SKKN Thiết kế và sử dụng thí nghiệm biểu diễn trong dạy học sinh học tế bào - Sinh học 10 cơ bản nhằm tạo hứng thú và nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh trường THPT Thạch Thành 4
Giáo dục - đào tạo luôn được xem là nhân tố quan trọng, quyết định cho sự phát triển kinh tế nhanh, mạnh và bền vững.
Nghị quyết Trung ương 2 khóa VII, Đảng ta đã xác định: “ Đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học. kết hợp tốt học đi đôi với hành, học tập gắn liền với lao động sản xuất, thực nghiệm và nghiên cứu khoa học, gắn nhà trường với xã hội. Áp dụng những phương pháp dạy học hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh có năng lực tư duy sáng tạo ”. Điều này cho thấy để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thì giáo dục đào tạo phải đổi mới về nội dung, phương pháp, phương tiện và thiết bị dạy học.
Trong lí luận dạy học, sự thống nhất giữa trực quan và tư duy trừu tượng là một luận điểm có tính nguyên tắc nhằm đảm bảo cho quá trình dạy học đạt hiệu quả cao. Phương tiện trực quan là nguồn thông tin phong phú và đa dạng giúp học sinh lĩnh hội tri thức một cách cụ thể, chính xác, là con đường tốt nhất giúp HS tiếp cận hiện thực khách quan, góp phần khắc sâu, mở rộng, củng cố tri thức, phát triển năng lực tư duy, khả năng tìm tòi, khám phá và vận dụng tri thức.
Đối với HS, TN là mô hình đại diện cho hiện thực khách quan, là cơ sở xuất phát cho quá trình nhận thức của HS, TN là cầu nối giữa lí thuyết và thực tiễn do đó nó là phương tiện duy nhất giúp HS thực hành kĩ năng, kĩ xảo thực hành và tư duy kĩ thuật. TN giúp HS đi sâu tìm hiểu bản chất của các hiện tượng và quá trình SH. TN do GV biểu diễn phải là mẫu mực về thao tác, việc tổ chức hoạt động nhận thức của HS dựa trên các TN phải theo hướng tích cực, sáng tạo. Trong chương trình SGK Sinh học THPT do Bộ Giáo dục & Đào tạo biên soạn, các thí nghiệm biểu diễn có khả năng áp dụng rộng rãi, tránh cho HS có những hiểu biết mơ hồ, những lí thuyết suông không thực tế. TN là phương tiện kích thích hứng thú học tập tích cực, tự lực, sáng tạo của HS. Qua TN còn rèn luyện cho HS phương pháp học tập và tư duy khoa học giúp HS có cái nhìn đúng đắn về thế giới quan. Đối với một trường THPT miền núi với hầu hết học sinh là con em có chất lượng đầu vào thấp, kiến thức ở các lớp dưới còn khiếm khuyết, trình độ tiếp thu hạn chế. Nên việc truyền thụ kiến thức sinh học cho học sinh là một điều hết sức khó khăn. Vì vậy thí nghiệm biểu diễn cần phải được sử dụng thường xuyên, hợp lí và có hiệu quả trong quá trình dạy học. Để nâng cao hiệu quả giảng dạy GV cần bám sát mục tiêu của bài học để áp dụng các thí nghiệm biểu diễn vào từng hoạt động, từng bài học cụ thể phù hợp, đảm bảo thời gian hợp lí. Do đó, nhằm khai thác hết giá trị dạy học của dạy học, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của HS, gắn lí thuyết với thực tiễn, giúp HS hiểu rõ bản chất của các sự vật, hiện tượng sinh học tế bào thì GV cần thường xuyên sử dụng và sử dụng có hiệu quả các TN trong quá trình dạy học SH. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng các TN biểu diễn là cần thiết và sẽ góp phần tích cực trong việc nâng cao chất lượng dạy học.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ TRƯỜNG THPT THẠCH THÀNH 4 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG THÍ NGHIỆM BIỂU DIỄN TRONG DẠY HỌC SINH HỌC TẾ BÀO – SINH HỌC 10 CƠ BẢN NHẰM TẠO HỨNG THÚ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỌC TẬP CHO HỌC SINH TRƯỜNG THPT THẠCH THÀNH 4 Người thực hiện: Mai Thị Mai Chức vụ: Giáo viên SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Sinh Học THANH HOÁ, NĂM 2018 MỤC LỤC 1. MỞ ĐẦU Trang 1.1. Lí do chọn đề tài. 2 1.2. Điểm mới của đề tài 2 1. 3. Mục đích nghiên cứu .. 2 1.4. Đối tượng nghiên cứu 2 1.5. Phương pháp nghiên cứu. 2 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM....................................................2 2.1. Cơ sở lí luận của việc sử dụng thí nghiệm biểu diễn trong dạy học SH. .2 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN ... 4 2.3. Sử dụng thí nghiệm biểu diễn trong dạy học sinh học tế bào........................7 2.3.1. Đặc điểm nội dung phần sinh học tế bào.. 7 2.3.2.Thiết kế các thí nghiệm biểu diễn sử dụng trong phần sinh học tế bào..... .8 2.4. Hiệu quả của đề tài.......................................................................................12 2.4.1.Phương pháp thực nghiệm 13 2.4.2. Kết quả thực nghiệm sư phạm...14 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.................17 DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SKKN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG NHẬN........................19 TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................19 Phụ lục ................................................................................................................21 DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TN Thí nghiệm TH Thực hành Tn Thực nghiệm GV Giáo viên HS Học sinh SH Sinh học THPT Trung học phổ thông ĐC Đối chứng SGK Sách giáo khoa SGV Sách giáo viên TB Tế bào XHCN Xã hội chủ nghĩa 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài: Giáo dục - đào tạo luôn được xem là nhân tố quan trọng, quyết định cho sự phát triển kinh tế nhanh, mạnh và bền vững. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VII, Đảng ta đã xác định: “ Đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học. kết hợp tốt học đi đôi với hành, học tập gắn liền với lao động sản xuất, thực nghiệm và nghiên cứu khoa học, gắn nhà trường với xã hội. Áp dụng những phương pháp dạy học hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh có năng lực tư duy sáng tạo”. Điều này cho thấy để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thì giáo dục đào tạo phải đổi mới về nội dung, phương pháp, phương tiện và thiết bị dạy học. Trong lí luận dạy học, sự thống nhất giữa trực quan và tư duy trừu tượng là một luận điểm có tính nguyên tắc nhằm đảm bảo cho quá trình dạy học đạt hiệu quả cao. Phương tiện trực quan là nguồn thông tin phong phú và đa dạng giúp học sinh lĩnh hội tri thức một cách cụ thể, chính xác, là con đường tốt nhất giúp HS tiếp cận hiện thực khách quan, góp phần khắc sâu, mở rộng, củng cố tri thức, phát triển năng lực tư duy, khả năng tìm tòi, khám phá và vận dụng tri thức. Đối với HS, TN là mô hình đại diện cho hiện thực khách quan, là cơ sở xuất phát cho quá trình nhận thức của HS, TN là cầu nối giữa lí thuyết và thực tiễn do đó nó là phương tiện duy nhất giúp HS thực hành kĩ năng, kĩ xảo thực hành và tư duy kĩ thuật. TN giúp HS đi sâu tìm hiểu bản chất của các hiện tượng và quá trình SH. TN do GV biểu diễn phải là mẫu mực về thao tác, việc tổ chức hoạt động nhận thức của HS dựa trên các TN phải theo hướng tích cực, sáng tạo. Trong chương trình SGK Sinh học THPT do Bộ Giáo dục & Đào tạo biên soạn, các thí nghiệm biểu diễn có khả năng áp dụng rộng rãi, tránh cho HS có những hiểu biết mơ hồ, những lí thuyết suông không thực tế. TN là phương tiện kích thích hứng thú học tập tích cực, tự lực, sáng tạo của HS. Qua TN còn rèn luyện cho HS phương pháp học tập và tư duy khoa học giúp HS có cái nhìn đúng đắn về thế giới quan. Đối với một trường THPT miền núi với hầu hết học sinh là con em có chất lượng đầu vào thấp, kiến thức ở các lớp dưới còn khiếm khuyết, trình độ tiếp thu hạn chế. Nên việc truyền thụ kiến thức sinh học cho học sinh là một điều hết sức khó khăn. Vì vậy thí nghiệm biểu diễn cần phải được sử dụng thường xuyên, hợp lí và có hiệu quả trong quá trình dạy học. Để nâng cao hiệu quả giảng dạy GV cần bám sát mục tiêu của bài học để áp dụng các thí nghiệm biểu diễn vào từng hoạt động, từng bài học cụ thể phù hợp, đảm bảo thời gian hợp lí. Do đó, nhằm khai thác hết giá trị dạy học của dạy học, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của HS, gắn lí thuyết với thực tiễn, giúp HS hiểu rõ bản chất của các sự vật, hiện tượng sinh học tế bào thì GV cần thường xuyên sử dụng và sử dụng có hiệu quả các TN trong quá trình dạy học SH. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng các TN biểu diễn là cần thiết và sẽ góp phần tích cực trong việc nâng cao chất lượng dạy học. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, từ vị trí vai trò của thí nghiệm trong dạy học, từ thực trạng của thí nghiệm biểu diễn trong nhà trường THPT nên tôi đã chọn đề tài: “Thiết kế và sử dụng thí nghiệm biểu diễn trong dạy học sinh học tế bào - Sinh học 10 cơ bản nhằm tạo hứng thú và nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh trường THPT Thạch Thành 4”. 1.2. Điểm mới của đề tài: Thiết kế một số thí nghiệm biểu diễn của phần sinh học tế bào ở lớp 10 THPT: Nguyên liệu dễ tìm, hóa chất phổ biến, đơn giản, dễ làm, biểu diễn kết quả trong thời gian ngắn phù hợp với thời gian của 1 tiết học (45 phút). 1.3. Mục đích nghiên cứu: Thiết kế và sử dụng có hiệu quả một số TN biểu diễn trong dạy học SH tế bào để góp phần nâng cao chất lượng dạy học SH 10 ở trường THPT. 1.4. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 10 Trường THPT Thạch Thành 4 . 1.5. Phương pháp nghiên cứu: 1.5.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Nghiên cứu các tài liệu trong nước và nước ngoài có liên quan tới TN thực hành; kĩ thuật thực hiện các TN biểu diễn và phương pháp nâng cao hiệu quả sử dụng TN biểu diễn trong quá trình dạy học. 1.5.2. Phương pháp quan sát và điều tra sư phạm: Dự giờ, trao đổi ý kiến với GV, Xây dựng hệ thống các câu hỏi, phiếu điều tra để điều tra thực trạng của việc sử dụng TN biểu diễn trong giảng dạy Sinh học 10 ở trường THPT hiện nay. 1.5.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm : Thực nghiệm có đối chứng song song. 1.5.4. Phương pháp thống kê toán học: Xử lí các số liệu thống kê bằng phần mềm Microsoft Excel, nhằm tăng độ chính xác cũng như sức thuyết phục của kết luận. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN 2.1. Cơ sở lí luận của sử dụng thí nghiệm biểu diễn trong dạy học sinh học: 2.1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài: * Thí nghiệm biểu diễn: Trước hết ta hiểu thí nghiệm “biểu diễn” là GV làm thực hành trực tiếp trên lớp trong các tiết dạy lí thuyết và thực hành. “Thí nghi ệm biểu diễn” được hiểu là ti ến hành các TN trong các bài lý thuyết, thực hành, được GV thực hiện để hiểu rõ được mục đích TN, điều kiện TN. Qua ti ến hành và quan sát TN tại phòng học, HS xác định được bản chất của hiện tượng, quá trình. Trong dạy học nói chung và dạy học SH nói riêng, TN biểu diễn luôn đóng vai tr ò quan trọng, giúp cho HS có điều kiện tự mình tìm hiểu mối quan hệ giữa cấu trúc và chức năng, giữa bản chất và hiện tượng, giữa nguyên nhân và kết quả. Do đó, HS nắm vững tri thức, phát huy tiềm năng tư duy sáng tạo, tính tích cực, chủ động trong hoạt động học. Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học SH nói riêng, TN đóng vai trò hết sức quan trọng : TN là mô hình đại diện cho hiện thực khách quan, là cơ sở xuất phát cho quá trình nhận thức của HS. TN là cầu nối giữa lí thuyết và thực tiễn. Vì vậy nó là phương tiện duy nhất giúp hình thành ở HS kĩ năng, kĩ xảo thực hành và tư duy kĩ thuật[4,Tr 22]. Trong khoảng thời gian 45 phút của một tiết học, GV rất khó có thể giải thích hết cho HS những vấn đề phức tạp mang tính bản chất, cơ chế của các sự vật hiện tượng. Với tư cách là phương tiện giúp HS “khám phá” kiến thức, các TN biểu diễn sẽ giúp HS hiểu rõ được bản chất của các vấn đề SH. Quan sát diễn biến và kết quả TN giúp cho HS có cơ sở thực tiễn để giải thích bản chất của các hiện tượng đó trong thời gian ngắn nhất. TN có thể được sử dụng ở mức độ thông báo, tái hiện và ở mức độ cao hơn là tìm tòi bộ phận, nghiên cứu. Ngoài ra, TN còn giúp HS thêm yêu môn học có được đức tính cần thiết của người lao động như: Cần cù, kiên trì, ý thức tổ chức kỉ luật cao 2.1.2. Cở sở khoa học của việc sử dụng TN qua quá trình dạy học: 2.1.2.1.Cơ sở triết học: Theo triết học Mác - Lênin: “Nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới quan vào trong đầu óc của con người trên cơ sở thực tiễn” [6,Tr58]. Quá trình nhận thức bao gồm cả việc học tập và nghiên cứu. Ở cả hai mức độ này các hình ảnh trực quan đều đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Các hình ảnh trực quan vừa thực hiện chức năng nhận thức (thông tin) vừa thực hiện chức năng điều khiển hoạt động của con người. Vai trò của trực quan trong nhận thức không chỉ là thuộc tính của sự phản ánh hiện thực khách quan trong nhận thức cảm tính mà còn là sự tái tạo hình tượng các đối tượng hoặc hiện tượng nhờ các mô hình được kiến tạo từ các nhân tố của trực quan sinh động trên cơ sở những tri thức đã tích lũy được về đối tượng hoặc hiện tượng ấy. V.I. Lênin đã tổng kết về hoạt động nhận thức: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - Đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lí, của sự nhận thức hiện thực khách quan” [6,Tr72]. 2.1.2.2. Cơ sở lí luận dạy học: Quá trình dạy học bao gồm nhiều thành tố có mối quan hệ mật thiết với nhau như: mục đích, nội dung, phương pháp và phương tiện dạy học. Từ mối quan hệ trên ta thấy TN thực hành là một trong những phương tiện trực quan quan trọng trong quá trình dạy học, nó là nguồn cung cấp kiến thức, là cầu nối giữa lí thuyết và thực tiễn, là phương tiện để phát huy tiềm năng tư duy, tính tích cực của HS. Tuy nhiên, không phải lúc nào và GV nào cũng có thể sử dụng TN thực hành đạt hiệu quả cao trong quá trình dạy học. Việc khai thác các TN thực hành đòi hỏi người GV cần phải có kĩ năng, kĩ xảo, phương pháp phù hợp. Vì vậy việc nâng cao hiệu quả sử dụng TN thực hành trong quá trình dạy học nói chung và trong dạy học SH nói riêng là hết sức cần thiết và vô cùng quan trọng. 2.1.2.3. Cơ sở tâm lí học: Lứa tuổi HS THPT thường dao động trong khoảng 14 đến 18 tuổi, là giai đoạn đầu của lứa tuổi thanh niên. Đặc điểm nổi bật về sự phát triển trí tuệ của học sinh THPT là: Tính chủ động, tính tích cực và tự giác cao, được thể hiện ở tất cả các quá trình nhận thức. Tuy nhiên, một số em còn quan sát kém, phiến diện dẫn đến nhiều khi kết luận thiếu cơ sở thực tiễn, tiếp nhận kiến thức thụ động, mơ hồ và không nắm rõ bản chất. Vì vậy để HS lĩnh hội kiến thức một cách sâu sắc và đầy đủ thì GV cần lựa chọn phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học hợp lí. Do có sự hình thành và phát triển mạnh mẽ về thế giới quan, tự ý thức mà học sinh THPT có niềm tin vào chính bản thân mình, các em hiểu rằng cuộc sống tương lai của mình gắn liền với việc lựa chọn nghề nghiệp. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: 2.2.1. Thực trạng của việc sử dụng TN trong dạy học SH ở trường THPT 2.2.1.1. Thực trạng việc nhận thức của GV về việc sử dụng TN trong quá trình dạy học. Để xác lập cơ sở thực tiễn cho việc xây dựng các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng TN biểu diễn trong dạy học SH ở trường THPT, tôi đã tiến hành điều tra về nhận thức, mức độ sử dụng, hiệu quả sử dụng cũng như việc cải tiến, thiết kế các TN của GV. Kết quả khảo sát mức độ nhận thức của GV về việc sử dụng TN trong quá trình dạy học SH ở trường THPT thể hiện qua bảng 1.1 Bảng 1.1. Kết quả khảo sát mức độ nhận thức của GV về việc sử dụng thí nghiệm trong quá trình dạy học ở trường THPT Mức độ nhận thức và lí do Số phiếu Tỉ lệ % A. Mức độ nhận thức - Rất cần thiết. - Cần thiết. - Không cần thiết. 15 5 0 75% 25% 0 B. Các lí do - Kích thích được hứng thú học tập của HS. - Phát huy được tính tích cực, độc lập, sáng tạo của HS trong quá trình dạy học. - Đảm bảo kiến thức vững, chắc. - Chuẩn bị công phu, mất nhiều thời gian. - Hiệu quả bài học không cao. - Không thi cử 10 15 18 16 9 0 18 50% 75% 90% 80% 19.6 0 39.1 Kết quả thu được cho thấy: Hiện nay, giáo viên THPT đều đánh giá cao tầm quan trọng và sự cần thiết của việc sử dụng TN trong quá trình dạy học. 100% GV được khảo sát đều khẳng định không thể thiếu TN trong quá trình dạy học SH. Theo đánh giá của giáo viên THPT, việc sử dụng các TN trong dạy học SH đảm bảo cho HS nắm kiến thức vững chắc (90%), tạo được hứng thú cho HS (50%), phát huy được tính tích cực, độc lập, sáng tạo của HS trong quá trình học tập (75%). Từ sự phân tích trên cho thấy giáo viên THPT đã có sự nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của TN trong quá trình dạy học SH. Điều đó có thể cho phép khẳng định mức độ cần thiết và ý nghĩa của TN trong dạy học ở trường THPT hiện nay. 2.2.1.2. Mức độ sử dụng thí nghiệm biểu diễn của giáo viên ở các trường THPT trong quá trình dạy học sinh học hiện nay. Để đánh giá mức độ sử dụng thí nghiệm biểu diễn của giáo viên ở các trường THPT hiện nay tôi dựa trên cơ sở đánh giá của GV và kết quả điều tra được trình bày trong bảng 1.2 như sau: Bảng 1.2. Kết quả khảo sát mức độ sử dụng thí nghiệm trong dạy học Sinh học ở trường THPT. Mức độ sử dụng Số phiếu Tỉ lệ (%) - Thường xuyên. - Thỉnh thoảng - Không sử dụng 8 30 2 20% 75% 5% Từ kết quả thu được chúng tôi có thể đi đến một số nhận định sau: Trong các trường THPT hiện nay, GV đã sử dụng TN trong quá trình dạy học nhưng mức độ sử dụng là không thường xuyên (75% GV thỉnh thoảng có sử dụng và 5% GV không bao giờ sử dụng). Kết quả này phản ánh thực trạng là mặc dù giáo viên đã nhận thức đúng đắn về sự cần thiết của TN trong quá trình dạy học SH, nhưng việc sử dụng TN trong thực tế lại rất hạn chế. Điều này tạo nên mâu thuẫn giữa nhận thức và mức độ sử dụng TN của GV trong quá trình dạy học ở trường THPT hiện nay. 2.2.1.3. Thái độ và kết quả học tập của học sinh trong các giờ có sử dụng thí nghiệm biểu diễn sinh học. Về thái độ của HS đối với môn học, chúng tôi đã điều tra và kết quả được thể hiện qua bảng 1.3. Bảng 1.3. Kết quả điều tra lí do học sinh thích học môn Sinh học Lí do thích học môn SH Số phiếu Tỉ lệ (%) - Thầy, cô dạy dễ hiểu, hấp dẫn - Được quan sát, được làm TN - Thầy (cô) vui tính, yêu quý HS. - Lí do khác 45` 40 15 8 45% 40% 15% 7.05 Qua bảng số liệu trên cho thấy, lí do hàng đầu khiến HS thích học môn SH là phương pháp giảng dạy của GV và một lí do thứ hai khiến cho HS yêu thích môn học đó là được quan sát, được làm TN. Điều này một lần nữa. Khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động TN trong dạy học SH. 2.2.1.4 Quá trình sử dụng thí nghiệm của GV trong quá trình dạy học sinh học ở trường THPT hiện nay. Kết quả kiểm tra tình hình sử dụng thí nghiệm trong dạy học sinh học được thể hiện ở bảng 1.4 như sau: Bảng 1.4. Kết quả điều tra thực trạng sử dụng thí nghiệm trong tiến trình dạy học sinh học. Tiêu chí Nội dung Số phiếu Tỉ lệ (%) Các bài sử dụng TN - lý thuyết - thực hành 2 18 10% 90% Kết quả trên cho thấy : TN chủ yếu được GV sử dụng trong các bài thực hành (90%) còn các khâu trong quá trình dạy học lý thuyết rất ít khi được đưa vào (10%). 2.2.2. Nguyên nhân của thực trạng. Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thực hành TN ở nhiều trường THPT chưa đảm bảo đặc biệt là các trường THPT miền núi. Trong đó, sự thiếu hụt về chủng loại và suy giảm về chất lượng thiết bị, dụng cụ là nguyên nhân khách quan cơ bản nhất. Vấn đề cốt lõi dẫn đến hiệu quả sử dụng các TN chưa cao là do khả năng và mức độ sử dụng của GV. Thực tế cho thấy, quá trình sử dụng các TN biểu diễn của GV còn gặp nhiều khó khăn, việc chuẩn bị công phu mất nhiều thời gian, không áp dụng theo đúng qui trình TN đã gây một số khó khăn cho GV về mặt thời gian cũng như kết quả của TN. Hơn nữa, mặc dù nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của TN nhưng mức độ sử dụng TN trong dạy học là không thường xuyên, GV chưa tự giác trong việc khai thác, sử dụng TN trong giảng dạy, sợ nếu không có kết quả hoặc kết quả thực hành khác với kiến thức chuẩn thì sẽ gây phản tác dụng đối với người học. Do đó, GV rất ngại khi sử dụng thí nghiệm biểu diễn trong các khâu khai thác kiến thức mới của bài học. Vì vậy chất lượng dạy học không cao, chưa phát huy tối đa tiềm lực của học sinh. Từ kết quả điều tra, khảo sát thực trạng việc sử dụng TN trong quá trình dạy học SH ở trường THPT cho phép đi đến kết luận: Việc thiết kế và sử dụng hiệu quả sử dụng TN biểu diễn trong dạy học SH là vấn đề cấp bách, cần thiết nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học. 2.3. Thiết kế và sử dụng thí nghiệm biểu diễn trong day học sinh học tế bào ( sinh học 10 ). 2.3.1. Đặc điểm nội dung phần sinh học tế bào Tế bào là đơn vị cơ sở của sự sống, được Robert Hooke phát hiện năm 1665 và năm 1839 Schleiden lần đầu tiên trình bày thuyết tế bào. Chương trình SH ở trường THPT hiện nay, SH tế bào được dạy ở lớp 10, là phần khó nhưng rất quan trọng, đó là cơ sở khoa học để học các phần về SH vi sinh vật, SH cơ thể, SH quần thể, SH quần xã, hệ sinh thái và sinh quyển. Phần SH tế bào bao gồm những kiến thức về thành phần Hóa học của tế bào, cấu trúc tế bào, chuyển hóa vật chất và năng lượng, phân chia tế bào. Những kiến thức này được trình bày đi từ thành phần Hóa học (Chương I) đến cấu tạo tế bào (Chương II), chuyển hóa vật chất và năng lượng (Chương III) và cuối cùng là sự phân chia tế bào (Chương IV). Cách bố trí như vậy phù hợp với lôgic nội dung và lôgic nhận thức của HS, giúp HS thấy được cấu tạo của các phân tử, mối tương tác giữa các phân tử để tạo nên các bào quan và các bào quan này lại tương tác với nhau để tạo nên tế bào – đơn vị tổ chức cơ bản của sự sống có khả năng thực hiện các chức năng quan trọng của sinh vật như trao đổi chất và trao đổi năng lượng cũng như sinh sản. Khác với phần SH tế bào cũ, SH tế bào trong chương trình SH 10 hiện nay được bổ sung rất nhiều kiến thức mới và hiện đại như: trong phần chuyển hóa vật chất và năng lượng có khái niệm chuyển hóa vật chất và năng lượng (SGK cũ là trao đổi chất và năng lượng), quá trình hô hấp tế bào được trình bày với ba quá trình: đường phân, chu trình Crep và chuỗi truyền điện tử Trong phần phân bào, nếu như trong SGK Sinh học cũ đặc tính sinh sản và phân bào được giới thiệu rời rạc trong nhiều chương của lớp 10, 11 một cách sơ sài thì trong SGK SH 10, sự phân bào được giới thiệu tập trung vào một chương, điều đó nói lên tính lôgic của chương trình mới, xem sự phân bào như là một chức năng quan trọng của tế bào. Nhờ có cơ sở tế bào học của phân bào HS dễ dàng tiếp thu kiến thức về sinh sản, di truyền, biến dị . Như vậy có thể thấy, SH tế bào là phần rất khó nhưng vô cùng quan trọng trong chương trình SH phổ thông. HS phải nắm vững các kiến thức về cấu tạo, chức năng của tế bào cũng như bản chất của các hiện tượng, qui luật, quá trình SH diễn ra ở cấp độ tế bào để có cơ sở khoa học học tiếp các học phần SH tiếp theo. Mặt khác, SGK Sinh học 10 được trình bày theo quan điểm gắn kiến thức với việc giải quyết các vấn đề của đời sống xã hội nên đòi hỏi cả GV và HS cần phải định hướng đúng cách dạy và cách học, học đi đôi với hành, kiến thức lí thuyết gắn liền với thực tiễn. Do đó, các TN thực hành trong phần SH tế bào có vai trò quan trọng, giúp HS hiểu được sâu sắc, toàn diện bản chất của các vấn đề SH, củng cố các kiến thức lí thuyết đã học, rèn luyện tư duy, kĩ năng, kĩ xảo thực hành, hình thành và phát triển tư duy kĩ thuật, giúp các em thêm yêu môn học. 2.3.2. Thiết kế các thí nghiệm biểu diễn sử dụng trong dạy học phần sinh học tế bào. Trong khâu nghiên cứu bài mới, TN được sử dụng có tính chất nêu vấn đề GV có thể tổ chức dạy học trên lớp theo trình tự sau: Dựa vào nội dung của bài học, thiết kế các TN hoặc các bài tập TN để tạo tình huống có vấn đề, nghĩa là tạo cho HS những mâu thuẫn giữa những điều đã biết và những điều chưa biết, mâu thuẫn giữa lí thuyết và thực tiễnnhằm tạo ra động lực cho HS học tập lành mạnh ( Cần chú ý những mâu thuẫn được tạo ra phải đảm bảo tính lí thú và tính vứa sứ
Tài liệu đính kèm:
- skkn_thiet_ke_va_su_dung_thi_nghiem_bieu_dien_trong_day_hoc.doc