SKKN Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo của học sinh lớp 11C1 trường THPT Tĩnh gia 2 trong dạy học chương Từ trường và Cảm ứng điện từ Vật lý lớp 11 THPT
Như chúng ta đã biết, trong thời đại hiện nay việc giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ ở bậc THPT không những chỉ trang bị cho các em kiến thức lí thuyết trong sách vở để phục vụ cho các kì thi, mà còn phải giáo dục các kĩ năng sống, kĩ năng thực hành, học đi đôi với hành, các em học sinh phải biết vận dụng các kiến thức lí thuyết học được trên lớp trong sách vở vào thực tiễn cuộc sống. Để đạt được điều này, trong chương trình giáo dục hiện hành Bộ GD&ĐT đã đưa vào các tiết học hoạt động ngoài giờ lên lớp, thực hành, ngoại khoá và cũng có nhiều tác dụng hỗ trợ tích cực để các em học sinh được phát triển toàn diện cả về kiến thức, kỹ năng, phẩm chất.
Tuy nhiên, các hoạt động trên (hoạt động ngoài giờ lên lớp) mà hiện nay chúng ta đang tiến hành trong trường phổ thông chủ yếu được tổ chức dựa trên các chủ đề đã được quy định trong chương trình với các hình thức còn chưa phong phú và học sinh thường được chỉ định, phân công tham gia một cách bị động. Giáo viên tổ chức hoạt động cho học sinh nhưng không rõ hoạt động đó sẽ hướng tới hình thành những năng lực gì của các em. Điều đó không phù hợp với một chương trình định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh, cần phải thay đổi. Vì vậy trong đề án xây dựng chương trình giáo dục phổ thông mới của Bộ GD&ĐT sẽ được thực hiện từ năm 2020 có hai hoạt động giáo dục chính là dạy học các môn và trải nghiệm sáng tạo. Trong Chương trình mới, các hoạt động tập thể, hoạt động ngoài giờ dạy học trên lớp sẽ phong phú hơn cả về nội dung, phương pháp và hình thức hoạt động, đặc biệt, mỗi hoạt động phải phù hợp với mục tiêu phát triển những phẩm chất, năng lực nhất định của học sinh; nghĩa là học sinh được học từ trải nghiệm.
MỞ ĐẦU I. Lí do chọn đề tài [3] Như chúng ta đã biết, trong thời đại hiện nay việc giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ ở bậc THPT không những chỉ trang bị cho các em kiến thức lí thuyết trong sách vở để phục vụ cho các kì thi, mà còn phải giáo dục các kĩ năng sống, kĩ năng thực hành, học đi đôi với hành, các em học sinh phải biết vận dụng các kiến thức lí thuyết học được trên lớp trong sách vở vào thực tiễn cuộc sống. Để đạt được điều này, trong chương trình giáo dục hiện hành Bộ GD&ĐT đã đưa vào các tiết học hoạt động ngoài giờ lên lớp, thực hành, ngoại khoá và cũng có nhiều tác dụng hỗ trợ tích cực để các em học sinh được phát triển toàn diện cả về kiến thức, kỹ năng, phẩm chất. Tuy nhiên, các hoạt động trên (hoạt động ngoài giờ lên lớp) mà hiện nay chúng ta đang tiến hành trong trường phổ thông chủ yếu được tổ chức dựa trên các chủ đề đã được quy định trong chương trình với các hình thức còn chưa phong phú và học sinh thường được chỉ định, phân công tham gia một cách bị động. Giáo viên tổ chức hoạt động cho học sinh nhưng không rõ hoạt động đó sẽ hướng tới hình thành những năng lực gì của các em. Điều đó không phù hợp với một chương trình định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh, cần phải thay đổi. Vì vậy trong đề án xây dựng chương trình giáo dục phổ thông mới của Bộ GD&ĐT sẽ được thực hiện từ năm 2020 có hai hoạt động giáo dục chính là dạy học các môn và trải nghiệm sáng tạo. Trong Chương trình mới, các hoạt động tập thể, hoạt động ngoài giờ dạy học trên lớp sẽ phong phú hơn cả về nội dung, phương pháp và hình thức hoạt động, đặc biệt, mỗi hoạt động phải phù hợp với mục tiêu phát triển những phẩm chất, năng lực nhất định của học sinh; nghĩa là học sinh được học từ trải nghiệm. Mặt khác, với đặc thù bộ môn Vật lý – một bộ môn khoa học thực nghiệm. Đa số các định luật vật lý đều được thiết lập và kiểm tra bằng cách thu thập và so sánh các số liệu thực nghiệm. Ngay cả những quy luật được xây dựng bằng con đường lí thuyết thuần túy, cũng chỉ có nghĩa là một định luật vật lý thực sự khi được thực nghiệm vật lý xác nhận. Vì vậy tiến hành thí nghiệm trong nghiên cứu vật lý học là một việc quan trọng không thể thiếu được. Sau thời gian tìm hiểu và nghiên cứu tác giả đã tìm ra cho mình một hướng đi mới trong giảng dạy nhằm hướng tới chương trình giáo dục phổ thông mới của Bộ GD&ĐT sẽ được thực hiện vào năm 2020. Vì vậy tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo của học sinh lớp 11C1 trường THPT Tĩnh gia 2 trong dạy học chương Từ trường và Cảm ứng điện từ vật lý lớp 11 THPT”, với mục tiêu: - Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo (HĐTNST) của học sinh lớp 11C1 với việc tự làm các mô hình, thí nghiệm trong chương “Từ trường và Cảm ứng điện từ” sau khi các em đã được nghiên cứu lí thuyết trong sách giáo khoa. Qua đó nhằm phát huy tính sáng tạo, kĩ năng thực hành thí nghiệm, kĩ năng làm việc theo nhóm. - Thông qua các sản phẩm mà các em trực tiếp làm ra với những bản báo cáo, những video quay lại những hoạt động của nhóm thì đòi hỏi ở các em học sinh những kiến thức ứng dụng công nghệ thông tin về soạn thảo văn bản, xây dựng các Slide trong phần mềm Powerpoint, khai thác ứng dụng của mạng internet về xây các video. - Thông qua buổi tổ chức seminar Vật lý với chủ đề: “Các mô hình, thí nghiệm tự làm trong chương Từ trường và Cảm ứng điện từ của lớp 11C1 trường THPT Tĩnh Gia 2”, nhằm tạo điều kiện để các em học sinh trong các nhóm có cơ hội giao lưu học hỏi lẫn nhau và quan trọng hơn là các em được trực tiếp giao lưu với các thầy cô trong tổ vật lý thông qua các câu hỏi phản biện, nhận xét, đánh giá về sản phẩm của từng nhóm, để từ đó các em hoàn thiện sản phẩm của nhóm mình. II. Mục đích nghiên cứu [3], [4] - Nâng cao chất lượng chất lượng giảng dạy bộ môn Vật lý nói chung, chương học Từ trường và Cảm ứng điện nói riêng. - Tạo chuyển biến đột phá mới trong công tác công tác giảng dạy với việc tổ chức HĐTNST nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Phát huy tinh thần làm việc theo nhóm, kỹ năng thực hành thí nghiệm, kĩ năng khai thác ứng dụng công nghệ thông tin ở các em học sinh và học qua trải nghiệm giúp học sinh không những có được năng lực thực hiện mà còn có những trải nghiệm về cảm xúc, ý chí và nhiều trạng thái tâm lý khác. - Bước đầu làm quên với việc tổ chức HĐTNST theo định hướng của Bộ GD&ĐT trong chương trình giáo dục phổ thông mới thực hiện vào năm 2020. III. Đối tượng nghiên cứu - Các mô hình và thí nghiệm trong chương Từ trường và Cảm ứng điện từ vật lý lớp 11 THPT. IV. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Nghiên cứu tài liệu từ sách, báo, mạng internet về chương học Từ trường và Cảm ứng điện từ. - Phương pháp thực nghiệm: Học sinh thiết kế chế tạo thiết bị, dụng cụ học tập gồm các mô hình và các thí nghiệm trong chương Từ trường và Cảm ứng điện từ. - Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm sư phạm: tổ chức seminar Vật lý (cho các nhóm thi với nhau). NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM I. Cơ sở lí luận 1.1. Những nét cơ bản đối với giáo dục phổ thông được nêu trong nghị quyết hội nghị TW 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo (NQ Số 29/TW) [3] - Về quan điểm chỉ đạo: Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. - Về mục tiêu: Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Hoàn thành việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015. Bảo đảm cho học sinh có trình độ trung học cơ sở (hết lớp 9) có tri thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở; trung học phổ thông phải tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng. Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2020. - Về mục tiêu, giải pháp: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học. 1.2. Công bố dự thảo chương trình giáo dục phổ thông mới của Bộ GD&ĐT [4] Thứ 6 ngày 19 tháng 01 năm 2018 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã công bố dự thảo chương trình giáo dục phổ thông mới gồm 20 môn học. Trong Chương trình mới có 2 loại hoạt động giáo dục chính là: Dạy học các môn và trải nghiệm sáng tạo. Tổng chủ biên GS Nguyễn Minh Thuyết cho biết, so với hiện hành chương trình các môn học có nhiều điểm mới, chú trọng việc hình thành và phát triển năng lực cho người học, đặc biệt là năng lực áp dụng kiến thức, kỹ năng đã học được vào giải quyết vấn đề của thực tiễn. Từ các năng lực đó, mỗi môn xác định nội dung và yêu cầu cần đạt riêng. Chương trình các môn về cơ bản đã giảm tải so với hiện hành. Kiến thức hàn lâm, lắt léo, chỉ phục vụ việc thi cử được giảm bớt, tích hợp một số môn thành một môn học; thay đổi phương pháp giảng dạy để học sinh được hoạt động nhiều hơn cũng là cách giảm tải cho chương trình. 1.3. Tìm hiểu về hoạt động trải nghiệm sáng tạo [4] Hoạt động TNST là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự hướng dẫn của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động khác nhau của đời sống nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình. Khái niệm này khẳng định vai trò định hướng, chỉ đạo, hướng dẫn của nhà giáo dục; thầy cô giáo, cha mẹ học sinh, người phụ trách Nhà giáo dục không tổ chức, không phân công học sinh một cách trực tiếp mà chỉ hướng dẫn, hỗ trợ, giám sát cho tập thể hoặc cá nhân học sinh tham gia trực tiếp hoặc ở vai trò tổ chức hoạt động, giúp học sinh chủ động, tích cực trong các hoạt động; phạm vi các chủ đề hay nội dung hoạt động và kết quả đầu ra là năng lực thực tiễn, phẩm chất và năng lực sáng tạo đa dạng, khác nhau của các em. Có thể kể ra một số hình thức HĐTNST: Hình thức có tính khám phá (thực địa, thực tế, tham quan, cắm trại); hình thức có tính triển khai (dự án và nghiên cứu khoa học, hội thảo, câu lạc bộ); hình thức có tính trình diễn (diễn đàn, giao lưu, sân khấu hóa); hình thức có tính cống hiến, tuân thủ (thực hành lao động việc nhà, việc trường, hoạt động xã hội – tình nguyện). Như vậy, trong tên gọi mới chúng ta phải hiểu rằng “trải nghiệm” là phương thức giáo dục và “sáng tạo” là mục tiêu giáo dục. HĐTNST còn có ưu thế trong việc thúc đẩy hình thành ở người học các năng lực đặc thù sau: Năng lực hoạt động và tổ chức hoạt động; Năng lực tổ chức và quản lý cuộc sống; Năng lực tự nhận thức và tích cực hóa bản thân; Năng lực định hướng nghề nghiệp; Năng lực khám phá và sáng tạo. HĐTNST giúp cho học sinh có nhiều cơ hội trải nghiệm để vận dụng những kiến thức học được vào thực tiễn, từ đó hình thành năng lực thực tiễn cũng như phát huy tiềm năng sáng tạo của bản thân. 1.4. Đặc điểm chương học Từ trường và Cảm ứng điện từ vật lý lớp 11 THPT [1], [2] Trong chương trình Vật lý lớp 9 THCS các em học sinh đã được cung cấp những kiến thức cơ bản về phần Từ trường và Cảm ứng điện từ trong chương II: Điện từ học. Các em đã được học các kiến thức lí thuyết về từ tính của nam châm; tương tác giữa hai nam châm; tác dụng từ của dòng điện; lực từ; khái niệm từ trường; làm thí nhiệm về từ phổ; đường sức từ, Có thể nói rằng, ở cấp học THCS các em đã có một kiến thức nền tảng ban đầu về mảng chủ đề này. Các em đã được thực hiện một số thí nghiệm như thí nghiệm Ơ-xtet; thí nghiệm về từ phổ của nam châm thẳng; nam châm hình chữ U; thí nghiệm xác định chiều của lực từ tác dụng lên dây dẫn có dòng điện; thí nghiệm về hiện tượng cảm ứng điện từ. Vì vậy, khi học ở lớp 11 sách giáo khoa vật lý nâng cao ban khoa học tự nhiên tiếp tục nâng tầm kiến thức ở mảng chủ đề này một cách hoàn thiện hơn. Các em đã được khảo sát một cách định lượng về mặt toán học để tìm ra những công thức tính toán các đại lượng vật lí như công thức xác định lực từ tác dụng lên đoạn dây dẫn mang dòng điện đặt trong Từ trường; biểu thức suất điện động cảm ứng; biểu thức lực Lo-ren-xơ, Chính vì mảng kiến thức này các em đã có được những hiểu biết ban đầu, nên ở lớp 11 giáo viên có thể có nhiều phương án trong việc xây dựng bài giảng của mình. Giáo viên có thể hướng dẫn các em tự nghiên cứu bài học để xây dựng kiến thức mới, hướng dẫn các em tự làm các đồ dùng học tập theo ý tưởng sáng tạo của mình. Có thể khảng định rằng, chương Từ trường và Cảm ứng điện từ là rất phù hợp cho việc tổ chức HĐTNST của học sinh. Các em có thể tự làm lại được các mô hình mà trong sách giáo khoa đã giới thiệu như mô hình đường sức từ của nam châm thẳng; nam châm hình chữ U; mô hình đường sức từ của dòng điện trong ống dây v.vvà các thí nghiệm như thí nghiệm về tương tác giữa hai dòng điện; thí nghiệm về hiện tượng cảm ứng điện từ; thí nghiệm về hiện tượng tự cảm. Việc tổ chức để các em tự mình làm được các mô hình, các thí nghiệm là hết sức quan trọng trong việc hình thành tư duy trong nghiên cứu khoa học, các em được thỏa sức sáng tạo với ý tưởng của mình, tự mình làm được các mô hình, các thí nghiệm thì các em lại càng nắm vững kiến thức lí thuyết trong sách giáo khoa. Học đi đôi với hành sẽ là động lực thôi thúc các em tìm tòi sáng tạo, rèn luyện kĩ năng thực hành, kĩ năng vận dụng kiến thức trong sách vở vào thực tiễn cuộc sống. II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Thực trạng của việc sử dụng các thiết bị thực hành thí nghiệm Vật lý ở các Trường THPT hiện nay Phần lớn ở các trường THPT hiện nay trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa nói chung, các trường trên địa bàn huyện Tĩnh Gia nói riêng, thì việc sử dụng các thiết bị thực hành thí nghiệm trong giảng dạy nói chung và bộ môn Vật lý nói riêng còn là vấn đề hết sức hạn chế, do nhiều nguyên nhân khác nhau, đó là: - Cơ sở vật chất, trang thiết bị cho một bài thực hành nói chung, bài tập thực hành thí nghiệm Vật lý nói riêng còn nhiều bất cập như thiếu trang thiết bị; trang thiết bị cũ kĩ đã hư hỏng không kịp thời sửa chữa và mua bổ sung; một số trang thiết bị, dụng cụ thí nghiệm thì mua về lại không sử dụng để lâu ngày nên hư hỏng hoặc vẫn còn để nguyên trên giá năm này qua năm khác; nhiều trường chưa có phòng học bộ môn. - Chưa có đội ngũ giáo viên, kỹ thuật viên chuyên trách đào tạo một cách bài bản, có trình độ chuyên môn thật sự về lĩnh vực này. Mỗi khi cần sử dụng các thiết bị thực hành thí nghiệm thì giáo viên bộ môn lại phải đăng kí mượn thiết bị thí nghiệm, rồi sau đó tự làm thử trước khi lên lớp mà lẽ ra công việc này phải có nhân viên thiết bị thí nghiệm chuẩn bị sẵn. Công việc này đòi hỏi giáo viên bộ môn phải mất rất nhiều thời gian, nên gây cho họ tâm lý “ngại” chuẩn bị và giảng dạy bằng thiết bị thí nghiệm. Chính vì vậy, phần lớn các thầy cô chọn phương án dạy “chay” đối với các bài giảng có sử dụng đồ dùng dạy học. Việc ghi chép của nhân viên phòng thí nghiệm chỉ là hình thức nhằm đối phó với những đợt kiểm tra, thanh tra của các cấp quản lí. - Do đồng lương của giáo viên còn thấp so với nhiều ngành nghề khác, nên đời sống của phần lớn giáo viên còn gặp nhiều khó khăn. Việc đầu tư một cách tâm huyết cho một bài giảng là chưa có, chỉ khi nào có đợt thi đua thao giảng dự giờ như thi giáo viên giỏi cấp trường; cấp tỉnh thì các thầy cô mới đầu tư vào bài giảng của mình một cách công phu như sử dụng công nghệ thông tin; sử dụng thiết bị thí nghiệm trong giảng dạy. Còn phần lớn là dạy “chay”, thời gian chuẩn bị thí nghiệm được thay bằng việc chuẩn bị các chuyên đề dạy thêm để tăng thu nhập. Từ những nguyên nhân trên mà đối với các bài thực hành thí nghiệm thì giáo viên chỉ dạy phần lí thuyết trên lớp, còn phần thực hành thì bỏ qua hoặc thay vào đó là tiết bài tập, ôn tập. Học sinh không được trang bị kiến thức cơ bản về thực hành thí nghiệm như: không biết lắp đặt dụng cụ; không biết xử lý số liệu; tính các loại sai số; không biết viết báo cáo cho một bài thực hành. Khi làm các bài tập tự luận cũng như bài tập trắc nghiệm khách quan chỉ làm được những bài tập áp dụng các công thức đơn giản, còn khi gặp các bài toán khó thì không làm được là vì chưa hiểu được bản chất của vấn đề. 2.2. Thực trạng của việc tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo ở các trường THPT hiện nay Đối với phần đa các giáo viên ở các trường THPT hiện nay thì khái niệm về HĐTNST đang còn rất “xa vời”. Điều này cũng là một lẽ tất yếu vì cho đến năm 2020 thì Bộ giáo dục và Đào tạo mới chính thức đưa hoạt động này vào học chính khóa. Chỉ với những giáo viên tâm huyết với nghề luôn nêu cao tinh thần tự học và nghiên cứu mới thực sự quan tâm. Khi xây dựng kế hoạch cho một HĐTNST thì đòi hỏi mất rất nhiều thời gian và công sức của thầy cô, từ việc chia nhóm, giao nhiệm vụ cho từng nhóm và hướng dẫn các em hoàn thành công việc của mình. Như chúng ta đã biết, một thực tế hiện tại ở các trường THPT với cách thi, kiểm tra đánh giá của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì các thầy cô không còn thời gian cho việc tổ chức các hoạt động khác, mà chủ yếu là ôn thi lí thuyết với các dạng bài tập này, bài tập kia cho các em để đối phó với các kì thi. Các em học sinh thì lịch học gần như không còn thời gian trống, hết học chính khóa rồi đến học bồi dưỡng, ôn luyện đội tuyển học sinh giỏi, ca 2, ca 3, ca 4 ở nhà riêng của giáo viên. Các thầy cô đã biến các em học sinh thành một “cái máy” luyện thi (luyện thi trắc nghiệm). Các em không còn thời gian cho các hoạt động khác như hoạt động ngoại khóa, hoạt động câu lạc bộ, để phát triển toàn diện cả về kiến thức lẫn việc hình thành các kĩ năng. 2.3. Thực trạng ở trường THPT Tĩnh Gia 2 Tổ Vật lý – Công nghệ ở trường THPT Tĩnh Gia 2 gồm 08 giáo viên, trong đó 07 giáo viên giảng dạy môn Vật lý; 01 giáo viên giảng dạy môn Công nghệ. Nhà trường chưa có giáo viên chuyên trách cho mảng thiết bị thí nghiệm (hợp đồng một nhân viên không đúng chuyên ngành). Khi giảng dạy chương Từ trường và Cảm ứng điện từ thì một số thầy cô cũng có sử dụng các thiết bị thí nghiệm có sẵn trên phòng thí nghiệm như: kim nam châm thử, nam châm vĩnh cửu, thí nghiệm về hiện tượng cảm ứng điện từ, thí nghiệm về hiện tượng tự cảm, Tuy nhiên, việc hướng dẫn, tổ chức cho các em học sinh tự làm các mô hình, đồ dùng học tập, các thiết bị thực hành thí nghiệm là chưa có. Trong các tiết học có sử dụng các thiết bị thí nghiệm thì phần lớn là giáo viên biểu diễn thí nghiệm, còn học sinh quan sát rồi sau đó trả lời các câu hỏi của giáo viên. Các em học sinh không được tự mình thực hành thí nghiệm. Vì vậy, việc lĩnh hội kiến thức là hết sức bị động, không phát huy được khả năng sáng tạo của học sinh. Mặt khác, đối với các thầy cô thì khái niệm HĐTNST là một khái niệm còn hết sức xa lạ. Các thầy cô chỉ mới tổ chức các hoạt động ngoại khóa; các hoạt động hướng nghiệp, v.v Các hoạt động này gọi chung là hoạt động ngoài giờ lên lớp, chúng chủ yếu được tổ chức dựa trên các chủ đề đã được quy định trong chương trình với các hình thức còn chưa phong phú và học sinh thường được chỉ định, phân công tham gia một cách bị động. Giáo viên tổ chức hoạt động cho học sinh nhưng không rõ hoạt động đó sẽ hướng tới hình thành những năng lực gì của các em. Điều đó không phù hợp với một chương trình định hướng phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh. Trong chương học này thì phần lớn các thầy cô chọn phương án dạy “chay” cho xong bài. III. Giải pháp thực hiện 3.1. Hoàn thành các tiết dạy chương Từ trường và Cảm ứng điện từ Giáo viên giảng dạy hoàn thành các tiết dạy thuộc phân phối chương trình chương Từ trường và cảm ứng điện từ. Trong quá trình giảng dạy giáo viên cần thiết kế bài dạy theo các kĩ thuật dạy học tích cực, cần chuẩn bị các thiết bị đồ dùng dạy học sẵn có trên phòng thí nghiệm, cũng như các thiết bị tự làm sao cho việc truyền thụ và lĩnh hội kiến thức của học sinh đạt kết quả cao nhất. Đối với những tiết học có sử dụng các thiết bị đồ dùng dạy học thì giáo viên cần phải chuẩn bị một cách chu đáo và tốt nhất đối với những tiết học này là thực hiện trên phòng học bộ môn. Giáo viên cần tổ chức cho các em tự làm được các thí nghiệm trong sách giáo khoa với các thiết bị sẵn có trên phòng thí nghiệm. Như vậy mới hình thành ở các em các kĩ năng thực hành, lắp đặt thí nghiệm, làm việc theo nhóm, tạo hứng thú trong quá trình học tập và nghiên cứu bài học. Để tự làm được các mô hình và các thí nghiệm trong chương Từ trường và Cảm ứng điện từ thì trước hết các em học sinh phải hiểu một cách sâu sắc các kiến thức lí thuyết qua mỗi bài giảng của giáo viên. Từ việc các em hiểu thì các em mới tự mình làm ra được các sản sản phẩm theo ý tưởng của mình. 3.2. Lập kế hoạch đối với lớp 11C1 Khi bắt đầu giảng dạy chương “Từ trường” giáo viên thông báo trước cho các học sinh về dự định của mình để các em có được tâm lí tốt nhất, sẵn sàng nhận nhiệm vụ được giao. Lớp 11C1 khóa 2016 - 2019 là một lớp mũi nhọn của nhà trường học theo theo chương trình nâng cao ban khoa học tự nhiên. Vì vậy, phần lớn các em đều tham gia trong các đội tuyển thi học sinh giỏi cấp tỉnh các môn Toán, Vật lý, Hóa học, Sinh học. Để không ảnh hưởng đến việc ôn luyện thi học sinh giỏi cấp tỉnh thì sau khi các em
Tài liệu đính kèm:
- to_chuc_hoat_dong_trai_nghiem_sang_tao_cua_hoc_sinh_lop_11c1.docx