn hay thì trong bài văn không thể thiếu tính nghệ thuật. Học sinh lớp 4 kiến thức về lĩnh vực này còn hiểu lơ mơ, hời hợt. Nếu giáo viên không dạy, học sinh khó mà nắm bắt được. Để đưa nghệ thuật vào trong văn có rất nhiều biện pháp. Nhưng theo tôi, đối với học sinh ở lứa tuổi này, hai biện pháp nghệ thuật phù hợp nhất là so sánh và nhân hóa.
A. Biện pháp so sánh.
Tôi đã hướng dẫn học sinh tìm các câu có các biện pháp so sánh trong các bài Tập đọc đã học. 
 Ví dụ: 
- Bông hướng dương như vầng mặt trời vãi tung toé những tia nắng vàng rực rỡ.
- Hoa cẩm chướng là ngôi sao màu trên vòm trời xanh lục giữa vườn.
- Từ xa nhìn lại, cây gạo sừng sững như một tháp đèn khổng lồ. Hàng ngàn bông hoa là hàng ngàn ngọn lửa hồng tươi. Hàng ngàn búp nõn là hàng ngàn ngọn nến trong xanh.
- Gió đưa hương thơm ngát như hương cau, hương bưởi tỏa khắp khu vườn .
- Cánh hoa nhỏ như vảy cá, hao hao giống cánh sen con.
- Những tán hoa lớn xòe ra như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau.
- Với những cánh tay quều quào xoè rộng, nó như con quái vật già nua cau có và khinh khỉnh giữa đám bạch dương tươi cười.
- Dáng mọc của lộc rất lạ, thẳng đứng trên cành, như thể đêm qua có ai đó thả hàng vạn búp lá nhỏ xíu từ trên trời xanh biếc chi chít cành và xoay thành những tán tròn quanh thân cây. 
Với những câu văn này tôi sẽ giới thiệu để các em nắm chắc được biện pháp so sánh bằng cách sau:
Ví dụ: Câu “Bông hướng dương như vầng mặt trời vãi tung toé những tia nắng vàng rực rỡ”. Tôi phân tích cách sử dụng biện pháp so sánh, tác giả lấy hình ảnh mặt trời để tả bông hướng dương. 
 Để thấy được tính ưu việt của biện pháp nghệ thuật này tôi lấy một câu khác để mô tả bông hướng dương.
 “Bông hướng dương rất to, màu vàng, có rất nhiều cánh nhỏ”. Và yêu cầu học sinh nhận xét xem câu nào hay hơn. Dĩ nhiên là câu thứ nhất, 100% học sinh được hỏi đều trả lời như vậy. “Hay hơn vì sao?”. Các em trả lời: “Vì sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh”. Muốn các em vững vàng hơn về cách so sánh tôi lại đưa ra một câu văn nữa.
“Bông hướng dương như chiếc đĩa màu vàng”
 Yêu cầu học sinh nhận xét, so sánh với câu thứ nhất. Khi các em khẳng định câu thứ ba không hay bằng câu đầu, tôi đặt câu hỏi: 
“Tại sao cả hai câu đều sử dụng biện pháp so sánh mà câu đầu lại hay hơn?” và giải thích “ở câu thứ nhất, tác giả dùng hình ảnh mặt trời đang toả nắng” một hình ảnh đẹp, sinh động và rất độc đáo để so sánh vì vậy đã làm cho bông hướng dương tươi đẹp hẳn lên. Còn câu thứ ba so sánh với cái đĩa có đặc điểm giống bông hướng dương song đơn điệu và giảm đi giá trị vẻ đẹp của bông hoa. Từ đó giúp học sinh hình thành sự hiểu biết. Khi so sánh muốn làm cho một sự vật đẹp hơn phải so sánh với sự vật khác giống nhưng đẹp hơn, có những nét độc đáo, nổi bật hơn và ngược lại.
Việc này học sinh phải được luyện tập thường xuyên, vì nếu không luyện tập thì các kiến thức đó cũng mai một dần. Sau đây là một vài dạng bài tập mà tôi đã xây dựng trong tiết “Luyện tập xây dựng đoạn văn”:
Nhận xét những hình ảnh so sánh trong đoạn văn, câu văn.
 So sánh như vậy giúp các em cảm nhận được điều gì mới mẻ của sự vật?
Thân dừa bạc phếch tháng năm.
Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao.
Đêm hè, hoa nở cùng sao.
Tàu dừa - chiếc lược chải vào mây xanh.
Ôi chao! Chú chuồn chuồn nước mới đẹp làm sao! Màu vàng trên lưng chú lấp lánh. Bốn cái cánh mỏng như giấy bóng. Cái đầu tròn và hai con mắt long lanh như thủy tinh. Thân chú nhỏ và thon vàng như màu vàng của nắng mùa thu.
Dạng bài này không khó đối với học sinh nhưng không phải học sinh nào cũng cảm nhận được cái đẹp cái mới mẻ trong đoạn văn, đa phần các em chỉ nhận ra hình ảnh so sánh.
b. Điền từ thích hợp vào chỗ trống tạo thành câu văn có hình ảnh so sánh gợi tả.
- Nhìn từ xa, cây bàng một chiếc ô khổng lồ lợp bằng lá xanh tươi.
- Những trái chuối cong cong vầng trăng khuyết.
- Những chiếc gai những chú lính đứng trang nghiêm gác cho nàng công chúa hoa hồng.
Ở dạng bài này hướng dẫn các em chọn các từ sau để điền: như, giống như, tựa, tựa như, tựa hồ, như là, giống hệt.
c. Hãy thêm vế câu để được hình ảnh so sánh thích hợp vào mỗi chỗ trống để mỗi dòng dưới trở thành câu văn có ý nghĩa mới mẻ, sinh động.
- Lá cọ tròn xoè ra nhiều phiến nhọn dài, trông xa như (bàn tay vẫy hoặc một mặt trời mới mọc)
- Hoa bỏng treo lủng lẳng từng chùm trên cây như (những chiếc đèn lồng nhỏ xíu hoặc chùm quả).
- Ngựa lao nhanh trên đường đua tựa như (những mũi tên bay trong gió hoặc những viên đạn rời khỏi lòng súng).
- Đôi cánh mẹ gà xoè ra như (hai mái nhà hoặc chiếc ô dù vững chãi) che chở cho các chú gà con.
- Ánh mắt dịu hiền của mẹ là (ngọn lửa sưởi ấm cuộc đời con hoặc ngôi sao dẫn đường cho con đi lên phía trước).
- Nụ hồng trông giống hệt những (chiếc tháp) bé bé, xinh xinh.
Với dạng bài này tôi giúp học sinh thường xuyên luyện tập chọn từ điền thoải mái, không áp đặt. Sau đó nhận xét tìm ra những từ ngữ hay nhất, khen học sinh chọn từ để cho học sinh hứng thú học văn.
d. Tập so sánh.
Nâng cao hơn, tôi yêu cầu các em tìm hình ảnh so sánh và tự diễn đạt câu. Tôi đưa ra những sự vật ví dụ như: 
- Hoa thược dược, hoa cẩm chướng, hoa loa kèn, hoa xoan.
- Con đường, bãi cỏ, đồng lúa chín.
- Tàu dừa, vầng trăng (tròn, khuyết), mặt hồ.
 Loại bài tập này khó hơn, nó đòi hỏi học sinh có trí tưởng tượng phong phú lẫn kĩ năng diễn đạt mới có thể chọn ra những câu văn hay. Bởi vậy, tôi thường đưa ra những câu tham khảo khi học sinh đã trình bày hết ý kiến mà vẫn chưa có được những câu văn có thể tích luỹ được để làm tư liệu. Ví dụ:
- Hoa xoan bồng bềnh như một chùm mây tim tím ngủ quên trên cành.
- Bãi cỏ như một tấm thảm khổng lồ xanh mơn mởn.
- Đồng lúa chín y hệt một biển vàng.
- Mặt hồ phẳng lặng như một tấm gương lớn in sắc mây, trời.
- v.v.
Cứ với cách làm như vậy thì trí tưởng tượng của học sinh sẽ ngày một phong phú, khả năng diễn đạt câu văn cũng ngày càng một nâng cao. Trong các bài viết, đưa biện pháp mô tả vào để so sánh một việc làm dễ dàng đối với học sinh.
B. Biện pháp nhân hóa.
Đây là biện pháp quen thuộc với các em. Các em được tiếp xúc từ khi còn trong vòng tay bế bồng của mẹ qua những lời ru cái cò, cái ốc. Rồi những câu chuyện cổ tích của bà, của cô giáo, các em đã được tiếp xúc với cả một thế giới phong phú của nghệ thuật nhân hoá. Không cần phải dạy nhiều, ta chỉ cần giới thiệu học sinh sẽ nhanh chóng nắm được ngay.
Để học sinh thấy được sự ưu việt của biện pháp nghệ thuật này, tôi đã cho các em so sánh các cặp ví dụ cụ thể:
 1. Thân chuối màu đen khô ráp vì nắng gió.
 2. Chị chuối thật giản dị trong bộ áo đen khô ráp vì nắng gió.
 1. Gà Mái Mơ nuôi con rất khéo.
 2. Chị gà Mái Mơ dịu hiền chăm sóc con thật khéo léo.
 1. Những con gà chạy lung tung khắp nơi.
 2. Những bé gà hiếu động tung tăng chạy khắp nơi.
 1. Gốc hồng màu đen xám.
 2. Gốc hồng như một người mẹ già đi trong bộ áo xám đen nhường sắc non xanh cho hoa, cho lá.
 1. Bông hồng nhung vươn cao.
 2. Cô hồng nhung kiêu hãnh vươn cao, hình như nó rất tự hào với sắc đẹp của mình.
 1. Nắng chiếu đầy vòm lá.
 2. Những tia nắng tinh nghịch đùa trên vòm lá.
 v.v .
 Không khó khăn cho học sinh trong việc lựa chọn, tất cả đều có chung một câu trả lời: Câu văn thứ hai hay hơn câu văn thứ nhất.
 “ Nó hay hơn vì sao?”. Nhiều học sinh lúng túng trước câu hỏi này. Tôi nghĩ giáo viên cần lí giải: Câu thứ 2 hay hơn vì đã sử dụng biện pháp nhân hóa: Chị Mái Mơ, chị chuối, bé gà, cô hồng nhung trở nên sinh động, đáng yêu vì đã có những suy nghĩ, tính cách của con người.
 Sau khi các em nắm bắt được tác dụng của biện pháp này, tôi giới thiệu cho các em cách nhân hoá sự vật.
a. Gọi tên sự vật.
Chúng ta có thể gọi tên sự vật như khi gọi tên người: Cô trăng, chị gió, bác mặt trời, anh gà trống, chị Mái Mơ, bác mèo mướp, chị chuối tiêu.
b. Gắn suy nghĩ, tính cách, hoạt động của người vào sự vật.
- Hoa quỳnh trầm tư.
- Đào bích cười tươi roi rói.
- Phong lan yểu điệu.
- Chị Mái Mơ hiền lành.
- Những bé gà ngơ ngác.
- Nắng nhảy nhót

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_nang_cao_hieu_qua_day_tap_lam_van_cho_hoc_sinh_lop_4.doc