SKKN Ứng dụng phương pháp dạy học tích cực nhằm tích hợp kĩ năng sống vào giảng dạy một số bài GDCD lớp 10

SKKN Ứng dụng phương pháp dạy học tích cực nhằm tích hợp kĩ năng sống vào giảng dạy một số bài GDCD lớp 10

 Trong điều kiện của nền kinh tế nước ta hiện nay đang phát triển mạnh mẽ bên cạnh những thành tựu của khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão trên thế giới mở ra thời kì hội nhập quốc tế làm cho con người tiếp cận với những tri thức nhanh hơn, hiệu quả hơn bên cạnh đó kèm theo mặt trái tiêu cực ngoài xã hội đã tác động không nhỏ đến suy nghĩ và hành động của HS, cộng với sự phối hợp của các ngành chức năng còn lỏng lẻo, một mặt các em chưa được sự quan tâm chăm sóc, động viên, giáo dục từ phía gia đình như cha mẹ chỉ biết lao vào kiếm tiền mà không quan tâm gì đến việc học tập, sinh hoạt và những hoạt động khác của con em mình như thế nào; mặt khác về phía nhà trường thì nội dung chương trình giáo dục đạo đức- giáo dục công dân có bài còn nặng về lí thuyết, ít liên hệ với thực tiễn địa phương, phương pháp giảng dạy của một số giáo viên chậm đổi mới còn nặng về phương pháp truyền thống nên ít nhiều chưa cuốn hút được học sinh.

 Công tác giáo dục đạo đức lối sống cho HS ở những nơi còn mang nặng dạy “chữ” nhẹ về dạy “người”, còn nặng về biện pháp xử lí kỷ luật hơn tìm biện pháp ngăn chặn. Trong nhà trường một số thầy cô chưa thể hiện hết trách nhiệm của mình trong việc giáo dục và định hướng cho HS.

 Thực tế hiện nay một bộ phận lớn HS còn thiếu hiểu biết về pháp luật, đạo đức, lối sống. Đặc biệt kĩ năng sống còn kém, chưa biết ứng xử với lối sống có văn hóa và chưa biết đấu tranh với những văn hóa đồi trụy, phản động, chưa nhận thức được việc phạm tội, vi phạm đạo đức của mình, chủ yếu là đua đòi phạm tội một cách hồn nhiên, ít chịu tu dưỡng, rèn luyện, sống buông thả theo thị hiếu tầm thường. Nhiều em có hoàn cảnh kinh tế khá nhưng thiếu ý chí vươn lên tự buông thả mình và trượt dài trên con đường vi phạm pháp luật, đạo đức.

 Vấn đề HS hiện nay thiếu kĩ năng sống, thiếu tự tin, tự lập, sống ích kỉ, vô tâm, thiếu trách nhiệm với gia đình, và bản thân đang là những cản trở lớn cho sự phát triển của thanh thiếu niên hiện nay khiến không ít các bậc làm cha mẹ phải phiền lòng vì con, khiến nhà trường phải bận tâm vì những đối tượng HS này trong một xã hội phát triển năng động như hiện nay mà đúng ra các em sẽ rất năng động, tự tin khi được thể hiện mình trong cuộc sống và trong sinh hoạt, học tập.

 

doc 20 trang thuychi01 6122
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Ứng dụng phương pháp dạy học tích cực nhằm tích hợp kĩ năng sống vào giảng dạy một số bài GDCD lớp 10", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỞ ĐẦU :
 1.1. Lý do chọn đề tài:
 Trong điều kiện của nền kinh tế nước ta hiện nay đang phát triển mạnh mẽ bên cạnh những thành tựu của khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão trên thế giới mở ra thời kì hội nhập quốc tế làm cho con người tiếp cận với những tri thức nhanh hơn, hiệu quả hơnbên cạnh đó kèm theo mặt trái tiêu cực ngoài xã hội đã tác động không nhỏ đến suy nghĩ và hành động của HS, cộng với sự phối hợp của các ngành chức năng còn lỏng lẻo, một mặt các em chưa được sự quan tâm chăm sóc, động viên, giáo dục từ phía gia đình như cha mẹ chỉ biết lao vào kiếm tiền mà không quan tâm gì đến việc học tập, sinh hoạt và những hoạt động khác của con em mình như thế nào; mặt khác về phía nhà trường thì nội dung chương trình giáo dục đạo đức- giáo dục công dân có bài còn nặng về lí thuyết, ít liên hệ với thực tiễn địa phương, phương pháp giảng dạy của một số giáo viên chậm đổi mới còn nặng về phương pháp truyền thống nên ít nhiều chưa cuốn hút được học sinh.
 Công tác giáo dục đạo đức lối sống cho HS ở những nơi còn mang nặng dạy “chữ” nhẹ về dạy “người”, còn nặng về biện pháp xử lí kỷ luật hơn tìm biện pháp ngăn chặn. Trong nhà trường một số thầy cô chưa thể hiện hết trách nhiệm của mình trong việc giáo dục và định hướng cho HS.
 Thực tế hiện nay một bộ phận lớn HS còn thiếu hiểu biết về pháp luật, đạo đức, lối sống. Đặc biệt kĩ năng sống còn kém, chưa biết ứng xử với lối sống có văn hóa và chưa biết đấu tranh với những văn hóa đồi trụy, phản động, chưa nhận thức được việc phạm tội, vi phạm đạo đức của mình, chủ yếu là đua đòi phạm tội một cách hồn nhiên, ít chịu tu dưỡng, rèn luyện, sống buông thả theo thị hiếu tầm thường. Nhiều em có hoàn cảnh kinh tế khá nhưng thiếu ý chí vươn lên tự buông thả mình và trượt dài trên con đường vi phạm pháp luật, đạo đức.
 Vấn đề HS hiện nay thiếu kĩ năng sống, thiếu tự tin, tự lập, sống ích kỉ, vô tâm, thiếu trách nhiệm với gia đình, và bản thân đang là những cản trở lớn cho sự phát triển của thanh thiếu niên hiện nay khiến không ít các bậc làm cha mẹ phải phiền lòng vì con, khiến nhà trường phải bận tâm vì những đối tượng HS này trong một xã hội phát triển năng động như hiện nay mà đúng ra các em sẽ rất năng động, tự tin khi được thể hiện mình trong cuộc sống và trong sinh hoạt, học tập.
 Vấn đề khác là tình trạng bạo lực học đường ngày càng tăng và có dấu hiệu lan rộng làm cho HS lo lắng làm thế nào để bảo vệ mình an toàn khi đi học từ nhà đến trường khi có nhóm đối tượng xấu rình rập, ức hiếp những HS ngoan hiềnnhiều HS có cuộc sống khép kín với thực tại, luôn đắm mình vào thế giới ảo của Internet 
của thế giới game, mà quên đi hoặc đánh mất những cơ hội kết bạn, thể hiện khả năng tiềm ẩn của mình trước đám đông và ngoài xã hội.
 Trước những yêu cầu thiết thực trên bộ môn GDCD giữ vai trò quan trọng và trực tiếp trong việc giáo dục cho học sinh ý thức và hành vi người công dân, phát triển tâm lực và nhân cách con người toàn diện. Tuy nhiên, thực tế khi xét về phương diện nào đó thì vai trò của môn học này chưa được nhìn nhận một cách đúng đắn như nó vốn có. Môn GDCD thường bị các em coi nhẹ, “học đối phó để lấy điểm”. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần tích cực đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học là rất cần thiết nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, của học sinh; Mặt khác, góp phần vào việc đào tạo nguồn nhân lực và những công dân mới có tính năng động, sáng tạo, thích ứng với cơ chế thị trường, có phẩm chất và năng lực để thực hiện thành công sự nghiệp CNH- HĐH ở nước ta hiện nay và phù hợp với xu thế chung của thời đại.
 Với phạm vi đề tài “Ứng dụng phương pháp dạy học tích cực nhằm tích hợp kĩ năng sống vào giảng dạy một số bài GDCD lớp 10” tôi hy vọng cung cấp cho động nghiệp những kinh nghiệm nho nhỏ trong thời gian đứng lớp vừa qua, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy của bộ môn góp phần tích cực hóa việc học tập của HS thục hiện mục tiêu chung của nền giáo dục đào tạo nước nhà. 
1.2. Mục đích nghiên cứu :
 Thông qua việc tìm hiểu, nghiên cứu từ thực tế những tiết dạy môn học GDCD ở trường THPT Hoằng Hoá 4, với đề tài này tôi xin đề xuất sử dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực làm thế nào có thể biến hành vi từ chương trình kiến thức đã học trong chương trình thành hành động cụ thể đi vào cuộc sống của cá nhân một cách hiệu quả, tổ chức trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, xã hôi. Giúp HS giải quyết được nhu cầu và thách thức của cuộc sống một cách có hiệu quả thông qua bài dạy.
Giúp HS có kiến thức, thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. 
KNS giúp các em có kỹ năng vững vàng trước khó khăn, thử thách; biết ứng xử giải quyết vấn đề một cách tích cực và phù hợp trong cuộc sống, luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống của mình.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Một số bài trong chương trình GDCD 10 .
- Độ tuổi HS THPT là độ tuổi các em có nhiều biến động vầ tâm- sinh lý cần có những KNS sống cơ bản.
 - Vận dụng tất cả những phương pháp dạy học nhằm tích hợp kĩ năng sống mà trọng tâm là ứng dụng vào giảng dạy nhằm giáo dục kỹ năng sống cho HS THPT.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong phạm vi bài viết của mình tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết để nghiên cứu sách giáo khoa
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
 - Phương pháp tư duy động não.
 - Phương pháp giải quyết tình huống.
 - Phương pháp xử lí tình huống, phim, ảnh, biểu đồ 
1.5. Đóng góp của đề tài :
a. Về mặt lí luận:
 Phương pháp dạy học là một phạm trù rất phức tạp cà về mặt lí luận lẫn thực tiễn. Vì thế, việc ứng dụng nhiều phương pháp dạy học bằng cách nào đó có thể tích hợp giáo dục KNS vào trong chương trình giảng dạy là vấn đề mà hiện nay nhiều giáo viên còn băn khoăn, lúng túng. Muốn đạt được hiệu quả của việc tích hợp giáo dục KNS đòi hỏi người dạy phải kết hợp nhuần nhiễn, hợp lí những phương pháp nào có khả năng làm cho người nhận kiến thức phải thật sự thu hút, lôi cuốn như đang đắm mình trong một môi trường thực của cuộc sống đang diễn ra trước mắt. Đồng thời, việc tích hợp KNS phải được diễn ra liên tục trong những tiết dạy tiếp theo, làm sao cho HS tích tụ lại kiến thức theo kiểu mưa giầm thấm lâu thì KNS của các em hình thành, do đó việc sử dụng phương pháp nào lồng ghép vào mục nào trong bài dạy có ý nghĩa quyết định rất lớn đến chất lượng của HS, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục tri thức cũng như giáo dục KNS cho HS.
b. Về mặt thực tiễn:
Đề xuất việc sử dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực nhằm tích hợp kỹ năng sống vào giảng dạy một số bài trong chương trình GDCD 10. Mục đích vừa cung cấp cho HS những kỹ năng sống cơ bản có thể ứng phó với những thách thức trước yêu cầu phát triển của xã hội; đồng thời làm giảm bớt sự đơn điệu, khô khan trong tiếp nhận tri thức của người học.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2 .1. Cơ sở lí luận:
Tích hợp KNS vào trong bộ môn GDCD 10 là xuất phát từ yêu cầu đổi mới của BGD& ĐT, xuất phát từ yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông. Giáo dục KNS càng trở nên cấp thiết đối với thế hệ trẻ hiện nay, bởi vì: Thế hệ trẻ là chủ nhân tương lai của đất nước. Nếu không có KNS, các em sẽ không thực hiện tốt trách nhiệm của bản thân, gia đình và xã hội. 
Mục tiêu của giáo dục nước nhà đã chuyển từ mục tiêu cung cấp kiến thức là chủ yếu sang hình thành và phát triển thành những năng lực cần thiết ở người học, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển trong thời kì mới, thế kỉ XXI. Tích hợp KNS vào bộ môn GDCD nhằm đáp ứng mục tiêu chung về con người mới cho xã hội năng động như hiện nay; học để biết, học để làm, học để khẳng định mình không bị tụt hậu so với thời đại.
2.2. Cơ sở thực tiễn:
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế như hiện nay thì việc tích hợp KNS vào giảng dạy trong bộ môn GDCD là hết sức cần cấp bách, vì lứa tuổi HS THPT đang hình thành những giá trị sống với những ước mơ, hoài bão luôn tìm tòi khám phá nhưng lại thiếu hiểu biết sâu sắc về kiến thức xã hội, thiếu KNS nên dễ bị lôi kéo, kích động có những hành vi tiêu cực, bạo lực, sống ích kỉ, thực dụng và rơi vào phạm tội: Đua xe, nghiện hút, chích ma túy, cãi thậm chí hành hung cha mẹ
Vì vậy, việc tích hợp KNS vào môn GDCD chính là rèn luyện hành vi có trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng và tổ quốc. Giúp các em có khả năng ứng phó tích cực, trước tình huống của cuộc sống nhằm xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với những người xung quanh, chủ động an toàn, hài hòa và lịch sự.
Thực tế ở trường phổ thông hiện nay việc đưa nội dung vệ KNS vào chương trình môn học còn sơ sài, thiếu tính hệ thống. Vì vậy việc hiểu biết của các em về KNS còn nhiều hạn chế và thực sự chưa mang lại hiệu quả.
	Để hiểu rõ thực tiễn giảng dạy tích hợp kiến thức KNS trong dạy học môn GDCD nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh, tôi đã tiến hành khảo sát thực tế ở trường THPT Hoằng Hoá 4: Cụ thể tôi đã chọn 4 lớp ở khối 10 làm thí điểm
- Số lượng học sinh: 170 em.
- Lớp đối chứng : 10A7, 10A8.
- Lớp thực nghiệm : 10A9, 10A11.
 Đặc điểm học sinh : Học sinh có điểm chung đều là các em theo ban khoa học xã hội. Việc chọn học sinh sẽ có những ưu điểm và nhược điểm nhất định.
 Về ưu điểm: Các em đều là học sinh lớp khối C nên khá nhạy cảm, phân tích, đánh giá vấn đề tương đối tốt. Mặt khác các em cũng có ý thức học tập, có niềm đam mê tìm tòi khám phá .
 Về nhược điểm: Là học sinh lớp 10 nên các em chưa có hiểu biết sâu về các vấn đề liên quan đến kiến thức môn GDCD, một số em còn chưa chú trọng môn học mà tập trung nhiều vào các môn khối. 
 Chính vì vậy, khi chọn đối tượng học sinh trên tôi mong muốn với những điểm mới của mình trong phương pháp tích hơp kiến thức sẽ làm tăng hứng thú cho các em trong việc học tập môn GDCD, giúp các em tìm tòi khám phá những kiến thức liên quan với nhau, những hình ảnh sống động, gần gũi và các em không còn e ngại với các môn xã hội trong đó có môn GDCD.
2.3. Thực trạng của vấn đề :
Đối với các trường THPT hiện nay việc đưa vào tích hợp KNS trong chương trình môn học là hoàn toàn mới mẽ, vì chương trình này mới được BGD& ĐT triển khai vào tháng 11/2012 . Vì thế, vấn đề vận dụng tích hợp KNS vào trong bộ môn học cụ thể gặp rất nhiều khó khăn là điều không thể tránh khỏi.
 Nhưng trong thực tế việc giảng dạy ở bộ môn này gặp rất nhiều khó khăn bất cập vì từ trước tới nay bộ môn vẫn xem là một môn học phụ có vai trò thứ yếu và mờ nhạt trong nhà trường, việc giảng dạy thường diễn ra một cách khô khan, nặng nề, đơn điệu ít gây hứng thú cho HS; Do đó chất lượng và hiệu quả giảng dạy còn thấp, chưa mang lại hiệu quả giáo dục, đặc biệt HS chưa thấy được những điều bổ ích rõ rệt, việc học tập chưa gắn với thực tiễn nhất là những thay đổi mau lẹ diễn ra 
trong cuộc sống hàng ngày. Trên thực tế các em học sinh chưa có kiến thức về KNS, cụ thể như kết quả khảo sát cho thấy trước khi đã tìm hiểu những vấn đề về KNS: 
Lớp
Sĩ số
 Về sự hiểu biêt
 Áp dụng thực tế
Không biết
Biết it
Có biết
Không biết
Biết ít
Có áp dụng
10A7
44
18%
54%
28%
23%
66%
11%
10A8
42
14%
63%
23%
34%
46%
20%
10A9
41
11%
68%
21%
29%
54%
17%
10A11
43
9%
66%
25%
28%
47%
25%
Tổng
170
12%
64,1%
23,9%
31,1%
50,2%
18,7%
Bảng khảo sát sự hiểu biết của học sinh về KNS (phụ lục 1)
 Qua kết quả thống kê ta thấy rằng nói chung một số học sinh cũng ít 
biết về vấn đề KNS mà ở lứa tuổi các em là tuổi đang phát 
triển cả về trí lực và thể lực nên các em cần phải hiểu tầm quan trọng của KNS trong cuộcsống. 
 Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam, năm học 2009 – 
2010 trên toàn quốc đã xảy ra khoảng 1.598 vụ việc học sinh đánh nhau ở trong 
và ngoài trường học. Các nhà trường đã xử lý kỷ luật khiển trách 881 học sinh, 
cảnh cáo 1. 558 học sinh, buộc thôi học có thời hạn (3 ngày, 1 tuần, 1 năm học) 
735 học sinh. Theo số lượng trường học và học sinh hiện nay thì cứ 5.260 học 
sinh lại xảy ra một vụ đánh nhau, và cứ 9 trường học lại xảy ra một vụ đánh 
nhau. Cứ 10.000 học sinh thì lại có 1 học sinh bị kỷ luật khiển trách, cứ 5.555 
học sinh thì lại có 1 học sinh bị kỷ luật cảnh cáo vì đánh nhau, cứ 11.111 học 
sinh thì có 1 học sinh bị buộc thôi học có thời hạn vì đánh nhau. 
Theo kết quả khảo sát của Viện Nghiên cứu và phát triển giáo dục Việt 
Nam năm 2010, tỉ lệ học sinh đi học muộn: THPT 58%; tỉ lệ quay cóp: THPT 
60%; tỉ lệ nói dối cha, mẹ: THPT 64%; tỉ lệ không chấp hành an toàn giao 
thông: THPT 70%, ... Những con số này cho thấy, càng lớn ý thức đạo đức của học sinh càng đi xuống . 
  Từ những thách thức và yêu cầu cấp bách trên thì việc đưa KNS vào trong giảng dạy là hết sức cần thiết và bổ ích, góp phần quan trọng to lớn vào sự hình thành nhân cách cũng như KNS cho HS. Tuy nhiên, lồng ghép vào mục nào trong bài, sử dụng phương pháp gì nhìn chung vẫn còn hạn chế hoặc xa lạ đối với một số GV khi kinh nghiệm thực tế chưa nhiều.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên, trong đó có nguyên nhân chủ yếu sau đây:
 * Về phía xã hội:
 Trong những năm trở lại đây nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để đưa đất nước phát triển sánh kịp với bạn bè quốc tế. Vì thế, chính sách mở cửa hội nhập kinh tế toàn cầu đã đem lại chất lượng cuộc sống tốt hơn. Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ đó đã kèm theo mặt trái tiêu cực ngoài xã hội, tác dộng không nhỏ đến suy nghĩ và hành động của HS cộng với sự phối hợp lỏng lẽo của một số ngành chức năng, không khó lắm để mọi người nhìn thấy quán Internet mọc đầy dãy hai bên đường mà không tuân thủ hoạt động theo giờ giấc nào miễn sao có khách là tiếp nhận. Chưa hết, gần đây báo chí và thông tin đại chúng đã lên tiếng cảnh báo đối với những loại sách, tranh ảnh mang nội dung khiêu dâm, đồi trụy, băng đĩa hình tràn ngập thị trường với nội dung tương tự bày bán công khai. Facebook, Game online, đồ chơi trẻ em như kiếm, súngmang tính chất bạo lực, nhiều tệ nạn xã hội khácnhững sân chơi lành mạnh, những khu vui chơi giải trí công cộng còn ít, sự phục hồi giá trị văn hóa truyền thống ở nhiều nơi chưa chú trọng, cho thấy việc quản lí và xử lí chưa nghiêm là vấn đề đáng lo ngại và báo động trong xã gội hiện nay. 
* Về phía ngành giáo dục và nhà trường.
 Nhận thức được tầm quan trọng trong ngành giáo dục, những năm qua BGD& ĐT đã đưa vào giảng dạy với nhiều chương trình ngoại khóa như: Hoạt động ngoài giờ lên lớp, hướng nghiệp, giáo dục pháp luật về môi trường, an toàn giao thôngTiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học lấy HS làm trung tâm, xây dựng phong trào “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” đã được các thầy cô và các em HS hưởng ứng tích cực. Bằng tình thương và trách nhiệm với HS, những năm qua đã xuất hiện nhiều tấm gương điển hình tiên tiến học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM, cả thầy và trò đều nhận danh hiệu này. Có nhiều giáo viên tận tâm ngoài việc truyền đạt tri thức còn giúp đỡ các em có hoàn cảnh khó khăn biết tự mình vươn lên học tập, trong cuộc sốngđiều đó phần nào làm giảm đáng kể tình trạng nêu trên.
 Tuy nhiên ở những nơi còn nặng về dạy “chữ” mà chưa trú trọng về dạy “người”, công tác Đoàn trong nhà trường còn nặng về hình thức, chưa đi vào chiều sâu nên chưa cuốn hút HS tham gia tích cực. Tình trạng xuống cấp về đạo đức, lối sống, tình hình tội phạm và bạo lực học đường trong nội bộ ngành và nhà trường đã và đang diễn ra theo chiều hướng khó kiểm soát. Đây là điều trăn trở gây lo lắng và bức xúc trong toàn xã hội, đặc biệt là những người làm công tác giáo dục và những người mang trọng trách cao cả trong sự nghiệp “trồng người”.
 * Về phía gia đình.
 Trong xã hội phát triển năng động như hiện nay các bậc phụ huynh phải lao động kiếm tiền, ngoài việc phục vụ cho cuộc sống gia đình, chăm sóc cho con cái học hành và nhiều vấn đề phải lo lắng khác với thời kỳ bão giá như hiện nay. Nhưng có lẽ điều mà phụ huynh quan tâm nhất là trẻ thiếu KNS, thiếu tính tự lập, sống ích kỷ vô tâm thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội làm cho cha mẹ không phải chạnh lòng. 
 Trước tình hình phực tạp diễn ra trong cuộc sống nhiều phụ huynh chỉ lo kiếm tiền thật nhiều mà không quan tâm gì đến việc học tập và giáo dục con cái. Vì họ cho rằng cho con cái họ có cuộc sống sung túc, đầy đủ thì con em mình sẽ có điều kiện phát triển năng động. Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến nhiều phụ huynh phải ngậm ngùi hối tiếc khi con mình trượt dài và đắm mình với thế giới ảo game online, quan hệ với bạn bè xấu lao vào tệ nạn xã hội: Cướp giật, ma túy thậm chí là giết ngườilúc phát hiện ra đã quá muộn màng.
 Lo lắng về một lớp trẻ thiếu kỹ năng sống, nhiều phụ huynh bên cạnh việc cho con đi học các môn như ngoại ngữ, thể thao, năng khiếu cũng cho con tham gia những lớp về giao tiếp ứng xử tại các trung tâm văn hoá. Đó cũng là những dấu hiệu tích cực cho thấy phụ huynh không còn phó mặc việc giáo dục con em cho nhà trường như trước nữa nhưng có một điều căn bản mà ít bậc phụ huynh có thể nhận ra rằng vai trò của gia đình, trách nhiệm của người làm cha, mẹ chính là môi trường giáo dục kỹ năng sống đầu tiên cho con họ.
 Khi những sự việc đáng tiếc xảy ra, điều đầu tiên mà người ta nhắc tới là sự giáo dục lỏng lẻo của nhà trường rồi mới tới trách nhiệm của gia đình. Nhưng bài học đầu đời về học ăn, học nói, học cách đối nhân xử thế lại bắt nguồn từ cách cha mẹ đối xử với con cái, với những người xung quanh. Rõ ràng, giá trị sống trong mỗi gia đình là giải pháp đầu tiên. Hãy để trẻ trải nghiệm những kỹ năng sống “thật” trong môi trường gia đình (một xã hội thu nhỏ) trước khi bước ra một môi trường lớn hơn, phức tạp hơn.
 * Về phía học sinh: 
Lứa tuổi HS THPT là lứa tuổi đang có sự thay đổi mạnh mẽ về thể chất lẫn tinh thần, chính vì có sự biến động về mặt tâm- sinh- lý nên các em rất năng động, luôn tìm tòi, khám phá, có những ước mơ và hoài bảo lớn. Vì thế, độ tuổi này có những em rất ngoan biết vượt lên số phận, nhưng có những HS rất khó dạy bảo, không muốn ai chỉ trích nói đến mình ngay cả lời dạy bảo của cha mẹ, HS cho là cổ hữu, luôn đề cao cái tôi của mình rất lớn, quan niệm sống buông thả, tầm thường, lố bịch, luôn đua đòi học theo những thị hiếu mà các em cho rằng đó là cái mốt, thời thượng của một xã hội phát triển đem lại. 
Trước những hành vi của lứa tuổi này chứng tỏ các em thiếu kiến thức xã hội nên dễ dàng bị lôi kéo vào những lối sống thiếu lành mạnh, thói quen sống buông thả chính là nguyên nhân đem đến hậu quả khó lường. Nói cách khác là các em thiếu KNS trước những thách thức và thay đổi nhanh chóng của hệ quả xã hội phát triển để lại hiện nay.
 Lối sống buông thả và thác loạn của giới trẻ hiện nay.
 HS tham gia vào các tệ nạn xã hội
Trong khi có những HS biết vươn lên từ hoàn cảnh, có ước mơ hoài bảo lớn thì vẫn còn một bộ phận HS ham chơi, đua đòi, chạy theo những thói hư tật xấu, điển hình, thời gian gần đây, dư luận xã hội lên án mạnh mẽ những hành vi bạo lực trong học sinh. Mọi người chưa hết bàng hoàng khi tận mắt chứng kiến hoặc gián tiếp xem qua thời sự VTV3 đài TH VN, trên InternetCó thể suy nghĩ gì khi nhiều bạn cung lớp chỉ đứng nhìn cổ vũ, khiêu khích cho bạo lực tăng thêm, sau đó quay lại những hình ảnh của bạn mình rồi tung lên Internet cho mọi người cùng chiêm ngưỡng, ngay cả khi có người lớn đi qua mà không hề can ngănnhững hình ảnh thật sự đã gây chấn động đến các ngành chức năng có liên quan phải quan tâm về vấn đề đạo đức, lối sống của HS hiện nay. 
Có thể nói lên hiện trạng các em thiếu KNS một cách trầm trọng, tình trạng không tự tin làm chủ bản thân, thường vi phạm đạo đức, chạy theo những thị hiếu tầm thường, lố bịch đang là xu hướng chung của giới trẻ hiện nay. Chúng ta nhìn thấy những quán Internet dọc hai bên đường lúc nào cũng đông HS, dù thời gian đó là đang học, không kể ngày hay đêm những HS này đang đắm mình vào một thế giới “ảo” thay vì thời gian đó là để nghỉ ngơi, tham gia vận động rèn luyện sức khỏe. 
Vấn đề khác nổi lên hiện nay là lối sống buông thả của một phận HS, các em nhầm lẫn giữa tình bạn và tình yêu, quan niệm tình yêu cởi mở hơn, họ yêu sớm và “sống thử” sau đó ghi lại những hình ảnh cho là kỉ niệm ấy tung lên Internet cho mọi người cũng thưởng thức. Biểu hiện của hành vi nêu trên đã xâm phạm đến danh d

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_ung_dung_phuong_phap_day_hoc_tich_cuc_nham_tich_hop_ki.doc