SKKN Tìm hiểu một số nét đặc trưng ngôn ngữ tạo hình tại học sinh THCS thông qua phân môn vẽ tranh

SKKN Tìm hiểu một số nét đặc trưng ngôn ngữ tạo hình tại học sinh THCS thông qua phân môn vẽ tranh

Mỗi người mỗi nghề đều mang những đặc thù, đặc trưng riêng của từng ngành nghề sao cho phù hợp với từng năng lực sở trường của mình. Nghề dạy học được coi là một nghề cao quý bởi sản phẩm chủ yếu là nhân cách con người. Muốn trở thành con người hữu ích, đều phải dựa vào sự giáo dục của nhà trường.

 Dạy học đã khó, dạy mỹ thuật càng khó hơn. Bởi ngoài việc dạy học sinh những kiến thức cơ bản thì việc học mỹ thuật còn phải đem lại niềm vui cho mọi người, làm cho mọi người nhìn ra cái đẹp, thấy cái đẹp ở trong mình, và xung quanh mình trở nên gần gủi đáng yêu hơn. Đồng thời học mỹ thuật giúp mọi người tự tạo ra cái đẹp theo ý mình, theo cách hiểu cách lý giải của bản thân. Làm cho cuộc sống thêm tươi vui hạnh phúc.

 

doc 15 trang thuychi01 5740
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Tìm hiểu một số nét đặc trưng ngôn ngữ tạo hình tại học sinh THCS thông qua phân môn vẽ tranh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
 PHÒNG GD&ĐT HOẰNG HÓA 
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 TÊN ĐỀ TÀI
 TÌM HIỂU MỘT SỐ NÉT ĐẶC TRƯNG 
 NGÔN NGỮ TẠO HÌNH Ở HỌC SINH THCS THÔNG QUA
 PHÂN MÔN VẼ TRANH
 Người thực hiện: Hoàng Văn Thanh
 Chức vụ: Giáo viên
 Đơn vị công tác: Trường THCS Hoằng Trinh
 SKKN thuộc lĩnh vực môn: Mĩ thuật
 THANH HOÁ NĂM 2018
 MỤC LỤC
TRANG
I- PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
2
1.2.Mục đích nghiên cứu
2
1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
1.4.Phương pháp nghiên cứu
2
1.5.Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
4
II-NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận của SKKN luận 
4
2.2 Thực trạngvấn đề trươc khi áp dụng SKKS 
9
2.3. Thực hiện SKKN giúp học sinh học tốt và nâng cao chất lượng bài vẽ ở phân môn vẽ tranh 
9
2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục: 
11
III- KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
 Kết luận
12
 Kiến nghị
12
 1. PHẦN MỞ ĐẦU
 1.1. Lý do chọn đề tài : 
 Mỗi người mỗi nghề đều mang những đặc thù, đặc trưng riêng của từng ngành nghề sao cho phù hợp với từng năng lực sở trường của mình. Nghề dạy học được coi là một nghề cao quý bởi sản phẩm chủ yếu là nhân cách con người. Muốn trở thành con người hữu ích, đều phải dựa vào sự giáo dục của nhà trường.
 Dạy học đã khó, dạy mỹ thuật càng khó hơn. Bởi ngoài việc dạy học sinh những kiến thức cơ bản thì việc học mỹ thuật còn phải đem lại niềm vui cho mọi người, làm cho mọi người nhìn ra cái đẹp, thấy cái đẹp ở trong mình, và xung quanh mình trở nên gần gủi đáng yêu hơn. Đồng thời học mỹ thuật giúp mọi người tự tạo ra cái đẹp theo ý mình, theo cách hiểu cách lý giải của bản thân. Làm cho cuộc sống thêm tươi vui hạnh phúc.
 1.2. Mục đích nghiên cứu: 
 Dạy và học mĩ thuật ở THCS không nhằm đào tạo họa sĩ hay người làm nghệ thuật mà nhằm giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh. Chủ yếu tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc làm quen và thưởng thức cái đẹp, tập tạo ra cái đẹp vận dụng cái đẹp vào trong cuộc sống hằng ngày. Để làm được điều đó cần hiểu về cách nhìn cách cảm nhận, lý giải hiện tượng sự vật....của học sinh hay nói cách khác là ngôn ngữ tạo hình của học sinh THCS trong bộ môn mĩ thuật, mà cụ thể ở đề tài nghiên cứu này được tìm hiểu thông qua phân môn vẽ tranh.
Việc tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ tạo hình ở học sinh THCS sẽ giúp cho giáo viên giảng dạy đánh giá một cách tích cực đúng đắn, gây hứng thú cho cả người học và người dạy, tìm ra được phương pháp, cách thức giảng dạy phù hợp đối tượng, lứa tuổi. Tuy nhiên dạy như thế nào? dạy thật tốt hay bình thường còn phụ thuộc ý thức học tập của mỗi chúng ta.
 1.3. Đối tượng nghiên cứu: 
Ở đây đối tượng tìm hiểu là học sinh THCS, mà cụ thể là học sinh THCS Lớp 6,7,8,9. Lứa tuổi từ 11 đến 15 với những đặc điểm tính cách nhận thức riêng. Bộ môn mỹ thuật là môn học mà kiến thức của nó vừa cụ thể, rõ ràng vừa chung chung trừu tượng, khó thấy khó nhìn, là loại kiến thức có ở xung quanh ta, lấy những sự vật hiện tượng quanh ta để biểu đạt. Điều đó đòi hỏi giáo viên ngoài việc phải nắm vững kiến thức chuyên môn thì cần phải nắm vững kiến thức ở các bộ môn liên quan như “ tâm lý học lứa tuổi, Xã hội khoa học tự nhiên,...” Trong đó cái cốt lỏi cần phải nắm là đặc trưng ngôn ngữ tạo hình của học sinh THCS mà cụ thể ở đề tài nghiên cứu này nó nằm trong phạm vi phân môn vẽ tranh. 
 1.4. Phương pháp nghiên cứu
Với mong muốn trở thành người giáo viên dạy tốt, dạy giỏi, hoàn thành tốt công tác nhiệm vụ cần có rất nhiều yếu tố. Đó là chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức kinh nghiệm, và lòng say mê yêu nghề yêu trẻ.
Đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, an ninh, quốc phòng. Những năm vừa qua Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến sự phát triển của giáo dục, đặc biệt là chất lượng của nó. Cùng với nhu cầu phát triển ngày càng cao của con người về đức dục, trí dục và thể dục, thì mỹ dục cũng không ngừng được phát triển và dần có vai trò quan trọng trong đời sống của mỗi con người và nhất là thế hệ trẻ, mà đối tượng nghiên cứu ở đây là học sinh THCS.
Với bộ môn mỹ thuật hiện nay nói riêng, giáo viên giảng dạy mỹ thuật còn ít kinh nghiệm. Không có cơ hội thảo luận và nghiên cứu sâu vấn đề. Bởi thời lượng tiết còn ít, mỗi trường chỉ có một giáo viên, việc trao đổi và thảo luận gặp nhiều khó khăn. Đồng thời đây cũng là bộ môn mới được đưa vào gần đây nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo con người phát triển toàn diện, luôn luôn hướng tới cái đẹp, tìm kiếm và sáng tạo cái đẹp. Nhu cầu thị hiếu thẩm mỹ của con người ngày càng cao cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, cho nên việc nhìn nhận và thưởng thức cái đẹp của đại bộ phận nhân dân là vấn đề tất yếu khách quan, không chỉ là đối với người lớn, mà tất cả các đối tượng, từng lớp, lứa tuổi trong xã hội.
	Giảng dạy mỹ thuật ở trường THCS cũng nhằm mục tiêu trên. Trong quá trình giảng dạy người giáo viên cần chú ý đặc điểm lứa tuổi học sinh, mỗi lứa tuổi sẻ có cách cảm nhận suy nghĩ và lý giải về cái đẹp khác nhau. Người lớn có cách cảm nhận lôgic và khoa học tạo nên một cái đẹp hoàn thiện, còn trẻ em thì có cách cảm nhận ngây thơ, nhìn sự vật qua lăng kính màu hồng, không vướng bận những nguyên tắc, trăn trở mà chủ yếu tập trung tình cảm sự yêu thích của mình vào bài vẽ. Cho nên bài vẽ học sinh thường đem lại cho ta nhiều cảm xúc và tình cảm mới lạ. Nói là vậy nhưng mỗi lứa tuổi, mỗi mức độ cách cảm nhận của con người mỗi đổi thay. Là người giáo viên dạy mỹ thuật cần nắm bắt được đặc điểm này của học sinh để có phương pháp giảng dạy tốt nhất, phát huy được năng lực sự đam mê của các em. Đây cũng là lý do tôi chọn để viết tiểu luận này ”Tìm hiểu một số nét đặc trưng, ngôn ngữ tạo hình ở học sinh THCS thông qua phân môn vẽ tranh”.
 Dạy mỹ thuật cũng như dạy các bộ môn khác đối tượng chủ yếu là học sinh, dạy cho học sinh theo những nội dung yêu cầu chương trình đã quy định. Nhưng dù dạy bất cứ cái gì thì cần phải tìm hiểu rõ đối tượng cần truyền đạt là ai, đối tượng nào, truyền đạt ở mức độ nào.
Đặc trưng ngôn ngữ tạo hình của hội hoạ nói chung bao gồm nhiều yếu tố, như tính không gian tính tạo hình trực tiếp trong đó bao gồm đường nét hình khối, màu sắc... Và ngôn ngữ tạo hình của học sinh THCS cũng không nằm ngoài những yếu tố đó.
Học sinh THCS có cách nhìn cách cảm nhận lý giải như thế nào về những sự vật hiện tượng xung quanh, về hình khối, màu sắc sự cảm nhận đó có khác gì so với sự cảm nhận của người lớn, của từng lứa tuổi khác nhau. Nó có những điểm thuận lợi khó khăn gì và những điểm mạnh điểm yếu trong cách nhìn nhận, cảm thụ của học sinh THCS. Đó là những điều cần phải nghiên cứu tìm hiểu để bổ sung vào lượng kiến thức chuyên môn của người giáo viên giảng dạy bộ môn mỹ thuật.
 1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm:
* Sơ lược những điểm mới cơ bản nhất trong kết quả nghiên cứu:
- Việc áp dụng tốt các phương pháp dạy học tích cực là tích hợp toàn diện và mọi phương pháp đều hướng tới phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh.
- Phát huy tính tích cực, độc lập suy nghĩ, sáng tạo thông qua việc học sinh tham quan các hoạt động học tập để lĩnh hội kiến thức.
* Khẳng định tính sáng tạo và khoa học vào thực tiễn của vấn đề:
- Để nâng cao hiệu quả dạy học trong phân môn vẽ tranh, ngoài những kiến thức về lí thuyết và thực hành giáo viên cần phải vận dụng khoa học, hợp lí, tích cực các phương pháp dạy học nhằm đạt được mục tiêu của bài học.
- Học sinh nắm được kiến thức cơ bản về vẽ tranh mới phát huy và nâng cao năng lực sáng tạo, óc thẩm mĩ vốn có trong mỗi con người.
 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1.Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
*Đặc điểm tâm lý
Lứa tuổi học sinh THCS tuổi từ 11-15 đang theo học từ lớp 6-9, là lứa tuổi bướng bỉnh khó bảo với sự mạnh mẽ về tâm sinh lý, biểu hiện tình cảm rõ ràng, sự yêu, sự ghét đồng thời có biểu hiện của sự e thẹn ngại ngùng, ảnh hưởng đến kết quả bài vẽ của các em. Trong quá trình làm bài các em thương che bài vẽ của mình không để thầy cô giáo thấy, đồng thời cảm giác mình đã lớn nên các em muốn độc lập trong bài vẽ của mình muốn thể hiện bản lĩnh của bản thân rằng mình sẽ làm được, sẽ vẽ được nhưng khi bắt tay vào bài vẽ thì đa số các em không thể hiện được ý tưởng của mình, vì sao?
Sự phát triển thể chất tâm lý, trí tuệ mạnh mẽ nhưng không đồng đều. Đa phần các em còn bở ngỡ, vụng về trong khi vẽ, điều chỉnh hình vẽ nét bút không theo suy nghĩ của bản thân và lứa tuổi này còn ở tuổi ăn tuổi ngủ ham thích vui chơi hoạt động, do đó trong bài vẽ đặc biệt là các bức tranh đề tài thể hiện rõ dấu ấn của sự trẻ trung hồn nhiên ngây thơ, ngộ nghĩnh và hết sức chân thành.
Ở học sinh THCS đa số các em thích vẽ theo suy nghĩ, ý thích của mình hơn là vẽ theo sự hướng dẫn của giáo viên. Nghĩ gì và vẽ nấy, đặt bút vào là vẽ không theo trình tự khuôn khổ các bước vẽ. Chính vì vậy người giáo viên cần hiểu và hướng dẫn các em dần dần, để các em nắm bắt và thấy được tác dụng của việc vẽ tranh đúng đem lại cho bài vẽ của mình có một kết quả tốt.
*Khả năng cảm nhận trong phân môn vẽ tranh của HS THCS.
Học sinh THCS có ngôn ngữ tạo hình có gì đó rất đơn giản nhưng cũng rất sáng tạo phong phú. Các em thường vẽ tranh theo nhiều nội dung đề tài khác nhau, một số em cũng tìm cho mình được nội dung và cách thể hiện rất dí dỏm, có nhiều bố cục lạ, đẹp mắt nhưng cũng không ít bố cục thể hiện sự lõng lẽo 
phần các em chưa có suy nghĩ tìm tòi về dáng, hình, động tác và nhất là những đặc điểm điển hình trong từng loại đề tài hay nội dung mà các em chọn. Bởi hình tượng các em chọn để vẽ còn chung chung, thiếu cái động, tĩnh, thiếu chiều sâu bức tranh. Các em vẽ tranh đơn giản chỉ là kể, tả lại những hoạt động, động tác của nhân vật, người, vật hay một quang cảnh nào đó. Đa số học sinh thể hiện màu sắc trong tranh thường rực rỡ đôi khi trở nên đối lập về màu sắc khiến cho tranh trở nên khô cứng ngay cả tranh về đề tài thơ mộng. Những đề tài được các em ưa thích nhất là thường là tranh phong cảnh, bởi vì đó là những thứ gần gũi được các em quan sát thu nhận một cách thường xuyên thể hiện trí tưởng tượng ghi nhớ của các em hết sức phong phú đa dạng. Nghệ thuật ngôn ngữ tạo hình cũng từ đó mà được hình thành. Bộc lộ với những đặc trưng riêng của từng lứa tuổi.
Chất liệu mà các em thể hiện chủ yếu là bút dạ là màu nước ngoài ra còn có bút sáp và màu bột chính vì thế mà tranh các em thường là nhưng gam màu rất sống động, tươi vui. Vì vậy đa phần những bài vẽ của các em có sự chênh lệch về gam màu đậm nhạt rất lớn. Nhưng nhìn chung các em đã thể hiện được đâu là hình ảnh chính, là phụ để tô màu.
* Hứng thú học tập trong phân môn vẽ tranh ở học sinh THCS
Nhìn chung phân môn này được đông đảo học sinh ưa thích bởi tính tự do ít gò bó, nói như vậy nhưng dù ít dù nhiều thì vẽ tranh cũng phải tiến hành theo các bước và cũng có những cách thức riêng mà tuỳ vào đặc điểm ngôn ngữ tạo hình của từng lứa tuổi giai đoạn mà có cách thể hiện và sử dụng khác nhau, tuy nhiên ở đây chúng ta tìm hiểu lứa tuổi học sinh THCS trong phạm vi phân môn vẽ tranh và với những nội dung cụ thể sau.
a) Về bố cục
Bài vẽ tranh đề tài của các em học sinh trường THCS Hoằng Trinh chủ yếu khối 6,7,8 . Điểm chung nổi bật của các em khi tiến hành bài vẽ là không tuân theo trình tự các bước vẽ, nhiều em vẽ thẳng hình vào giấy nghĩ gì là thể hiện ra mà không chú ý đến bố cục sắp xếp chính phụ, dẫn đến bố cục bị to bị lệch, có em thì bố cục lỏng lẻo, có em lại chật chội ... dẫn đến kết quả bài vẽ không cao. Ý thức về bố cục của các em chưa được rõ ràng. Bố cục như thế nào là đẹp ? Và như thế nào là bố cục? có nhiều em hiểu rằng bố cục là sự sắp xếp các mãng chính phụ sao cho hợp lý, các mãng không đều nhau, mãng chính trước, mãng phụ sau, nhưng khi làm bài lại bỏ qua một bên không cần biết chính phụ là gì. Điều đó cho thấy giữa thực hành và lý thuyết còn cả một khoảng cách lớn đối với các em có lẻ thực hành là một chuyện, lý thuyết lại là một chuyện khác cái cốt yếu là mình thích mình vẽ, nói thế nhưng củng có một số em ý thức được bố cục đẹp và hợp lý đưa lại kết quả cao cho bài vẽ. 
b) Về đường nét.
Đa số các em đã biết kết hợp giữa nét cong mềm mại để vẽ người và nét thẳng để vẽ nhà cửa, và một số cảnh vật, kết hợp những nét công mềm mại và những nét thẳng chắc khoẻ. Tuy nhiên để bắt đầu bài vẽ các em thường đi ngay vào những nét vẽ chính không có sự phác nét trước, nét vẽ thiếu sự dứt khoát linh hoạt và còn lưỡng lự, khô khan nét vẽ cứng. Đặc biệt khi vẽ khuôn mặt hay chân tay của người thì đa phần các em chỉ vẽ mô phổng tượng trưng là chủ yếu. Nhưng đó cũng là cái riêng ở lứa tuổi các em, làm cho bức tranh của các em có vẽ gì đó ngộ nghĩnh, dí dỏm hồn nhiên.
Vì vậy mà người giáo viên phải biết được đặc trưng đường nét ở lứa tuổi của các em để có cách nhận xét đánh giá cho phù hợp, tuy nhiên cũng cần có phương pháp nắm bắt và uốn nắn dần tỉ mĩ cho các em, để các em vẽ bài linh hoạt hơn nâng cao kỹ năng vẽ hình cho các em.
 c) Về hình khối
Đa số các em ở học sinh THCS Hoằng Trinh khi vẽ tranh đề tài đều không chú ý đến hình khối, vẽ chỉ là một mảng bẹt, thiếu chiều sâu cho không gian. Thực tế các em khi vẽ người hay cảch vật chỉ chú ý diễn tả chiều rộng và cao của nhân vật, chiều sâu do định luật xa gần tạo nên các em không nắm bắt được.. có chăng chỉ diễn tả được rất ít rằng người ở gần thì to người ở xa thì nhỏ, còn lại đều ngang nhau cùng nằm trên một mặt phẳng, nó mang tình chất trang trí là chủ yếu kết hợp với những đường viền đậm. Một điều đáng lưu ý nữa là khi các em vẽ tranh đề tài thì từ bước 1 phác bố cục nhưng khi sang bước hai vẽ hình thì đa số các em nếu thực hiện theo trình tự các bước thì hình vẽ thường vượt ra khỏi bố cục đã phác, hoặc nhỏ hơn dẫn đến hình vẽ không cân đối
d) Về màu sắc
Màu sắc là yếu tố đặc biệt tạo được hứng thú nhất cho học sinh. Phần lớn do màu sắc là yếu tố tác động mạnh đến thị giác của con người, nhất là lứa tuổi học sinh THCS đại đa số các em thích vẽ màu, đặc biệt là ở phân môn vẽ tranh, phần vẽ hình vẽ đường nét được các em vẽ nhanh, và các em dành phần lớn thời gian để vẽ màu. Vẽ màu kĩ, những màu sắc sặc sở, bắt mắt thường là những màu được các em sử dụng nhiều nhất, một số học sinh có cách nhìn màu rất tốt, sự cảm thụ màu hết sức nhạy cảm. Các em đã bắt đầu có sự suy nghĩ tìm tòi, đầu tư về màu sắc trong bài vẽ của mình. Một số em đã biết cách pha màu, chồng màu kéo màu từ mảng chính ra xung quanh một cách hợp lý, làm nổi bật trọng tâm bài vẽ nhưng vẫn tạo được sự hài hoà về màu sắc.
Tuy nhiên nhiều em còn chưa thể hiện được độ đậm nhạt ở trong bức tranh làm cho bức tranh đều đều màu sắc dàn trải, không tạo được chiều sâu của bức tranh là” gần thì tỏ, xa thì mờ”. Nên đa phần tranh của các em mang đậm tính chất trang trí.
Màu sắc nổi bật ở đây là gam màu tươi vui sống động, màu sắc trẻ trung, nhưng cũng có những bài có gam màu hài hoà, nhẹ nhàng trong sáng...
 * Đặt vấn đề:
	Qua lịch sử chúng ta thấy rằng con người bắt đầu vẽ từ rất sớm, trước khi có cả chữ viết và tiếng nói. Trong các hang động ta bắt gặp những hình vẽ hết sức sống động, nhưng những tác phẩm lúc bấy giờ chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu cuộc sống, là trao đổi thông tin với nhau thay thế cho tiếng nói. Ví dụ: “ hình vẽ một quả và mũi tên chỉ vào miệng là quả ăn được” và những hình ảnh chỉ cái không ăn được cái để làm công cụ ... Nói như vậy tức là vẽ xuất hiện từ rất sớm nhưng con người chưa ý thức được vẽ đẹp ý nghĩa hình khối màu sắc và tác dụng của nó đối với đời sống tinh thần, chỉ đơn thuần vẽ để đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin.
	Cũng tương tự như thế, với trẻ em những nét vẽ ngoằn ngèo và những màu sắc trắng đỏ xanh được trẻ đặt cạnh nhau làm cho trẻ có vẻ thích thú, nhưng chúng ta cũng không thể coi đó là vẽ mà đúng hơn là trẻ đang hoạt động để tự hoàn thiện và phát triển cơ bắp, hoạt động này chỉ dược xem là hoạt động bản năng. Nó chỉ có thể coi là hoạt động vẽ khi bắt đầu ý thức được vẽ đẹp màu sắc hình khối đường nét... và hình vẽ của trẻ ngày càng được hoàn thiện hơn, nhiều chi tiết hơn, là phương tiện để diễn tả thế giới xung quanh đầy màu sắc theo suy nghĩ sự cảm nhận và lý giải của bản thân. 
 * Cách nhìn và cách cảm nhận.
	Ở từng lứa tuổi thì sẻ có những cách nhìn và cách cảm nhận khác nhau, tạo nên những nét đặc trưng ngôn ngữ tạo hình riêng của từng lứa tuổi, nó khác với những nhà hoạ sỉ người nghiên cứu, khác với người lớn, thầy cô giáo. Cùng với thời gian và sự phát triển trí tuệ, nét vẽ bài vẽ của trẻ ngày một khác hơn gần giống với thật hơn, vẽ như thế nào cho đẹp cho đúng để được trẻ quan tâm và tìm hiểu.
	 Và ở mỗi người thì sự cảm nhận cách lý giải sự vật hiện tượng cũng khác nhau. Ở mỗi thời điểm khác nhau trẻ 1-2 tuổi sẻ nhìn sự vật khác với trẻ 5-6 tuổi cũng như 10-11 tuổi . Sự thay đổi đi cùng với sự phát triển trí tuệ và đối tượng. Có trẻ thích vẽ và tiếp tục phát triển với khả năng của mình nhưng có trẻ lại không, đến một giai đoạn nào đó lại chuyển hoạt động, không còn thích thú với hoạt động vẽ nữa. Điều đó cho thấy rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến cách nhìn cách cảm nhận của trẻ trong đó sự phát triển, là yếu tố để hình thành ngôn ngữ tạo hình của trẻ trong tường giai đoạn nói chung
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN
Qua việc tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ tạo hình trên ta thấy rằng việc nắm bắt vấn đề và tìm phương hướng giải quyết vấn đề đó là một điều hết sức quan trộng, đảm bảo cho tiết dạy bài dạy hiệu quả hơn, đem lại sự thành công trong công tác giảng dạy.
* Thực trạng học tập.
1/ Học sinh chưa nắm bắt được cách xây dựng hình tượng điển hình, bài vẽ còn chung chung, mang nặng tính chất hình thức .
2/ Học sinh THCS có cách nhìn cách cảm nhận về màu hết sức trong sáng, lung linh đầy màu sắc, là một sự kết hợp những màu sắc tươi sáng tạo sự trẻ trung cho bài vẽ.
3/ Trong khi tiến hành bài vẽ các em không theo trình tự tiến hành các bước làm bài, mà làm theo ngẫu hứng, thích vẽ cái gì thì vẽ cái nấy, ít chú trọng trước sau hay chính phụ trong bài vẽ.
4/ Học sinh THCS chưa có thói quen sưu tầm tài liệu phục vụ cho bài vẽ hiệu quả hơn và chưa có thói quen quan sát nhận xét sự vật hiện tượng cho bài vẽ có chiều sâu và hiệu quả hơn.
5/ Kỹ năng sử dụng màu nước, màu bột của học sinh THCS còn kém.
Từ những vấn đề cơ bản đó thì đối với phân môn vẽ tranh, phương pháp giảng dạy phù hợp là phương pháp quan sát và phương pháp liên hệ với thực tiễn cuộc sống. Ngoài ra là sự kết hợp các phương pháp dạy học như gợi mỡ, vấn đáp, luyện tậpvv...
Vẽ tranh đề tài thì việc liên hệ vơí thực tiễn cuộc sống là một điều hết sức quan trọng, đảm bảo cho việc tìm và lựa chọn hình tượng được sâu sắc hơn, nêu rõ trọng tâm đề tài hơn.
2.3. Thực hiện SKKN giúp học sinh học tốt và nâng cao chất lượng bài vẽ ở phân môn vẽ tranh
 * Chuẩn bị
 Trước khi dạy một bài vẽ tranh đề tài thì khâu chuẩn bị là rất quan trọng nhất là đồ dùng dạy học.
Về phía giáo viên ngoài việc chuẩn bị giáo án, phương pháp dạy học thì một điều không thể thiếu đó là đồ dùng trực quan (tranh, ảnh minh hoạ) vì ở lứa tuổi trẻ em thì tranh ảnh nó có tác dụng rất mạnh đến cánh thị giác và trí nhớ của các em, do vậy cần phải có đồ dùng trực quan phong phú và phải biết sử dụng đúng lúc, 
Về phía học sinh củng phải có sự chuẩn bị đầy đủ, sách vỡ giấy vẽ, màu chì tẩy, những đồ dùng học tập cần thiết, ngoài ra phải tìm hiểu và quan sát tham khảo những đề tài mà mình sẽ thể hiện trước khi làm bài.
Khi soạn giáo án cần soạn kỹ biết chắt lọc những lời thoại, câu hỏi chính và câu hỏi gợi mở phải rõ ràng dễ hiểu nhằm tạo hứng thú và sôi nổi trong từng đối tượng học sinh. Nên tránh những câu hỏi dài khó hiểu và những câu hỏi lững . 
+ Đối với học sinh kém: cần gợi mở cụ thể hơn giúp các em nhận ra chổ chưa đúng chưa đẹp để bài vẽ đẹp hơn .Ví dụ: Bố cục có lỏng lẻo quá không, hay màu sắc có lộn xộn quá không? vv...
+ Đối với học sinh khá, trung bình: thì có thể gợi mở để các em tìm tự tìm ra, tự điều chỉnh hay sửa chửa. Ví dụ: Chổ này, màu này như thế nào ? Làm sao cho bài vẽ đẹp hơn ?
+Với học sinh giỏi: thì yêu cầu cao hơn. Ví dụ: Thử tìm xem bài vẽ có chổ nào chưa hợp lý? Có thể vẽ khác được không?
Để phục vụ cho quá trình lên lớp tốt, thì giáo viên cần phải có thời gian và quá trình thâm nhập giáo án kỹ 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_tim_hieu_mot_so_net_dac_trung_ngon_ngu_tao_hinh_tai_hoc.doc