SKKN Vận dụng tích hợp kiến thức lịch sử, địa lý trong giờ đọc hiểu tác phẩm văn học lớp 12 (chương trình chuẩn)

SKKN Vận dụng tích hợp kiến thức lịch sử, địa lý trong giờ đọc hiểu tác phẩm văn học lớp 12 (chương trình chuẩn)

 Dạy học tích hợp đã trở thành một xu hướng của giáo dục hiện đại nhằm tận dụng tối đa mối quan hệ giữa các môn học góp phần giáo dục toàn diện học sinh. Vận dụng hợp lý quan điểm tích hợp trong dạy học sẽ giúp phát triển các năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp và học tập cũng có ý nghĩa hơn so với việc các môn họcđược thực hiện riêng rẽ. Đối với môn Ngữ Văn – một môn học xã hội có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống ( điều này xuất phát từ chính bản chất của văn chương luôn gắn liền với đời sống với nhiều lĩnh vự khác nhau được phản ánh trong tác phẩm) thì việc dạy học tích hợp là vô cùng cần thiết không chỉ để giải mã được các hình tượng nghệ thuật mà ở một khía cạnh khác còn từ văn chương để hiểu hơn nhiều mặt của đời sống. Qua đó, người dạy văn, học văn yêu môn học, góp phần lấy lại sức hấp dẫn của môn học .

 Thực tế cũng cho thấy, do nhiều lý do khác nhau mà việc dạy tích hợp không chỉ ở môn Ngữ Văn mà còn nhiều môn học khác còn nhiều hạn chế. Từ việc tìm đơn vị bài học để tích hợp, cơ sở vật chất thiết bị phục vụ việc dạy tích hợp, sự hợp tác của học sinh và cả tâm lý ngại khó, ngại khổ của người dạy. Điều này nếu không khắc phục về lâu dài sẽ khiến việc áp dụng dạy học tích hợp trở thành hình thức.

 Là một giáo viên dạy Ngữ văn, hiện đã là cán bộ quản lý ở một đơn vị trường học, tôi thật tâm đắc với xu hướng dạy học hiện đại này. Từ góc nhìn của người dạy văn và của người quản lý, muốn qua bài viết này đề xuất phương pháp để dạy học tích hợp ở môn học này có hiệu quả.

 Trong khuôn khổ của bài viết này tôi chỉ trình bày những suy nghĩ của mình đúc rút một số kinh nghiệm bước đầu trong việc triển khai dạy học tích hợp ở môn ngữ văn và vận dụng tích hợp kiến thức địa lý, lịch sử trong giờ đọc hiểu tác phẩm văn học trong chương trình ngữ văn lớp 12 ( Chương trình chuẩn).

 

doc 22 trang thuychi01 15342
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Vận dụng tích hợp kiến thức lịch sử, địa lý trong giờ đọc hiểu tác phẩm văn học lớp 12 (chương trình chuẩn)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
 A. Mở đầu 
1.Lí do chọn đề tài .....................................................................................Trang 1
2.Mục đích nghiên cứu.............................................................................................1
3.Đối tượng nghiên cứu............................................................................................2
4.Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................2
 B. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
I. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm..............................................................3
1.1. Vài nét sơ bộ về lý luận dạy học tích hợp................................................... .....3
1.2. Dạy tác phẩm văn học trong nhà trường và một số đặc điểm tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn 12 liên quan đến vấn đề cần giải quyết ...........................4
II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.............................5
III. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề..................................................7
3.1. Ở vị trí người trực tiếp giảng dạy - Các giải pháp đã vận dụng .......................7
3.1.1. Khai thác hiệu quả phần tiểu dẫn và chú thích trong sách giáo khoa ........... 7
3.1.2. Sử dụng bản đồ ..............................................................................................8
3.1.3. Sử dụng băng hình................................................................................ .... ..10
 3.1.4. Kể chuyện địa lý, lịch sử ...................................................................... ...... 11
 3.1.5. Hướng dẫn học sinh vận dụng những hiểu biết, vốn sống thực tế của bản thân .......13
 3.2. Ở vị trí nhà quản lý giáo dục - Một số giải pháp để dạy học tích hợp có hiệu quả...... 13
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.................................................................14
4.1. Hiệu quả trong giảng dạy bộ môn................................................................... 14
4.2. Hiệu quả trong công tác chỉ đạo chuyên môn..................................................15
C. Kết luận và kiến nghị ...................................................................... ............16
D. Tài liệu tham khảo ......................................................................................... 17 
 A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
 Dạy học tích hợp đã trở thành một xu hướng của giáo dục hiện đại nhằm tận dụng tối đa mối quan hệ giữa các môn học góp phần giáo dục toàn diện học sinh. Vận dụng hợp lý quan điểm tích hợp trong dạy học sẽ giúp phát triển các năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp và học tập cũng có ý nghĩa hơn so với việc các môn họcđược thực hiện riêng rẽ. Đối với môn Ngữ Văn – một môn học xã hội có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống ( điều này xuất phát từ chính bản chất của văn chương luôn gắn liền với đời sống với nhiều lĩnh vự khác nhau được phản ánh trong tác phẩm) thì việc dạy học tích hợp là vô cùng cần thiết không chỉ để giải mã được các hình tượng nghệ thuật mà ở một khía cạnh khác còn từ văn chương để hiểu hơn nhiều mặt của đời sống. Qua đó, người dạy văn, học văn yêu môn học, góp phần lấy lại sức hấp dẫn của môn học .
 Thực tế cũng cho thấy, do nhiều lý do khác nhau mà việc dạy tích hợp không chỉ ở môn Ngữ Văn mà còn nhiều môn học khác còn nhiều hạn chế. Từ việc tìm đơn vị bài học để tích hợp, cơ sở vật chất thiết bị phục vụ việc dạy tích hợp, sự hợp tác của học sinh và cả tâm lý ngại khó, ngại khổ của người dạy. Điều này nếu không khắc phục về lâu dài sẽ khiến việc áp dụng dạy học tích hợp trở thành hình thức.
 Là một giáo viên dạy Ngữ văn, hiện đã là cán bộ quản lý ở một đơn vị trường học, tôi thật tâm đắc với xu hướng dạy học hiện đại này. Từ góc nhìn của người dạy văn và của người quản lý, muốn qua bài viết này đề xuất phương pháp để dạy học tích hợp ở môn học này có hiệu quả.
 Trong khuôn khổ của bài viết này tôi chỉ trình bày những suy nghĩ của mình đúc rút một số kinh nghiệm bước đầu trong việc triển khai dạy học tích hợp ở môn ngữ văn và vận dụng tích hợp kiến thức địa lý, lịch sử trong giờ đọc hiểu tác phẩm văn học trong chương trình ngữ văn lớp 12 ( Chương trình chuẩn).
 2. Mục đích nghiên cứu
Qua bài viết này, từ việc triển khai dạy học tích hợp ở môn ngữ văn và vận dụng tích hợp kiến thức địa lý, lịch sử trong giờ đọc hiểu tác phẩm văn học trong chương trình ngữ văn lớp 12, để:
 - Đúc rút một số kinh nghiệm giảng dạy của bản thân trong dạy học tích hợp.
 - Tìm một phương pháp thích hợp khi tích hợp các kiến thức địa lý và lịch sử vào bài đọc hiểu tác phẩm văn học.
 - Góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn hiện nay.
3.Đối tượng nghiên cứu
 Từ thực tế giảng dạy và quản lý chuyên môn tại trường THPT, áp dụng dạy học tích hợp nói chung trong bộ môn Ngữ văn và đúc rút kinh nghiệm bước đầu vận dụng kiến thức lịch sử, địa lý trong bài gảng ở một số tác phẩm văn học trong chương trình lớp 12. 
4.Phương pháp nghiên cứu
 - Nghiên cứu tài liệu về lý luận dạy học tích hợp, về kinh nghiệm trong triển khai dạy học tích hợp trong nhà trường nói chung và môn Ngữ văn nói riêng. Đây là cơ sở quan trọng để chỉ đạo triển khai dạy học tích hợp trong nhà trường.
- Nghiên cứu qua bài giảng thực tế của bản thân và đồng nghiệp. Đây sẽ là cơ sở thực tiễn cho việc đúc rút kinh nghiệm. Từ thực tế triển khai giáo án, thực tế kết quả giảng dạy trên lớp với đối tượng học sinh cụ thể, tác giả đã tiến hành phân tích, so sánh để tìm ra kinh nghiệm thực tiễn trong qua trình quản lý và giảng dạy tiếp theo. 
 - Tổ chức khảo sát, lấy ý kiến đồng nghiệp và học sinh để có kết luận về sự hợp tác của thầy và trò, hiệu ứng của phương pháp dạy học với bộ môn.
 B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
1.1. Vài nét sơ bộ về lý luận dạy học tích hợp 
 Theo Từ điển Tiếng Việt: “Tích hợp là sự kết hợp những hoạt động, chương trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối chức năng. Tích hợp có nghĩa là sự thống nhất, sự hòa hợp, sự kết hợp”. Theo Từ điển Giáo dục học: “Tích hợp là hành động liên kết các đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau trong cùng một kế hoạch dạy học”.
 Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại . Ở Việt Nam,  từ năm 2002 Chương trình THPT môn Ngữ văn  do Bộ GD&ĐT dự thảo đã ghi rõ: “Lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung chương trình biên soạn SGK và lựa chọn các phương pháp giảng dạy.” Bài toán đang đặt ra là phải tiếp cận nghiên cứu và vận dụng dạy học tích hợp vào dạy học Ngữ văn ở THPT nhằm hình thành và phát triển năng lực cho HS một cách có hiệu quả hơn góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục và đào tạo của bộ môn. Việc vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy học Ngữ văn ở trường THPT chẳng những dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được thể hiện trong các văn bản Văn học mà còn xuất phát từ đòi hỏi thực tế là cần phải khắc phục xoá bỏ lối dạy học theo kiểu khép kín tách biệt thế giới nhà trường và thế giới cuộc sống, tách biệt hình tượng văn học với hiện thực đời sống – nơi người nghệ sĩ đã thâm nhập, thu thập chất liệu và sáng tạo. Dạy học Ngữ văn theo định hướng tích hợp vẫn lấy quan điểm “lấy HS làm trung tâm” tích cực hoá hoạt động học tập của HS trong mọi mặt mọi khâu của quá trình dạy học; hướng dẫn học sinh HS trực tiếp tham gia vào giải quyết các vấn đề tình huống tích hợp; từ đó mà tự ý thức về cách thức chiếm lĩnh tri thức và hình thành kĩ năng. Giờ học Ngữ văn theo quan điểm tích hợp phải là một giờ học hoạt động phức hợp đòi hỏi sự tích hợp các kĩ năng năng lực liên môn để giải quyết nội dung tích hợp GV phải từ bỏ vai trò chức năng truyền thống là truyền đạt kiến thức có sẵn cho HS còn HS không thể duy trì thói quen nghe giảng ghi chép học thuộc rồi “làm văn” theo lối tái hiện sao chép làm thui chột dần năng lực tư duy trên văn bản khả năng tự đọc tự tìm tòi xử lí thông tin tổ chức các kiến thức một cách sáng tạo.
1.2. Dạy tác phẩm văn học trong nhà trường và đặc điểm tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn 12 liên quan đến vấn đề cần giải quyết
 Văn chương có đối tượng phản ánh là đời sống xã hội. Cuộc sống muôn màu luôn là cảm hứng bất tận cho người nghệ sĩ cảm hứng sáng tạo. Cho nên văn chương có tính chất của một cuốn bách khoa toàn thư về cuộc sống. Qua văn bản văn học, từ những hình tượng văn học, mỗi người đọc có thêm bao hiểu biết về thế giới cả theo chiều không gian địa lý và thời gian lịch sử. Hiệu quả ấy càng rõ khi chúng ta tích hợp được nhiều yếu tố để tiếp cận các tầng lớp ý nghĩa nghệ thuật của tác phẩm.
 Dạy học tác phẩm văn học là giúp học sinh nhận thức về thế giới qua hình tượng nghệ thuật; trở thành người thưởng thức cái hay cái đẹp của nghệ thuật. Dạy tác phẩm văn học trong nhà trường cũng không thể tách rời chức năng giáo dục tư tưởng tình cảm cho học sinh trong đó có lòng tự hào về đất nước, về truyền thống lịch sử cha ông. Muốn thế người dạy phải biết tích hợp các yếu tố này trong bài học.
 Người quản lý chuyên môn trong nhà trường hơn ai hết phải là người dẫn dắt định hướng cho giáo viên nắm chắc đặc điểm bộ môn, có biện pháp hiệu quả nhất để đạt được mục tiêu của quá trình dạy học. Trong đó có việc chiếm lĩnh các phương pháp dạy học hiện đại, dạy học tích cực. Dạy học tích hợp trong môn Ngữ văn là một xu thế dạy học hiện đại cần được áp dụng rộng rãi và có hiệu quả.
 Chương trình ngữ văn 12, phần đọc hiểu văn bản, gồm nhiều tác phẩm văn học được sáng tác từ 1945 đến hết thế kỷ XX với nhiều cảm hứng đẹp về đất nước, con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Đất nước trong sự phản ánh của văn học chưa bao giờ đẹp và phong phú đến vậy. Thời đại Hồ Chí minh với cuộc chiến tranh vệ quốc đã nâng tầm vóc đất nước. Mỗi tác phẩm trong chương trình lớp 12 lấp lánh một lát cắt của lịch sử dân tộc; một bức tranh về thiên nhiên đất nước gắn với những địa danh như đã quen, hay còn lạ; những câu chuyện về con người chiến đấu và dựng xây. Chất hiện thực, chất sử thi, chất anh hùng ca lãng mạn đã tạo nên đặc điểm riêng của những tác phẩm này. Cũng bởi sự gắn bó mật thiết của tác phẩm với đời sống hiện thực nên những kiến thức về lịch sử, địa lý được tích hợp qua bài giảng là vô cùng cần thiết để giải mã từng hình tượng nghệ thuật trong từng tác phẩm. Tây Bắc vừa xa xôi vừa trở nên gần gũi với mỗi người qua Tây tiến, Người là đò sông Đà, Tiếng hát con tàu, Vợ chồng A phủ. Việt Bắc, vùng đất chiến khu xưa sâu nặng nghĩa tình qua Việt bắc của Tố Hữu. Những dòng sông quê hương đẹp và đầy cá tính trong tình yêu của Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường. Câu chuyện về đất nước, về những con người biết hóa thân cho hình hài xứ sở tràn đầy cảm xúc vừa hào sảng, vừa trữ tình trong Đất nước ( Trích Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm). Một Tây Nguyên của đại ngàn hùng vĩ, một đồng bằng Nam bộ với những con người của thành đồng tổ quốc trong những năm tháng khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ được phản ánh chân thực qua Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi. 
 Những miền đất ấy các em học sinh có thể chưa một lần đặt chân, lịch sử dân tộc cũng đã thuộc về quá khứ. Dạy những tác phẩm này không thể không “đưa” học sinh về miền đất ấy, không thể không giúp học sinh “sống” trong không khí của trang sử ấy. Tích hợp tốt là phương pháp tối ưu để giải quyết những mục tiêu cụ thể của từng bài học.
II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Dạy học văn hiện nay đang đứng trước những thách thức rất lớn từ nhiều phía. Không chỉ có chuyện học sinh ngại học mà có cả việc thầy cô ngại dạy. Việc loay hoay tìm phương pháp dạy học tích cực cho bộ môn đang là bài toán tốn nhiều bút mực của các nhà nghiên cứu và của cả các thầy cô tâm huyết. Việc ngại đổi mới, đổi mới không hiệu quả, những phương pháp dạy học bảo thủ phản văn chương, phản giáo dục như đọc chép, nhìn chép đang đẩy người học xa dần với môn học vốn rất hấp dẫn này.
 Việc đưa tích hợp vào dạy học văn bản văn học trong nhà trường cũng là quan điểm dạy học đươc khẳng định trong chương trình Ngữ văn hiện hành. Với đặc trưng riêng của tác phẩm văn học, việc dạy học tích hợp có thể tiến hành từ nhiều phương diện khác nhau của tác phẩm. Trong đó, gần gũi và cần thiết để giúp học sinh hiểu kỹ, sâu về tác phẩm chính là những kiến thức về lịch sử, địa lý liên quan đến nội dung của tác phẩm. 
 Có một thực tế rằng, khi khai thác các hình tượng nghệ thuật liên quan đến địa lý, lịch sử trong các tác phẩm thường có những hạn chế:
+ Xã hội hóa, chính trị hóa các hình tượng nghệ thuật làm mất đi vẻ đẹp của hình tượng nghệ thuật, làm mất đi cái hay, cái đẹp của tác phẩm. 
+ Thiếu hiểu biết thực tế, ít kiến thức thực tiễn, ngại đọc thêm, không nghiên cứu kỹ văn bản nên trong giảng dạy thường bỏ qua nhiều chi tiết nghệ thuật mà nhà văn đã dành nhiều tâm huyết trong lao động nghệ thuật để xây dựng nên.
 + Cũng không tránh khỏi việc lý giải sai, thiếu chuẩn xác các chi tiết, các vấn đề địa lý, lịch sử trong tác phẩm. 
+ Có trường hợp, giáo viên hướng dẫn học sinh đọc hiểu tác phẩm nhưng tất cả chỉ tròn vo trong câu chữ của tác phẩm hoàn toàn tác rời với hoàn cảnh xã hội, lịch sử, địa lý mà tác phẩm liên quan. Vì thế học xong bài rồi, thấy hay lắm đẹp lắm nhưng chỉ tán dương, chém gió xuông thôi còn địa danh đó là đâu trên bản đồ đất nước, sự kiện ấy lúc nào trong tiến trình lịch sử dân tộc thì học sinh không trả lời được.
 + Chưa nói đến việc, từ những kiến thức được đọc hiểu trong bài học thể hiện được ý nghĩa giáo dục tư tưởng tình cảm cho học sinh thật tự nhiên về nhiều vấn đề trong cuộc sống mà giáo viên chưa làm được.
 Khi tích hợp các kiến thức địa lý, lịch sử vào bài giảng, giáo viên còn rất lúng túng. Các nội dung tích hợp hoặc còn hình thức hoặc không có tác dụng cho việc khai thác giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Cụ thể như: 
 + Người dạy đi tìm tích hợp ở đâu đó nhưng lại không sử dụng hiệu quả các yếu tố trong SGK như tiểu dẫn, chú thích. Đây là những nội dung liên hệ mật thiết với tác phẩm từ hoàn cảnh ra đời , bối cảnh xã hội tác phẩm phản ánh, không gian địa lý gắn với hình tượng nghệ thuật.
+ Hiểu việc tích hợp máy móc đơn giản là đưa những đơn vị kiến thức khác liên quan vào bài học ( cộng thêm kiến thức). Khi đi dự giờ của giáo viên có thấy cô dành cả 10 phút cho học sinh xem một đoạn vedio về núi rừng Tây Bắc mà không biết liên hệ như thế nào với việc giảng Tây tiến. Hay ở giờ khác, một đoạn phim về sông Hương được đưa vào việc giới thiệu trước khi giảng Ai đã đặt tên cho dòng sông nhưng sau đó giáo viên không thể kết hợp vào bài giảng để học sinh hiểu về hình tượng sông Hương với những khám phá độc đáo của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
 + Giờ dạy tác phẩm trở thành kể chuyện liên quan đến tác phẩm. Đây là hiện tượng khá phổ biển khi dạy những văn bản văn học liên quan đến lịch sử. Học sinh thích thú nhưng mục tiêu của bài học về việc cảm thụ hình tượng nghệ thuật lại bị bỏ rơi. Trọng tâm bài học không đạt được.
Thực trạng trên không thể không khắc phục để trả lại cho môn học đặc trưng riêng, sức hấp dẫn riêng của nó. 
III. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
 Dưới đây, tôi xin trình bày những giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề từ hai phương diện: người dạy văn và nhà quản lý chuyên môn.
3.1. Ở vị trí người trực tiếp giảng dạy - Các số giải pháp đã vận dụng
3.1.1. Khai thác hiệu quả phần chú thích và tiểu dẫn ngay trong sách giáo khoa.
 Đây là phần tích hợp đơn giản dễ hiểu, dễ làm nhất mà giáo viên cần vận dụng thật hiệu quả để giúp học sinh đọc hiểu một văn bản. Trong hai phần này, nếu tiểu dẫn là những kiến thức liên quan đến tác giả, hoàn cảnh ra đời, thể loại tác phẩm thì chú thích lại giúp giáo viên hiểu rõ hiểu kỹ hơn về chi tiết, từ ngữ hoặc những sự kiện, địa danh, con người được nói đến trong tác phẩm văn chương. Bỏ qua phần này, giáo viên mất một cơ sở quan trọng để hiểu rõ về tác phẩm. Khai thác không đúng phần này, bỏ qua những yếu tố giúp hiểu kỹ, sâu về tác phẩm. Nếu chỉ coi chú thích là chú thích, tiểu dẫn là tiểu dẫn thì cũng coi như chưa khai thác, chưa tích hợp được gì. Kinh nghiệm cho thấy từng yếu tố của phần tiểu dẫn hay chú thích đều giúp giáo viên tích hợp các nội dung của địa lý và lịch sử trong tác phẩm văn chương.
 Học Tây tiến của Quang Dũng từ phần tiểu dẫn, qua một câu hỏi: Hoàn cảnh sáng tác của bài thơ có gì đặc biệt, cô và trò đã có thể cùng nhau trở về lịch sử dân tộc những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, về đoàn binh Tây tiến lừng danh trong lịch sử. Tạo tâm thế cho học sinh khi bước vào tìm hiểu tác phẩm chính là mở cho học sinh con đường tiếp cận thế giới nghệ thuật. Từ đó, mới thấy rõ hơn mỗi câu thơ là một lát cắt của hiện thực, của lịch sử dân tộc và dấu ấn sáng tạo của Quang Dũng.
 Cũng về Tây Tiến, thầy cô nên hướng dẫn học sinh quan tâm những chú thích về địa danh được Quang Dũng nhắc đến trong bài thơ. Những địa danh khi sắp xếp lại sẽ tạo nên bản đồ về con đường chiến chinh mà người lính Tây tiến đã đi qua. Đó cũng là không gian nghệ thuật của tác phẩm, không gian của nỗi nhớ, không gian của một vùng Tây Bắc xa xôi của đất nước vừa hũng vĩ vừa đầy chất thơ vừa gắn liền với lịch sử hào hùng của dân tộc.
 Tương tự như thế, khi giảng Việt Bắc của Tố Hữu, Không thể không sử dụng phần chú thích và tiểu dẫn thành một kênh để hiểu tác phẩm. Đã có thầy cô giáo không để ý đến một dòng thơ“ Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” và cũng không hiếm khi học sinh thắc mắc khi đọc câu thơ trên với một câu thơ khác của Tố Hữu “ Chín năm làm một Điện Biên” . Để trả lời câu hỏi không thể không tích hợp những kiến thức về lịch sử đất nước trong những năm tháng hào hùng ấy. Mười lăm năm quê hương cách mạng gắn bó với Việt Bắc từ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (1940), rồi “ Khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh” cho đến khi “ Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”. 
3.1.2. Sử dụng bản đồ giúp học sinh có có nhìn đúng về những kiến thức địa lý được tác giả chuyển tải trong bài viết.
Trong dạy văn tôi phát hiện ra kiến thức địa lý cuả nhiều học sinh rất yếu. Việc hình dung ra vùng miền từ bản đồ đến bài học nhiều khi khó khăn. Hoặc là những địa danh cũng chỉ thoáng qua không đọng lại điều gì cả. Tất nhiên việc cung cấp kiến thức này cho học sinh là nhiệm vụ của môn địa lý. Tuy nhiên, thực tế là, các tác phẩm văn học trong chương trình lớp 12 lại chứa đầy các địa danh về các miền đất. Tây Tiến của Quang Dũng với Sông Mã, Sài Khao, Mường Lát. Pha luông, Mường Hịch, Mai Châu, Châu Mộc, Viên Chăn, Sầm Nứa; Việt Bắc của Tố Hữu với: Mái Đình Hồng Thái, cây đâ Tân Trào, Việt Bắc; Đất nước của Nguyễn Khoa điềm với những thắng cảnh từ Bắc đến Nam: Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, đất Tổ Hùng Vương, ao hồ làng Gióng, núi Bút non Nghiên..; Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân với câu thơ về “ Đà Giang độc bắc lưu”; Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường dày đặc những địa danh từ dãy Trường Sơn hùng vĩ nơi thượng nguồn, dến những địa danh nơi dòng sông uốn lượn chảy qua: Hòn chén, Ngọc Trản, Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo Nguyệt Biều, Lương Quán.Việc tích hợp kiến thức địa lý là cần thiết để giải mã vẻ đẹp của hình tượng văn học; để hiểu đúng, hiểu sâu các tầng lớp ý nghĩa văn bản văn học
Trong phòng dạy của tôi bây giờ vẫn luôn có tấm bản đồ Việt Nam với mong muốn lớn nhất là giúp học sinh hiểu về đất nước qua những bài văn học. Chính nhờ dụng cụ trực quan “lấn sân” sang lĩnh vực địa lý này mà bài dạy của tôi trở nên hấp dẫn hơn, giải quyết được nhiều vấn đề trong tác phẩm. Mỗi giờ dạy là dịp học trò được khám phá về đất nước.
 Trong quá trình giảng dạy tôi phát hiện nhiều học sinh rất mơ hồ về hai địa danh Việt bắc và Tây Bắc. Hai địa danh xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm văn chương được giảng dạy trong chương trình lớp 12:Tây Bắc trong Tây tiến của Quang Dũng, Tiếng hát con tầu của Chế lan Viên, Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài và Việt Bắc với tác phẩm cũng tên của Tố Hữu. Về làng của Hoàng Trung Thông.Sự mơ hồ ấy dẫn đến việc sử dụng lẫn lộn địa danh khi học và khi làm bài. Qua bản đồ, tôi đã giúp học sinh nhận diện 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_van_dung_tich_hop_kien_thuc_lich_su_dia_ly_trong_gio_do.doc