SKKN Vận dụng kiến thức hóa học góp phần hình thành và giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT

SKKN Vận dụng kiến thức hóa học góp phần hình thành và giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT

Trong điều kiện của nền kinh tế nước ta nói chung và ở địa phương nói riêng hiện nay đang trên đà phát triển mạnh mẽ bên cạch những thành tựu của khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão trên thế giới mở ra thời kỳ hội nhập quốc tế làm cho con người tiếp cận với những tri thức nhanh hơn, hiệu quả hơn .bên cạnh đó kèm theo mặt trái tiêu cực ngoài xã hội đã tác động không nhỏ đến suy nghĩ và hành động của HS, cộng với sự phối hợp của các ngành chức năng còn lỏng lẻo, một mặt các em chưa được sự quan tâm chăm sóc, động viên, giáo dục từ phía gia đình như cha mẹ chỉ biết lao vào kiếm tiền mà không quan tâm gì đến việc học tập, sinh hoạt và những hoạt động khác của con em mình như thế nào; mặt khác về phía học sinh việc các em tự trang bị và hình thành những kĩ năng cơ bản để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống còn nhiều bất cập

 Đặc biệt kĩ năng sống còn kém, chưa biết ứng xử với lối sống văn hóa và chưa biết đấu tranh với những văn hóa đồi trụy, phản động, chưa nhận thức được việc phạm tội, vi phạm đạo đức của mình, chủ yếu là đua đòi phạm tội một cách hồn nhiên, ít chịu tu dưỡng, rèn luyện, sống buông thả theo thị hiếu tầm thường. Nhiều em có hoàn cảnh kinh tế khá nhưng thiếu ý trí vươn lên tự buông thả mình và trượt dài trên con đường vi phạm pháp luật, đạo đức.

 Vấn đề học sinh hiện nay thiếu kĩ năng sống, thiếu tự tin, tự lập, sống ích kỉ, vô tâm, thiếu trách nhiệm với gia đình, bản thân đang là những càn trở lớn cho sự phát triển của thanh thiếu niên hiện nay khiến không ít các bậc phụ huynh làm cha làm mẹ phải phiền lòng vì con, khiến nhà trường phải bận tâm vì những đối tượng học sinh này trong xã hội phát triển năng động như hiện nay mà đúng ra các em sẽ rất năng động, tự tin khi được thể hiện mình trong cuộc sống và trong sinh hoạt, học tập.

 

docx 20 trang thuychi01 6972
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Vận dụng kiến thức hóa học góp phần hình thành và giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1. 1. Lý do chọn đề tài.
	Trong điều kiện của nền kinh tế nước ta nói chung và ở địa phương nói riêng hiện nay đang trên đà phát triển mạnh mẽ bên cạch những thành tựu của khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão trên thế giới mở ra thời kỳ hội nhập quốc tế làm cho con người tiếp cận với những tri thức nhanh hơn, hiệu quả hơn.bên cạnh đó kèm theo mặt trái tiêu cực ngoài xã hội đã tác động không nhỏ đến suy nghĩ và hành động của HS, cộng với sự phối hợp của các ngành chức năng còn lỏng lẻo, một mặt các em chưa được sự quan tâm chăm sóc, động viên, giáo dục từ phía gia đình như cha mẹ chỉ biết lao vào kiếm tiền mà không quan tâm gì đến việc học tập, sinh hoạt và những hoạt động khác của con em mình như thế nào; mặt khác về phía học sinh việc các em tự trang bị và hình thành những kĩ năng cơ bản để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống còn nhiều bất cập
	Đặc biệt kĩ năng sống còn kém, chưa biết ứng xử với lối sống văn hóa và chưa biết đấu tranh với những văn hóa đồi trụy, phản động, chưa nhận thức được việc phạm tội, vi phạm đạo đức của mình, chủ yếu là đua đòi phạm tội một cách hồn nhiên, ít chịu tu dưỡng, rèn luyện, sống buông thả theo thị hiếu tầm thường. Nhiều em có hoàn cảnh kinh tế khá nhưng thiếu ý trí vươn lên tự buông thả mình và trượt dài trên con đường vi phạm pháp luật, đạo đức.
	Vấn đề học sinh hiện nay thiếu kĩ năng sống, thiếu tự tin, tự lập, sống ích kỉ, vô tâm, thiếu trách nhiệm với gia đình, bản thân đang là những càn trở lớn cho sự phát triển của thanh thiếu niên hiện nay khiến không ít các bậc phụ huynh làm cha làm mẹ phải phiền lòng vì con, khiến nhà trường phải bận tâm vì những đối tượng học sinh này trong xã hội phát triển năng động như hiện nay mà đúng ra các em sẽ rất năng động, tự tin khi được thể hiện mình trong cuộc sống và trong sinh hoạt, học tập.
	Trước những yêu cầu thiết thực trên, những kiến thức của bộ môn hóa học giữ vai trò quan trọng trong việc giáo dục cho học sinh ý thức và hành vi người công dân, góp phần định hướng cho học sinh cách thức để xử lí 1 số vấn đề phát sinh trong thực tiễn. Vì vậy cần tích cực đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học là rất cần thiết nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, của học sinh; mặt khác góp phần vào việc đào tạo nguồn nhân lực và những công dân mới có tính năng động, sáng tạo, thích ứng với cơ chế thị trường, có phẩm chất và năng lực để thực hiện thành công sự nghiệp Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa ở nước ta hiện nay và phù hợp với xu thế chung của thời đại.
	Các em học sinh lớp 10 mới bước chân vào môi trường học mới, môi trường cấp học THPT đặc biệt các em người dân tộc thiểu số phải trọ học xa gia đình thì các em chưa thực sự tự tin, còn rụt rè lúc này có những mối quan hệ xung quanh như: kết bạn, mối quan hệ giữa thày, cô, nhà trường và xã hội.. với các quan hệ phức tạp ấy, các em cần có những kĩ năng để tiếp cận trước những lôi cuốn của bạn bè xấu sẽ ảnh hưởng kết quả học tập về sau.
	Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của bộ môn hóa học trong việc giáo dục,hình thành kĩ năng sống cho học sinh cấp THPT, trong thời gian qua nhà trường đã tạo mọi cơ hội cho việc giáo dục đạo đức học sinh học chính khóa, ngoại khóa đã từng bước kịp thời uốn nắn các em.
	Tuy nhiên trong thực tế tình trạng xuống cấp về đạo đức, lối sống của một bộ phận học sinh hiện nay như: Lối sống buông thả, sống thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội và việc xử lí các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống còn bất cập. đây cũng là điều khiến tôi phải suy nghĩ trước quyết định viết sáng kiến này. Tôi xin trình bày những điều rút ra từ thực tiễn rất mong được sự chia sẻ của đồng nghiệp cùng đóng góp trong việc hình thành, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh cấp THPT hiện nay.
	Với những lí do trên, tôi xin mạnh dạn lấy đề tài “Vận dụng kiến thức hóa học góp phần hình thành và giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT” làm đề tài nghiên cứu của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng, đối phó với những sức ép của cuộc sống, phòng ngừa những hành vi có hại cho thể chất và tinh thần của các em. Giáo dục kĩ năng sống giúp tăng cường khả năng tâm lí, khả năng thích ứng, giúp các em có cách thức ứng phó với những thách thức của cuộc sống và trở thành người công dân đáp ứng yêu cầu xã hội hiện đại.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài trên, tôi chọn 4 lớp khối 12 của trường THPT Hà Trung làm thí điểm là 12C, 12E, 12G, 12H.
- Số lượng học sinh: 179
- Đặc điểm của học sinh: Các em học sinh ở những lớp trên bao gồm cả những em nhận thức khá (12C), nhưng đa phần là học sinh ở những lớp đại trà, tiếp thu kiến thức còn chậm, rụt rè, ngại phát biểu. Vì vậy, khi chọn những đối tượng học sinh trên, tôi mong muốn với những đổi mới của mình về vận dụng kĩ năng sống sẽ làm tăng hứng thú của các em trong việc học tập môn hóa cũng như hiểu biết về các vấn đề xã hội, giúp các em chủ động tìm tòi, khám phá, tự tin trong cuộc sống.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.4.1. Cơ sở lý luận nghiên cứu.	
Các tài liệu liên quan phục vụ cho tích hợp giáo dục rèn kĩ năng sống cho học sinh nói chung học sinh cấp THPT nói riêng.
1.4.2. Phương pháp điều tra nghiên cứu.
Kết hợp các phương pháp như tìm hiểu, nghiên cứu, nêu gương, điều tra phỏng vấn học sinh, phụ huynh học sinh và lấy ý kiến của các tổ chức đoàn thể trong trường. 
Tích hợp nội dung về giáo dục kĩ năng sống trong môn hóa học trong trường THPT. 
	Tập trung nghiên cứu tích hợp các kĩ năng cho học sinh gắn với thực tiễn đời sống, đáp ứng yêu cầu của xã hội.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Kỹ năng sống: Là các kĩ năng cần thiết cho cuộc sống. Đó là các kĩ năng mà học sinh thực sự cần nếu muốn sống an toàn,sống tốt trong môi trường của chúng. Kỹ năng sống là thói quen hợp lý cần thiết để xử lý các tình huống cụ thể. Những tình huống này phải có thật và có nhiều khả năng xảy ra trong thời điểm thực tại hoặc tương lai. Ứng xử phù hợp trong tình huống đó giúp chúng ta thoát hiểm.Chính vì điều này mà kĩ năng sống có rất nhiều: Kỹ năng thoát hiểm,kỹ năng ứng phó với các tình huống,kỹ năng làm việc nhómMỗi lứa tuổi,mỗi cấp học lại yêu cầu có những kỹ năng riêng phù hợp. Để có được các kĩ năng đó là sự tổng hợp các kiến thức của nhiều môn khoa học.Trong đó hóa học cũng là một trong những môn khoa học giúp rèn luyện một số kĩ năng sống cho học sinh qua các bài học.
	Môn hóa học là môn khoa học gắn liền với tự nhiên, đi cùng đời sống con người.Môn hóa học giúp học sinh hiểu rõ về cuộc sống , về biến đổi vật chất, trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản để học sinh không bị bỡ ngỡ trong các tình huống tự nhiên, lý giải các hiện tượng kỳ bí trong tự nhiên, bài trừ mê tín dị đoan, ứng phó với biến đổi khí hậu.
2.2. Thực trạng của rèn luyện kĩ năng sống.
	Một trong những thực trạng của giáo dục phổ thông hiện nay là chưa thực sự chú trọng đến giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.Trong khi đó mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện: Đạo đức,tri thức, sức khỏe, kỹ năng nghề nghiệptrung thành với lý tưởng độc lập dân tộc. Tuy nhiên nội dung và phương pháp giáo dục trong nhà trường còn xem trọng việc dạy chữ chứ chưa coi trọng đến việc dạy người, dạy kỹ năng sống. Trong thực tế khi xây dựng nội dung chương trình học trên lớp,giáo viên đều phải xây dựng đủ 3 mục tiêu:Cung cấp kiến thức, rèn luyện kĩ năng và hình thành thái độ.Đây là yêu cầu mang tính nguyên tắc trong dạy học và giáo viên đều nhận thức sâu sắc được về yêu cầu này. Tuy nhiên phải chạy theo thời gian, lượng kiến thức cần chuyển tải nhiều nên giáo viên có khuynh hướng tập trung cung cấp kiến thức để hướng tới các kỳ thi mà ít quan tâm đến rèn luyện kĩ năng ứng phó và hòa nhập cuộc sống.
Trong thời gian gần đây giáo dục kỹ năng sống đã được quan tâm nhiều hơn, tuy vậy giáo dục kỹ năng sống không được bố trí thành môn học riêng mà kĩ năng sống phải được giáo dục ở mọi lúc, mọi nơi qua từng môn học.Trong đó môn hóa học là một trong những môn học giúp rèn luyện kĩ năng ứng phó với các tình huống nguy hiểm hay đơn giản là nhận thức về biến đổi thiên nhiên,khí hậu và bảo vệ môi trường.
Thuận lợi: Môn hóa học là một trong các môn tạo nhiều hứng thú cho học sinh do đặc thù gắn liền với tự nhiên và đời sống.mặt khác giáo viên ý thức được tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng sống. 
	Khó khăn: Phần triển khai từ kiến thức sách vở đến giáo dục kỹ năng cho học sinh nhiều giáo viên con lúng túng. Tài liệu cho giáo viên và học sinh còn rất hạn chế.
2.3. Các giải pháp để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Kỹ năng thứ 1: Xử lý khi bị ong đốt hay bị côn trùng cắn.
	Cơ sở lý thuyết: Trong bài axit (bài 60 SGK hóa 11) ,có một số tên gọi của axit đước đặt theo nguồn gốc như: axit fomic (HCOOH : axit kiến). Trong nọc của ong , kiến hay một số các loại côn trùng có chứa loại axit này , ngoài ra còn có một số loại khác như : axit clohiđric (HCl), axit photphoric (H3PO4) gây ra bỏng rát và ngứa.Dựa vào tính chất axit để xử lý tình huống này
Xử lý: Dùng vôi tôi để trung hòa axit do vôi có tính kiềm
PTHH: 	2HCOOH + Ca(OH)2 → (HCOO)2Ca + 2 H2O 
Hoặc baking sođa (NaHCO3).
PTHH: 	NaHCO3 + HCOOH → HCOONa + CO2 + H2O 
Tuy nhiên nếu bị lượng ong và côn trùng đốt nhiều cần sơ cứu rồi đưa đến cơ sở y tế.
2.3.2. Kỹ năng thứ 2: Xử lý khi gặp thủy ngân rơi vãi.
Cơ sở lý thuyết: Thủy ngân (Hg) là kim loại đặc biệt khi tồn tại ở thể lỏng và là kim loại nặng, rất độc, ngay cả lượng rất nhỏ. Vì thủy ngân khi phát tán ngoài không khí, lọt vào phổi, đi vào cơ thể, kết hợp với một số chất béo trong máu gây độc. Nếu chẳng may nhiệt kế hay cặp nhiệt độ rơi vỡ,thủy ngân lọt ra ngoài thì xử lý thế nào. Trong bài lưu huỳnh (bài 43 SGK 10), học sinh học tính chất hóa học của lưu huỳnh tác dụng với nhiều kim loại ở nhiệt độ cao, tuy nhiên lại phản ứng với kim loại thủy ngân ở ngay nhiệt độ thường.Lợi dụng tính chất này mà có cách thu thủy ngân như sau:
 Xử lý: Rắc bột lưu huỳnh để thu hồi thủy ngân, sản phẩm thu được là thủy ngân (II) sunfua.
PTHH: 	Hg + S → HgS
2.3.3. Kỹ năng thứ 3: Xử lý khi bị bỏng axit.
Cơ sở lý thuyết: Bị bỏng axit chủ yếu thường gặp là axit sunfuric (H2SO4) đậm đặc hay axit nitric (HNO3). Học sinh được học tính chất hóa học của axit sunfuric đặc (bài 45 SGK hóa học 10) đó là tính háo nước và cả hai loại axit này đều có tính oxi hóa mạnh.Mà cơ thể chúng ta 90% là nước. Da thịt tiếp xúc với các loại axit này sẽ bi bỏng rất nặng, do khi tiếp xúc với da nó phá hủy các cấu trúc da như: mô, gân, mỡ gây hoại tử theo cơ chế đóng vón protein.
PTHH: 	Cn(H2O)mH2SO4 đặc n C + m H2O	
C lại tiếp tục phản ứng:
	C + 2 H2SO4 → 2 CO2 + 2 H2O 
Sở dĩ axit có khả năng gây bỏng cơ thể con người bởi nó phản ứng với các protein có trong tóc, móng chân, móng tay, da Khi tiếp xúc với da, axit làm ngưng kết các protein của mô và hút nước của tế bào. Chúng cũng hóa hợp với protein tạo thành protein axit, các protein này vẫn mang tính axit và tiếp tục gây phỏng sâu. Quá trình ấy làm biến hoại các liên kết peptit, lắng đọng tổ chức keo, protein mô bị kết tủa hoàn toàn, mô collagen được thay thấy bằng mô xơ, mô hoại tử. Nồng độ axit càng đặc, thời gian tiếp xúc càng dài thì bỏng và hoại tử càng nặng và sâu, khả năng hồi phục gần như bằng không.	
Chúng ta có thể thấy sự tàn phá của axit khinh khủng thế nào qua bức ảnh sau:
Sự tàn phá của axit (hình ảnh minh họa)
Xử lý: Loại bỏ axit, làm loãng nồng độ bằng cách rửa trực tiếp phần cơ thể dưới vòi nước sạch.Xé bỏ quần áo hoặc đồ dùng trên người đã dính axit, tuyệt nhiên không cởi quần áo vì có thể làm lột da.Dùng băng gạc che phần vết thương rồi chuyển đến cơ sở y tế.
2.3.4. Kỹ năng thứ 4: Dập tắt các đám cháy.
	Cơ sở lý thuyết: Trong đời sống chẳng may ta gặp các đám cháy nhỏ nếu không biết xử lý hoặc xử lý sai thì chuyện bé lại xé ra to. Tuy nhiên dập tắt các đám cháy cũng không hề đơn giản. Mỗi đám cháy do các nguyên nhân khác nhau thì cần xử lý khác nhau.Kiến thức hóa học phổ thông đã phần nào lý giải được điều này.
+ Nếu đám cháy là kim loại có tính khử mạnh như :Magie (Mg), Liti (Li),Natri (Na )Vậy ta dùng bình cứu hỏa (khí CO2), dùng nước (H2O ) hay dùng cát.Ta sẽ lý giải bằng kiến thức hóa học đã học.
* Dùng bình cứu hỏa:Dám cháy sẽ lớn hơn.Do Mg cháy trong CO2 .Kiến thức ở bài 21: hợp chất của cacbon(SGK hóa học 11) 
PTHH:	 CO2 + 2 Mg t0 2 MgO + C
* Dùng cát: kiến thức ở bài 22 ( silic và hợp chất silic. SGK 11) ta biết silic đioxit cũng phản ứng với kim loại có tính khử mạnh như magie, mà cát có thành phần chính (SiO2).
PTHH: 	 SiO2 + 2 Mg t0 2 MgO + Si
* Dùng nước: Kiến thức ở bài kim loại kiềm thổ (SGK 12),Mg là kim loại phản ứng với nước ở nhiệt độ cao.Nên không dùng nước để dập tắt đám cháy bằng Mg được. 
PTHH: 	 H2O + Mg t0 MgO + H2
Đám cháy kim loại ở Giang Tô (Trung Quốc)
Xử lý: Nếu gặp đám cháy bằng kim loại thì không nên tìm các dập tắt mà cách tốt nhất là chờ kim loại cháy hết, đứng xa không bị bỏng nhiệt. 
+ Nếu là các đám cháy bằng xăng dầu: Có dùng nước để dập tắt hay không.Bằng kiến thức đã học (phần hiđrocacbon-SGK hóa hoc 11).Xăng dầu là hỗn hợp của nhiều hiđrocacbon.Mà tính chất vật lý của chúng là không tan trong nước.Nếu dùng nước để dập tắt thì xăng dầu nổi lên trên, đám cháy có xu hướng lan rộng ra.
Xử lý:Là các đám cháy nhỏ thì có thể lấy tấm vải trùm kín để ngăn không cho các hợp chất hữu cơ đó tiếp xúc với oxi không khí.Nếu là đám cháy lớn thì gọi cứu hỏa dập tắt bằng các bình CO2.
2.3.5. Kỹ năng thứ 5: Thoát hiểm trong đám cháy.
Cơ sở lý thuyết: Chúng ta biết rằng trong các đám cháy,hơn 80 % người ta chết vì ngạt khí chứ không phải do lửa thiêu đốt. Vậy hiểu về khí độc sinh ra trong các đám cháy giúp chung ta xử lý tình huống khi gặp vấn đề chính xác,hợp lý. Xung quanh chúng ta khi cháy đều là sản phẩm oxi hóa các hợp chất hữu cơ và là quá trình oxi hóa không hoàn toàn nên sản phẩm cháy hầu hết là các khí độc:
	+ Khí cacbon mono oxit (CO): Kiến thức ở bài 21: Hợp chất của cacbon (SGK hóa học 11) :
Là chất khí không màu, không mùi,hơi nhẹ hơn không khí, rất độc với hệ hô hấp và hệ tuần hoàn.Khi hít phải khí CO thì máu trở nên không tiếp nhận được oxi, hệ thần kinh bị tê liệt.Một vài số liệu:
Nồng độ
Triệu chứng
0,0035 %
Gây đau đầu,chóng mặt trong vòng 6 h đến 8 h tiếp xúc liên tục
0,01%
Đau đầu nhẹ trong vòng 2h đến 3 h tiếp xúc liên tục.
0,02 %
Đau đầu nhẹ trong vòng 2h đến 3 h tiếp xúc liên tục, gây nhầm lẫn.
0,04 %
Đau đầu nhẹ trong vòng 1h đến 2 h tiếp xúc liên tục, gây nhầm lẫn.
0,08 %
Chóng mặt, đau đầu, buồn nôn co giật trong vòng 45 phút,mất cảm giác sau 2 h
0,16 %
Chóng mặt, đau đầu, buồn nôn ,tim đập nhanh khi tiếp xúc, gây tử vong sau 2 h
0,32 %
Chóng mặt, đau đầu, buồn nôn co giật trong vòng 5 đến 10 phút,gây tử vong sau 30 phút.
0,64 %
Chóng mặt, đau đầu sau 1 đến 2 phút tiếp xúc.Co giật và ngừng hô hấp trong vòng chưa đầy 20 phút.
1,28 %
Bất tỉnh sau 2-3 hơi thở,tử vong trong vòng 3 phút
+ Khí cacbon đioxit (CO2): Kiến thức ở bài 21: hợp chất của cacbon(SGK hóa học 11):Là chất khí không màu, không mùi, nặng hơn không khí, là một khí độc.Khi hít phải khí có nồng độ CO2 3% gây khó thở, từ 8-10 % gây mất cảm giác, thậm chí tử vong.
Ngoài ra một số đám cháy còn sinh ra các hợp chất của clo,lưu huỳnh, hợp chất xianuarất độc.
Xử lý: Khi lượng khói nhiều phải khom người, quỳ hoặc bò ra khỏi đám cháy vì khói bao giờ cũng có xu hướng đi lên cao.Dùng khăn ướt bịt vào miệng và mũi để lọc không khí. Đi men theo tường ra cửa, dùng khăn ướt bịt khe cửa không cho khói đi vào.
2.3.6. Kỹ năng thứ 6:Xử lý nước cứng.
Cơ sở lý thuyết:Nước cứng là nước có chứa nhiều ion Ca2+ và Mg2+.Nước mềm là nước chứa it hoặc không chứa ion Ca2+ và Mg2+ (bài 31.SGK hóa học 12).Nước có vai trò rất quan trọng trong đời sống.Nước thường dùng là nước tự nhiên và hầu hết chứa nhiều muối của caxi và magie.Dựa vào thành phần anion của gốc axit mà chia nước cứng thành 3 loại:Nước có tính tạm thời, nước có tính cứng vĩnh cửu và nước có tính cứng toàn phần.Mặt khác nước cứng gây nhiều bất lợi và trở ngại cho đời sống thường ngày: Nước cứng làm cho xà phòng ít bọt,giảm khả năng tẩy rửa. Nước cứng nấu đồ ăn giảm mùi vị và lâu chín.Tạo cặn trong các nồi hơi gây lãng phí nhiên liệu, không an toàn. Vậy xử lý thế nào khi chúng ta chưa có máy lọc nước.
Hình ảnh ấm đun nước bị đóng cặn.
Xử lý:Có nhiều phương pháp để xử lý nước cứng
+ Phương pháp kết tủa:Áp dụng với nước cứng tạm thời: Đun sôi nước trước khi dùng.Để ngội lọc bỏ kết tủa được nước mềm.
PTHH: 	Ca(HCO3)2t0 CaCO3 ↓ + CO2 + H2O
	Mg(HCO3)2t0 MgCO3 ↓ + CO2 + H2O
Dùng nước vôi (Ca(OH)2 ) vừa đủ hoặc sođa (Na2CO3).
PTHH:	Ca2+ + CO32- → CaCO3
Mg2+ + Na2CO3 + Ca(OH)2 → Mg(OH)2 + CaCO3 + 2 Na+
+ Phương pháp trao đổi ion: Là phương pháp phổ biến để làm mềm nước cứng.Phương pháp này dựa trên khả năng trao đổi của các hạt zeolit có trong tự nhiên hoạc được tổng hợp.
2.3.7. Kỹ năng thứ 7:Kĩ năng nhận biết không khí,đất, nguồn nước bị ô nhiễm, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Cơ sở lý thuyết: Trong bài 58: Hóa học và vấn đề môi trường (SGK hóa học 12) :
+ Ô nhiễm không khí: Ô nhiễm môi trương không khí là hiện tượng làm cho không khí sạch thay đổi thành phần, có nguy cơ gây tác hại đến thực vật, động vật, sức khỏe con người và môi trường xung quanh.Không khí sạch thường gồm: 78% khí nitơ, 21% khí oxi và một lượng nhỏ khí cacbonic và hơi nước. Không khí bị ô nhiễm thường quá mức cho phép nồng độ các khí CO2, CH4 và một số khí độc khác, thí dụ:CO, NH3, SO2 và một số vi khuẩn gây bệnh.
Tình trạng ô nhiễm không khí vượt mức báo động (Ảnh minh họa).
Ô nhiễm không khí ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người mà những biểu hiện dễ nhận thấy là chảy nước mắt, đỏ mắt, ho, thở khò khè Mức độ ảnh hưởng tùy thuộc vào tình trạng sức khỏe của từng người, vào nồng độ của loại chất gây ô nhiễm và thời gian tiếp xúc. Phụ nữ mang thai và trẻ em nếu tiếp xúc với không khí ô nhiễm trong khoảng thời gian dài sẽ có nguy cơ bị tổn hại sức khỏe lâu dài, ở mức độ nghiêm trọng hơn. Những tác động xấu của ô nhiễm không khí không chừa bất cứ ai là đẩy nhanh quá trình lão hóa, giảm chức năng của phổi, dễ mắc các bệnh hen suyễn, viêm phế quản, thậm chí có thể bị ung thư...
Những năm gần đây, các bệnh ở trẻ em liên quan đến ô nhiễm không khí có xu hướng tăng cao, nổi bật là bệnh suyễn, nhiễm khuẩn đường hô hấp, lao, viêm phổi, bại não, ung thư và các dị tật bẩm sinh.. Không khí kém chất lượng ảnh hưởng tới tình trạng trẻ em sinh ra có chỉ số cân nặng thấp, theo nghiên cứu của các nhà khoa học Mỹ dựa trên 3 triệu ca sinh nở được ghi nhận tại 9 quốc gia ở Bắc và Nam Mỹ, châu Âu, châu Á và châu Ú. Chỉ số cân nặng thấp - khi một trẻ em mới sinh có cân nặng dưới 2,5kg - sẽ khiến đứa trẻ gặp các vấn đề về sức khỏe. Ngày 17.10, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đã xếp ô nhiễm không khí ngoài trời là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây các căn bệnh ung thư ở người. Cơ quan Nghiên cứu Quốc tế về Ung thư (IARC) ngày 16/10 cũng tuyên bố rằng ô nhiễm không khí là một nguyên nhân dẫn đến gây ung thư, cùng với những tác nhân nguy hiểm khác được biết đến như amiăng (một loại khoáng chất tự nhiên thường được sử dụng trong xây dựng), thuốc lá và bức xạ tia cực tím. Thông báo trên được đưa ra sau đưa ra sau khi có kết quả nghiên cứu của nhóm chuyên gia của IARC thuộc Tổ chức Y tế Thế giới có trụ sở tại Lyon, Pháp. Theo các số liệu thống kê mới nhất của IARC, năm 2010, hơn 220.000 trường hợp tử vong do ung thư phổi trên toàn thế giới có liên quan đến ô nhiễm không khí và đây cũng là nguyên nhân liên quan đến tăng nguy cơ gây ung thư bàng quang.
+ Ô nhiễm nước: Là hiện tượng làm thay đổi thành phần tính chất của nước gây bất lợi cho môi trường nước, phần lớn do các hoạt động khác nhau của con người gây nên. Nước sạch không chứa các vi khuẩn gây bệnh và các chất hóa học làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Nước sạch nhất là nước cất thành phần chỉ có nước. Ngoài ra nước sạch là nước còn được quy định về thành phần giới hạn một số ion, một số ion kim loại nặng, một số chất thải nồng độ dưới mức cho phép của tổ chức Y tế thế g

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_van_dung_kien_thuc_hoa_hoc_gop_phan_hinh_thanh_va_giao.docx