SKKN Vận dụng phương pháp dạy học lồng ghép tích hợp trong tiết học 14 “tự tin” để nâng cao kĩ năng sống cho học sinh lớp 7 trường THCS thị trấn Ngọc Lặc
Nằm trong chương trình các môn học ở bậc THCS, bộ môn Giáo dục công dân (GDCD) trong những năm vừa qua đã được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao, đánh giá đúng tầm quan trọng của bộ môn trong hệ thống giáo dục, nhất là giáo dục tư cách, đạo đức, lối sống cho học sinh. Chính vì vậy, đội ngũ giáo viên đã và đang nỗ lực không ngừng trong quá trình công tác nhằm nâng cao chất lượng bộ môn, nâng cao tỉ lệ học sinh khá, giỏi. Tuy nhiên nếu như nhìn vào điểm số thì có thể thấy kết quả của bộ môn GDCD tương đối cao, nhưng nếu đánh giá dựa vào hành vi, thái độ của học sinh, kĩ năng vận dụng của học sinh trong thực tiễn cuộc sống thì chưa được như mong muốn. Thời gian gần đây, dư luận xã hội đang lên án mạnh mẽ tình trạng bạo lực học đường, ăn chơi sa đọa . của một bộ phận học sinh. Mọi người chưa hết bàng hoàng khi chứng kiến cảnh từng đôi nam nữ học sinh bỏ học, lêu lổng, thậm chí là đưa nhau vào nhà nghỉ, hay cảnh những nữ học sinh đánh nhau, trong khi có rất nhiều học sinh khác chỉ đứng nhìn và dùng máy quay rồi tung lên mạng mà không hề can ngăn, hay trình báo với người có chức trách . Câu chuyện về giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh không phải là mới, nhưng đang là yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay. Bên cạnh những học sinh biết vượt lên số phận, thì vẫn còn một bộ phận không nhỏ học sinh ham chơi, vi phạm pháp luật, thiếu kĩ năng sống, không tự tin làm chủ bản thân. Phải nhìn thẳng vào hạn chế của giáo dục hiện nay mới chỉ quan tâm đến việc dạy "chữ", chưa thật sự quan tâm đến việc dạy "người" một cách toàn diện. Các gia đình coi điểm các bộ môn là thước đo sự tiến bộ của con cái, tạo thành sức ép buộc học sinh chỉ nghĩ đến chuyện phải học để có điểm cao. Vì sao lại còn tồn tại những vấn đề đó?. Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến các hành vi sai trái về đạo đức, lối sống, vi phạm pháp luật của học sinh, bên cạnh trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội, nguyên nhân sâu xa là do bản thân học sinh thiếu kĩ năng sống, thiếu những kiến thức, suy nghĩ nông cạn, thiếu hiểu biết để giải quyết đúng đắn các vấn đề trong cuộc sống. Như vậy việc tiến hành tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào trong các môn học, đặc biệt là môn GDCD là việc làm có tính tất yếu.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GD&ĐT NGỌC LẶC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỒNG GHÉP TÍCH HỢP TRONG TIẾT HỌC 14 “TỰ TIN” ĐỂ NÂNG CAO KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 7 TRƯỜNG THCS THỊ TRẤN NGỌC LẶC Người thực hiện: Nguyễn Thị Vinh Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THCS Thị Trấn Ngọc Lặc SKKN thuộc lĩnh mực (môn): GDCD THANH HOÁ, NĂM 2017 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GD&ĐT NGỌC LẶC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỒNG GHÉP TÍCH HỢP TRONG TIẾT HỌC 14 “TỰ TIN” ĐỂ NÂNG CAO KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 7 TRƯỜNG THCS THỊ TRẤN NGỌC LẶC Người thực hiện: Nguyễn Thị Vinh Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THCS Thị Trấn Ngọc Lặc SKKN thuộc lĩnh mực (môn): GDCD MỤC LỤC 1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài Nằm trong chương trình các môn học ở bậc THCS, bộ môn Giáo dục công dân (GDCD) trong những năm vừa qua đã được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao, đánh giá đúng tầm quan trọng của bộ môn trong hệ thống giáo dục, nhất là giáo dục tư cách, đạo đức, lối sống cho học sinh. Chính vì vậy, đội ngũ giáo viên đã và đang nỗ lực không ngừng trong quá trình công tác nhằm nâng cao chất lượng bộ môn, nâng cao tỉ lệ học sinh khá, giỏi. Tuy nhiên nếu như nhìn vào điểm số thì có thể thấy kết quả của bộ môn GDCD tương đối cao, nhưng nếu đánh giá dựa vào hành vi, thái độ của học sinh, kĩ năng vận dụng của học sinh trong thực tiễn cuộc sống thì chưa được như mong muốn. Thời gian gần đây, dư luận xã hội đang lên án mạnh mẽ tình trạng bạo lực học đường, ăn chơi sa đọa ... của một bộ phận học sinh. Mọi người chưa hết bàng hoàng khi chứng kiến cảnh từng đôi nam nữ học sinh bỏ học, lêu lổng, thậm chí là đưa nhau vào nhà nghỉ, hay cảnh những nữ học sinh đánh nhau, trong khi có rất nhiều học sinh khác chỉ đứng nhìn và dùng máy quay rồi tung lên mạng mà không hề can ngăn, hay trình báo với người có chức trách ... Câu chuyện về giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh không phải là mới, nhưng đang là yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay. Bên cạnh những học sinh biết vượt lên số phận, thì vẫn còn một bộ phận không nhỏ học sinh ham chơi, vi phạm pháp luật, thiếu kĩ năng sống, không tự tin làm chủ bản thân. Phải nhìn thẳng vào hạn chế của giáo dục hiện nay mới chỉ quan tâm đến việc dạy "chữ", chưa thật sự quan tâm đến việc dạy "người" một cách toàn diện. Các gia đình coi điểm các bộ môn là thước đo sự tiến bộ của con cái, tạo thành sức ép buộc học sinh chỉ nghĩ đến chuyện phải học để có điểm cao. Vì sao lại còn tồn tại những vấn đề đó?. Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến các hành vi sai trái về đạo đức, lối sống, vi phạm pháp luật của học sinh, bên cạnh trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội, nguyên nhân sâu xa là do bản thân học sinh thiếu kĩ năng sống, thiếu những kiến thức, suy nghĩ nông cạn, thiếu hiểu biết để giải quyết đúng đắn các vấn đề trong cuộc sống. Như vậy việc tiến hành tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào trong các môn học, đặc biệt là môn GDCD là việc làm có tính tất yếu. Chính vì vậy, qua một thời gian học tập, tìm tòi, nghiên cứu và trực tiếp giảng dạy, tôi đã có những suy nghĩ và xin mạnh dạn trao đổi cùng các thầy cô đồng nghiệp qua sáng kiến kinh nghiệm: “Vận dụng phương pháp dạy học lồng ghép tích hợp trong tiết học 14 “Tự tin” để nâng cao kĩ năng sống cho học sinh lớp 7 Trường THCS Thị trấn Ngọc Lặc ”. Để phát huy vai trò của môn học và góp phần khắc phục tình trạng trên. 1.2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này này nhằm đưa ra một số hình thức, biện pháp, hướng giải quyết một số khúc mắc về kiến thức và phương pháp dạy học, từ đó Ghi chú (giải thích cho việc Trích dẫn TLTK): - Ở mục 1.1: Phần Lí do chọn đề tài, tác giả tham khảo từ TLTK số 5. có thêm kinh nghiệm để dạy tốt môn GDCD, đáp ứng nhu cầu đổi mới chương trình SGK hiện nay. 1.3. Đối tượng nghiên cứu - Phần Đạo đức - tiết học 14 “Tự tin” và những vấn đề liên quan trong chương trình Giáo dục công dân 7. - Học sinh khối 7 - Trường THCS Thị trấn Ngọc Lặc. 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết. - Phương pháp quan sát. - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế. - Phương pháp thu thập thông tin. - Phương pháp thống kê, xử lí số liệu. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận - Theo Tổ chức Y tế thế giới kĩ năng sống là khả năng để có hành vi thích ứng và tích cực trong các tình huống xảy ra trong đời sống mỗi con người. Rèn kĩ năng sống là giúp cho mỗi cá nhân có thể ứng xử có hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức cuộc sống hằng ngày. - Theo UNICES thì cho rằng: Kĩ năng sống là khả năng tiếp cận với thay đổi và hình thành những hành vi mới, Tiếp cận này đã lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kĩ năng. - Có quan niệm cho rằng: Kĩ năng sống là năng lực ứng xử tích cực của mỗi người đối với tự nhiên, xã hội và chính mình; Là khả năng tâm lý xã hội của mỗi cá nhân trong các hành vi tích cực, để xử lý hiệu quả những đòi hỏi, thách thức cuộc sống. - Cũng có quan niệm coi kĩ năng sống là khả năng thực hiện một hành động hay hoạt động nào đó bằng cách lựa chọn và vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm để hành động trong sự thực hiện mục đích, trong hoàn cảnh thực tế. Tóm lại: Những quan niệm nêu trên đều chứa một nội hàm: Kĩ năng sống là khả năng thực hiện hành động, hay hoạt động, là năng lực ứng xử tích cực trước những thách thức của đời sống và chỉ có được khi được rèn luyện, tích lũy kinh nghiệm và biết lựa chọn một cách hợp lý để giải quyết các vấn đề trong tự nhiên, trong xã hội và trong chính cá nhân con người. 2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 2.2.1. Thuận lợi - Đối với đội ngũ giáo viên trong nhà trường: Vấn đề dạy học tích hợp kĩ năng sống vào bộ môn cho học sinh ở trường phổ thông đã được triển khai khá rộng rãi và khá quen thuộc đối với giáo viên nhất là đối với giáo viên thuộc các bộ môn Văn, Sử, Địa, Giáo dục công dân ,... 2 Ghi chú (giải thích cho việc Trích dẫn TLTK): - Ở mục 2.1: Phần : Cơ sở lí luận, tác giả tham khảo từ TLTK số 1 Trong chương trình giáo dục môn học của nhà trường phần lớn việc giáo dục kĩ năng sống đã được triển khai và phổ biến sâu rộng nhất là trong các buổi hoạt động ngoại khoá theo chủ đề của nhà trường, trong các buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp, các buổi sinh hoạt đầu giờ, sinh hoạt cuối tuần và đặc biệt là trong các giờ học bộ môn nên đại đa số giáo viên và học sinh đã khá quen thuộc. Vì vậy khi tổ chức triển khai thực hiện bản thân tôi và đồng nghiệp luôn nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của Ban Giám Hiệu, Phụ huynh và nhất là học sinh. - Đối với phụ huynh: Một vài năm gần đây, tầm quan trọng của bộ môn GDCD được đại đa số phụ huynh và học sinh nhận thức đúng đắn hơn nên đã có sự quan tâm sâu sắc trong việc học tập và rèn luyện bộ môn. Trên đây là những thuận lợi cơ bản góp phần thắng lợi trong việc thực hiện mục tiêu mà trong đề tài tôi đã lựa chọn. 2.2.2. Khó khăn - Do đặc thù bộ môn, môn GDCD là một bộ môn thuộc nhóm môn Khoa học xã hội - phần lớn học sinh và phụ huynh còn coi nhẹ bộ môn này vì quan niệm là môn phụ mà hướng các con thiên về các bộ môn khoa học tự nhiên để định hướng ngành nghề sau này. Chính vì vậy đa số học sinh ít có hứng thú học tập, khi học còn mang tính chất đối phó và gượng ép. Mặt khác, khi dạy học bộ môn, người giáo viên còn nặng về việc cung cấp kiến thức, coi nhẹ việc giáo dục tích hợp lồng ghép và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh; Đôi lúc một số giáo viên còn chưa thực sự đầu tư, chưa dành tâm huyết với bộ môn nên chất lượng dạy học chưa cao. - Tài liệu hướng dẫn, tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu dạy học tích hợp và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh còn nhiều hạn chế nên khi giảng dạy giáo viên còn gặp nhiều khó khăn. - Các hoạt động tập thể của nhà trường chưa phong phú, đa dạng nên việc rèn luyện kĩ năng sống ở bộ môn GDCD hiệu quả chưa thực sự cao để đáp ứng với nhu cầu thưc tế. - Trong giai đoạn hiện nay, sự bùng nổ thông tin, với nhiều thông tin thiếu lành mạnh đang tác động mạnh đến đời sống làm cho thế hệ trẻ có nhiều biểu hiện nhận thức lệch lạc và sống xa rời các giá trị đạo đức truyền thống, tình trạng bạo lực học đường có tổ chức ngày một gia tăng. Mặt khác, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường các gia đình không có nền tảng vững chắc như tình trạng: Cha mẹ ly hôn, gia đình phá sản, một bộ phận gia đình còn mãi mê buôn bán làm ăn phó thác con cái cho nhà trường cho nên một số không ít các em đã bị lôi cuốn vào lối sống ảo, thực dụng, đua đòi, không đủ bản lĩnh nói “không” với cái xấu. Các em không được dạy để hiểu về giá trị của cuộc sống và những kĩ năng sống hằng ngày. 2.2.3. Thực trạng của việc lồng ghép dạy học tích hợp và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh ở Trường THCS Thị Trấn huyện Ngọc Lặc Từ những thực trạng trên, vào đầu năm học mới tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học sinh và đạt kết quả qua bảng tổng hợp như sau: - Về chất lượng bộ môn: Lớp Tổng HS Giỏi Khá TB Yếu SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ 7A2 30 4 13,3 19 63,3 7 23,3 0 0 - Về chất lượng giáo dục kĩ năng sống: Các kĩ năng sống Tổng HS Chưa biết KNS Nhận biết được KNS Hiểu các KNS Vận dụng KNS SL % SL % SL % SL % *Kĩ năng phân tích, so sánh biểu hiện của sự tự tin và thiếu tự tin. 30 17/30 13,3 13/30 43,3 8/30 26,7 5/30 16,7 * Kĩ năng xác định giá trị của sự tự tin, thể hiện sự tự tin 30 16/30 53,3 14/30 46,7 7/30 23,3 6/30 20 * Kĩ năng tự nhận thức của bản thân 30 18/30 60 12/30 40 7/30 23,3 6/30 20 Kết quả trên cho thấy, số học sinh vận dụng kĩ năng sống còn quá ít. Chính vì vậy mà việc rèn kĩ năng sống cho học sinh là vấn đề cần quan tâm. Muốn làm tốt công tác này chúng ta cần phải làm gì? Nhất là những người làm công tác giáo dục vì nhà trường là nơi tốt nhất để hình thành nhân cách cho học sinh. Đây cũng chính là câu hỏi mà bản thân cần phải tìm tòi nghiên cứu. Từ những thực trạng trên thôi thúc bản thân tìm ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng “Học sinh chưa có kĩ năng sống” là do đâu? để từ đó tìm ra biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả. Từ đây, tôi đã mạnh dạn áp dụng phương pháp dạy học tích hợp, lồng ghép rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh qua mỗi tiết học GDCD. Đặc biệt trong tiết 14 dạy bài "Tự tin" (Chương trình GDCD 7 ) bản thân tôi đã xác định rõ mục tiêu bài học: Ngoài việc cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về tự tin là gì, ý nghĩa của tự tin ra. Việc quan trọng tiếp sau chính là cách rèn luyện như thế nào để trở thành người tự tin trong cuộc sống. Cũng từ đây, giáo viên có điều kiện củng cố thêm cho mỗi học sinh sự tự tin hơn trong suy nghĩ và hành động của mình, giúp các em đễ dàng vươn tới cái "chân, thiện, mĩ " của cuộc sống hiện tại và tương lai. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 2.3.1. Công tác tư tưởng a. Đối với giáo viên bộ môn trong tổ - Tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường động viên khích lệ giáo viên bộ môn nhất là giáo viên GDCD tự tin hơn vào vai trò bộ môn của mình, không ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đổi mới phương pháp nhằm nâng cao chât lượng giảng dạy bộ môn. b. Đối với phụ huynh, học sinh - Giáo viên bộ môn cần dành nhiều thời gian gặp gỡ phụ huynh để trao đổi, động viên, quan tâm tìm hiểu hoàn cảnh gia đình tạo sự gắn bó thân mật để phụ huynh thực sự dành nhiều sự quan tâm chăm sóc tới con em mình góp phần phối kết hợp với nhà trường nâng cao hiệu quả giáo dục. - Giáo viên thường xuyên gần gũi quan tâm tới các đối tượng học sinh để nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của các em từng bước cùng các em tháo gỡ những vướng mắc, những khó khăn. Thậm chí giúp các em vượt qua những cám dỗ của cuộc sống, thoát khỏi lối sống ảo, tự tin nói “không” với những cái xấu. 2.3.2. Công tác giảng dạy chính khóa Giáo viên cần: - Bám sát những mục tiêu giáo dục chuẩn kiến thức kĩ năng của môn học về: Thái độ, kĩ năng bộ môn. Từ đó xác định vấn đề cơ bản để lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho phù hợp với nội dung bài học và phù hợp với đối tượng học sinh. - Tăng cường sử dụng các phương tiện dạy học, sưu tầm tư liệu, hình ảnh sinh động trong các tiết dạy phần đạo đức để hiệu quả giảng dạy GDCD được nâng lên. - Phải tăng cường đổi mới phương pháp dạy học; đa dạng hóa các hình thức hoạt động của học sinh trong tiết học để tạo sự hứng thú, chủ động, tích cực học tập của các em. - Giáo dục kĩ năng sống trong môn học GDCD, theo đặc trưng của môn học, là giáo dục theo con đường “ Mưa dầm thấm lâu” nhẹ nhàng, tự nhiên, không gượng ép. Từ đó tạo niềm tin, sự hứng thú học tập bộ môn và cao hơn là giúp các em có những kỹ năng sống cơ bản trong cuộc sống hiện tại và tương lai. * Cách dạy học tích hợp bài: Tự tin: (căn cứ theo hướng dẫn chuẩn kiến thức kĩ năng) a. Về kiến thức - Nêu được một số biểu hiện của tính tự tin . - Nêu được ý nghĩa của tính tự tin ( đối với việc củng cố ý chí, nghị lực, bản lĩnh của con người để đạt mục đích). b. Về kĩ năng - Biết thể hiện sự tự tin trong những công việc cụ thể. * Các kĩ năng sống cơ bản cần được giáo dục: - Kĩ năng phân tích, so sánh,hơp tác biểu hiện của tự tin - Kĩ năng xác định giá trị của sự tự tin, thể hiện sự tự tin. - Kĩ năng tự nhận thức của bản thân về lòng tự tin, tự trọng c. Về thái độ - Tự tin ở bản thân mình không a dua, dao động trong hành động. - Học tập và làm theo tấm gương tự tin của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 3 Ghi chú (giải thích cho việc Trích dẫn TLTK): - Ở mục 2.3.2: Phần : Công tác giảng dạy chính khóa, tác giả tham khảo từ TLTK số 2 * Vận dụng phương pháp lồng ghép, tích hợp rèn luyện kĩ năng sống qua tiết học "Tự tin" a. Phương pháp chung Xác định từng kĩ năng sống sẽ áp dụng trong bài: * Kĩ năng phân tích, so sánh biểu hiện của sự tự tin và thiếu tự tin Đối với kĩ năng này tôi cho học sinh tổ chức chơi trò chơi tiếp sức. Thời gian 3' ? Tìm các biểu hiện của sự tự tin và các biểu hiện không tự tin. Tổ chức: - Đội 1 (tổ 1,2) - Đội 2 (tổ 3,4) (mỗi đội cử 5 em tiếp sức tìm, đội nào tìm được nhiều biểu hiện đúng đội đó thắng) Cả lớp theo dõi, nhận xét đội nào thắng cuộc. GV: Nhận xét hoạt động, rút ra biểu hiện của sự tự tin và trái với tự tin. * Kĩ năng xác định giá trị của sự tự tin, thể hiện sự tự tin Đối với kĩ năng này, tôi sẽ chia nhóm cho các em thảo luận GV chia nhóm cho HS thảo luận (4’) theo câu hỏi: + Nhóm 1: Em hãy phân biệt tự tin với tự lực và tự lập? + Nhóm 2: Tự tin khác với tự cao, tự đại và tự ti như thế nào? Đại diện nhóm HS trả lời, nhận xét, bổ sung GV bổ sung, chốt * Kĩ năng tự nhận thức của bản thân Đối với kĩ năng này, tôi sẽ cho các em trả lời theo cách nghĩ riêng của mình: + Người có lòng tự tin chỉ một mình quyết định công việc, không cần ai và không cần nghe ai, và không cần hợp tác với ai? + Em có đồng tình với ý kiến đó không? + Trong hoàn cảnh nào con người cần có tự tin? + Để suy nghĩ và hành động một cách tự tin con người cần phải có những phẩm chất và điều kiện gì nữa? + Bản thân em đã có tính tự tin chưa? + Khi gặp bài tập khó, gặp việc khó em có nản lòng chùn bước không? + Kể một số việc em làm tốt nhờ có lòng tự tin? Học sinh trình bày giáo viên định hướng. + Tìm những tấm gương nhờ có tự tin mà giúp họ vượt qua khó khăn, vượt lên số phận? + Em sẽ rèn luyện lòng tự tin như thế nào? Như vậy để một tiết dạy học GDCD nói chung, tiết dạy ‘‘Tự tin” lồng ghép nội dung giáo dục kĩ năng sống nói riêng thành công đòi hỏi người giáo viên phải có sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt các phương pháp mới vào từng bài soạn, từng tiết dạy cụ thể. b. Cách áp dụng - Áp dụng lồng ghép tích hợp trong quá trình khai thác từng nội dung bài học. Nghĩa là khi giáo viên dạy đến nội dung nào, có khả năng liên hệ để giáo dục kĩ năng sống, giáo viên có thể rút ra kết luận hoặc gợi mở để học sinh nhận thấy kĩ năng sống đó. Ví dụ: + Khi dạy bài “Tự tin”, ngoài kiến thức các em nắm được thế nào là tự tin,học sinh phải hiểu được tự tin là chủ động, dám nghĩ, dám làm, cương quyết dám tự quyết định. Còn trái với tự tin sẽ là thụ động, rụt rè, ba phải, luôn dao động, hoang mang.Vậy kĩ năng sống rút ra đó là,nếu chúng ta làm việc gì cũng thụ động rụt rè ba phải, hoang mang thì cuộc sống sẽ gặp nhiều khó khăn, làm việc gì cũng khó, không có hiệu quả. + Hoặc khi dạy phần ý nghĩa của tự tin, tôi cho các em phân biệt tự tin với tự lực, tự lập, tự cao, tự đại. Các em sẽ hiểu được giữa tự tin với tự lực và tự lập có mối quan hệ mật thiết vì người có tính tự tin mới có tính tự lực và tự lập trong cuộc sống. Trong điều kiện đổi mới hiện nay tự tin khởi nguồn của mọi thành công trong cuộc đời, giúp con người thực hiện được những ước mơ cao đẹp. + Mặt khác, có thể mời các em trả lời từng câu hỏi, gọi các em một cách thân thiện, nhất là những em ít giơ tay phát biểu trả lời câu hỏi: ? Bản thân em đã có tính tự tin chưa? ? Khi gặp bài khó em có nản lòng chùn bước không? Kể một số việc em làm tốt nhờ có lòng tự tin? Qua các câu hỏi và trả lời trên lớp như thế này phần nào cũng giúp các em khắc phục được tính rụt rè, thể hiện được sự tự tin là nói trước lớp. + Các em đủ tự tin rồi sẽ thấy được: Trong cuộc sống, bất cứ việc gì muốn thành công cũng đều cần có tự tin,trong hoàn cảnh khó khăn, trở ngại con người cần vững tin ở bản thân mình dám nghĩ dám làm, kiên trì, tích cực, chủ động, không ngừng vươn lên nâng cao nhận thức và năng lực, hành động một cách chắc chắn thì sự tự tin càng được củng cố và nâng cao. + Như vậy qua đây tôi đã giáo dục cho các em kĩ năng xác định giá trị, thể hiện sự tự tin, kĩ năng tự nhận thức giá trị bản thân về lòng tự tin, tự trọng. - Tích hợp trong phần luyện tập. Trong phần rèn luyện tính tự tin, tôi cho tích hợp câu hỏi bài tập d(SGK.Trang 35) ? Em hãy nhận xét hành vi của Hân trong tình huống trên? Qua việc trả lời các câu hỏi trên để học sỉnh từ đó rút ra các kĩ năng sống có liên quan như: Kĩ năng giao tiếp, kĩ năng ứng phó với căng thẳng. c. Phương pháp dạy - Phương pháp đi từ lí thuyết đến thực tế: + Bước 1: Giáo viên đặt câu hỏi + Bước 2: Học sinh trả lời + Bước 3: Giáo viên liên hệ thực tế. - Phương pháp đi từ thực tế đến lí thuyết : + Bước 1: Giáo viên đưa ra tình huống + Bước 2: Học sinh trả lời + Bước 3: Giáo viên rút ra nội dung bài học. d. Phương pháp cụ thể qua thiết kế giáo án mẫu * Tổ chức giờ dạy học trên lớp Tất cả những mong muốn và kinh nghiệm của bản thân được thể hiện qua giáo án cụ thể sau: Tiết 14 TỰ TIN A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT 1. Về kiến thức: - Nêu được một số biểu hiện của tính tự tin . - Nêu được ý nghĩa của tính tự tin ( đối với việc củng cố ý chí, nghị lực, bản lĩnh của con người để đạt mục đích). 2. Về kĩ năng: - Biết thể hiện sự tự tin trong những công việc cụ thể. * Các kĩ năng sống cơ bản cần được giáo dục: - Kĩ năng phân tích, so sánh biểu hiện của tự tin - Kĩ năng xác định giá trị của sự tự tin, thể hiện sự tự tin. - Kĩ năng tự nhận thức của bản thân về lòng tự tin, tự trọng 3. Về thái độ: - Tự tin ở bản thân mình không a dua, dao động trong hành động. - Học tập và làm theo tấm gương tự tin của Chủ tịch Hồ Chí Minh. B. CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ KĨ THUẬT DẠY HỌC: - Động não. - Nghiên cứu trường hợp điển hình. - Xử lí tình huống. - Đóng vai. C.TÀI LIỆU- PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC - Tranh ảnh,truyện về những tấm gương. - Ca dao, tục ngữ. - Máy chiếu, máy tính và các phương tiện dạy học cần thiết khác. D. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP 1. Ổn định tổ chức: 2. Kiểm tra bài cũ: Câu 1: Vì sao chúng ta cần phải kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ? Câu 2: Mỗi chúng ta cần phải làm gì để gìn giữ và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ? 3. Triển khai bài mới: a. Khám phá Giáo viên chiếu máy cho học sinh đọc một trích đoạn trong “Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm” “Ngày 09-05-1968 Sống ở đời phải biết khiêm tốn, nhưn
Tài liệu đính kèm:
- van_dung_phuong_phap_day_hoc_long_ghep_tich_hop_trong_tiet_h.docx