SKKN Thiết kế hệ thống bài tập hóa học theo hướng tiếp cận chương trình đánh giá học sinh quốc tế Pisa, cho chương halogen lớp 10 THPT

SKKN Thiết kế hệ thống bài tập hóa học theo hướng tiếp cận chương trình đánh giá học sinh quốc tế Pisa, cho chương halogen lớp 10 THPT

Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, trong sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, khoa học giáo dục và sự cạnh tranh quyết liệt trên nhiều lĩnh vực giữa các quốc gia trên thế giới. Xu thế chung của thế giới khi bước vào thế kỉ XXI là các nước tiến hành đổi mới mạnh mẽ và cải cách giáo dục.

Trước bối cảnh mà toàn nghành giáo dục nước ta đang chuẩn bị cho quá trình đổi mới toàn diện chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau năm 2015, Bộ GD-ĐT chủ trương cần thiết phải đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục theo định hướng phát triển năng lực người học.

Qua thực tiễn dạy học môn Hóa học tại trường Trung học phổ thông và quá trình học tập, nghiên cứu sau đại học, là một giáo viên tôi rất quan tâm đến chủ trương đổi mới toàn diện nền giáo dục của nước ta hiện nay. Vì vậy, bản thân luôn tìm tòi, tra cứu tài liệu, nghiên cứu, tìm hiểu xem đổi mới nền giáo dục theo hướng tiếp cận năng lực là như thế nào. Và ngay lập tức, tôi đã bị cuốn hút, thích thú bởi các bài toán của chương trình đánh giá học sinh quốc tế Pisa (Programme for International Student Assessment – Pisa)[3]. Từ mục tiêu, cách tiếp cận đến giải quyết vấn đề của các bài toán PISA rất mới mẻ, đặc biệt, hấp dẫn, đã dần hình thành trong tôi một câu trả lời thú vị về vấn đề mà bấy lâu mình quan tâm. Việc sử dụng những bài toán của chương trình đánh giá học sinh quốc tế Pisa thực sự là một phương pháp học tập, kiểm tra đánh giá tiên tiến của thế giới, tiếp cận với mục tiêu đổi mới toàn diện nền giáo dục theo định hướng phát triển năng lực nước ta hiện nay. Vậy, tại sao chúng ta không nghiên cứu, học tập xây dựng cho mình hệ thống bài tập tương tự chương trình Pisa để sử dụng trong quá trình dạy và học hiện nay?

 Từ những lý do đó, chúng tôi quyết tâm thực hiện hoàn thiện sáng kiến kinh nghiệm với nội dung “Thiết kế hệ thống bài tập hóa học theo hướng tiếp cận chương trình đánh giá học sinh quốc tế Pisa, cho chương halogen lớp 10 THPT”.

 

docx 33 trang thuychi01 19193
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Thiết kế hệ thống bài tập hóa học theo hướng tiếp cận chương trình đánh giá học sinh quốc tế Pisa, cho chương halogen lớp 10 THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
TRƯỜNG THPT LÊ VĂN LINH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI
“Thiết kế hệ thống bài tập hóa học theo hướng tiếp cận chương trình đánh giá học sinh quốc tế Pisa, cho chương halogen lớp 10 THPT”.
Người thực hiện: Hà Xuân Tuân
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THPT Lê Văn Linh
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Hóa học
THANH HOÁ NĂM 2017
 	 MỤC LỤC. Trang
I. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài............................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu.....................................................................1
1.3. Đối tượng nghiên cứu....................................................................2
1.4. Phương pháp nghiên cứu...............................................................2
	II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm..................................................... 4
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm....................................... 4
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm......... 7
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề......................................................................................................... 8
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường........................................................... 14
III. Kết luận, kiến nghị......................................................................... 15
3.1. Kết luận........................................................................................ 16
3.2. Kiến nghị...................................................................................... 17
Tài liệu tham khảo............................................................................. 18
I.MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài: 
Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, trong sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, khoa học giáo dục và sự cạnh tranh quyết liệt trên nhiều lĩnh vực giữa các quốc gia trên thế giới. Xu thế chung của thế giới khi bước vào thế kỉ XXI là các nước tiến hành đổi mới mạnh mẽ và cải cách giáo dục.
Trước bối cảnh mà toàn nghành giáo dục nước ta đang chuẩn bị cho quá trình đổi mới toàn diện chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau năm 2015, Bộ GD-ĐT chủ trương cần thiết phải đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục theo định hướng phát triển năng lực người học.
Qua thực tiễn dạy học môn Hóa học tại trường Trung học phổ thông và quá trình học tập, nghiên cứu sau đại học, là một giáo viên tôi rất quan tâm đến chủ trương đổi mới toàn diện nền giáo dục của nước ta hiện nay. Vì vậy, bản thân luôn tìm tòi, tra cứu tài liệu, nghiên cứu, tìm hiểu xem đổi mới nền giáo dục theo hướng tiếp cận năng lực là như thế nào. Và ngay lập tức, tôi đã bị cuốn hút, thích thú bởi các bài toán của chương trình đánh giá học sinh quốc tế Pisa (Programme for International Student Assessment – Pisa)[3]. Từ mục tiêu, cách tiếp cận đến giải quyết vấn đề của các bài toán PISA rất mới mẻ, đặc biệt, hấp dẫn, đã dần hình thành trong tôi một câu trả lời thú vị về vấn đề mà bấy lâu mình quan tâm. Việc sử dụng những bài toán của chương trình đánh giá học sinh quốc tế Pisa thực sự là một phương pháp học tập, kiểm tra đánh giá tiên tiến của thế giới, tiếp cận với mục tiêu đổi mới toàn diện nền giáo dục theo định hướng phát triển năng lực nước ta hiện nay. Vậy, tại sao chúng ta không nghiên cứu, học tập xây dựng cho mình hệ thống bài tập tương tự chương trình Pisa để sử dụng trong quá trình dạy và học hiện nay?
 	Từ những lý do đó, chúng tôi quyết tâm thực hiện hoàn thiện sáng kiến kinh nghiệm với nội dung “Thiết kế hệ thống bài tập hóa học theo hướng tiếp cận chương trình đánh giá học sinh quốc tế Pisa, cho chương halogen lớp 10 THPT”.
 1.2. Mục đích nghiên cứu.
 Hiện nay đã có một số tài liệu nghiên cứu liên quan đến PISA như:
- PGS.TS. Cao Cự Giác: Đưa ra cách thiết kế và sử dụng bài tập thực nghiệm trong dạy học Hóa học [4], [5]. Xong mục đích đề tài này là tập trung thiết kế hệ thống bài toán hóa học theo hướng tiếp cận chương trình đánh giá học sinh quốc tế (Pisa) phù hợp với điều kiện giáo dục và định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở Việt Nam. Góp phần cải tiến nội dung và công cụ kiểm tra đánh giá làm cho HS có hứng thú, say mê học tập môn Hóa học. 
 1.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu về xu thế đổi mới nền giáo dục theo định hướng phát triển năng lực học sinh, tìm hiểu chương trình đánh giá học sinh quốc tế Pisa. Thiết kế hệ thống bài tập phần Halogen theo hướng tiếp cận PISA.
 - Đề xuất cách sử dụng hệ thống bài tập hóa học phần Halogen, theo hướng tiếp cận PISA để đánh giá học sinh trong dạy học hóa học ở trường THPT Lê Văn Linh
 1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp điều tra (phiếu điều tra).
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp xây dựng các bài toán theo mẫu.
- Phương pháp thu thập thông tin và xử lý số liệu.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.1.1. Đổi mới và đánh giá theo hướng tiếp cận với PISA
Việc đổi mới giáo dục trung học dựa trên những đường lối, quan điểm chỉ đạo
giáo dục của nhà nước, đó là những định hướng quan trọng về chính sách và quan điểm trong việc phát triển và đổi mới giáo dục trung học. Việc đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá cần phù hợp với những định hướng đổi mới chung của chương trình giáo dục trung học phổ thông hiện nay.
 Mục tiêu của OECD  là đánh giá năng lực học sinh , OECD quan niệm đánh giá phải vận dụng những kiến thức trong nhà trường để giải quyết các vấn đề liên quan đến thực tiễn. Đề thi không hỏi theo kiểu 1+1=2 mà hỏi em có 5 nghìn đi chợ phải tính toán mua những gì để đủ được 5 nghìn đó[3].
Đó là hình thức đánh giá soi thấu toàn diện năng lực , động cơ, thái độ người học là hình thức đánh giá tiên tiến, và hết sức cần thiết cho mỗi quốc gia trên thế giới.
2.1.2. Tìm hiểu về chương trình đánh giá học sinh quốc tế PISA
2.1.2.1. Lịch sử ra đời
 Nhằm đáp ứng yêu cầu của các nước thành viên về thu thập và cung cấp các dữ liệu có thể so sánh về kiến thức và kỹ năng của học sinh OECD (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế thế giới - Organization for Economic Cooperation and Development) đã bắt đầu chuẩn bị PISA vào khoảng giữa thập kỷ 90. Năm 1997 PISA đã chính thức được triển khai. Cuộc khảo sát đầu tiên diễn ra trong năm 2000, các cuộc tiếp theo vào các năm 2003; 2006; 2009 và kế hoạch sẽ là các cuộc điều tra trong các năm 2012, 2015 và những năm tiếp theo[3]. 
 2.1.2.2. Khái niệm PISA
PISA là chữ viết tắt của "Programme for International Student Assessment - Chương trình đánh giá học sinh quốc tế" do OECD khởi xướng và chỉ đạo. 
 2.1.2.3. Đặc điểm của PISA
 PISA nổi bật nhờ quy mô toàn cầu và tính chu kỳ. Hiện đã có hơn 60 quốc gia tham gia vào cuộc khảo sát có chu kỳ 3 năm 1 lần này để theo dõi tiến bộ của mình trong phấn đấu đạt được các mục tiêu giáo dục cơ bản. 
 Cho tới nay PISA là cuộc khảo sát giáo dục duy nhất đánh giá kiến thức và kỹ năng của học sinh ở độ tuổi 15, độ tuổi kết thúc giáo dục bắt buộc ở hầu hết các quốc gia. 
 2.1.2.4. Mục tiêu của PISA
 Mục tiêu của chương trình PISA nhằm kiểm tra xem, khi đến độ tuổi kết thúc phần giáo dục bắt buộc, học sinh đã được chuẩn bị để đáp ứng các thách thức của cuộc sống sau này ở mức độ nào. Quy mô của PISA là rất lớn và có tính toàn cầu. Mỗi chu kì đánh giá tập trung vào một lĩnh vực chính. Thời gian đánh giá dành cho lĩnh vực chính chiếm khoảng 2/3 tổng thời gian của cả đề thi.
Các lĩnh vực năng lực được đánh giá trong các kỳ PISA (mỗi kì có 1 lĩnh vực được chọn là trọng tâm đánh giá)[3]
Năm 2000
Năm 2003
Năm 2006
Năm 2009
Năm 2012
Năm 2015
Đọc hiểu
Làm toán
Khoa học
Đọc hiểu
Làm toán
Khoa học
Đọc hiểu
Làm toán
Khoa học
Đọc hiểu
Làm toán
Khoa học
Đọc hiểu
Làm toán
Khoa học
Đọc hiểu
Làm toán
Khoa học
 2.1.2.5. Đối tượng đánh giá của PISA
Học sinh trong độ tuổi 15 (được định nghĩa chính xác là từ 15 tuổi 3 tháng tới 16 tuổi 2 tháng) đang theo học trong các nhà trường trung học. 
2.1.3.Đề thi và mã hóa trong PISA
Các câu hỏi của PISA đều là các câu hỏi dựa trên các tình huống của đời sống thực và không chỉ giới hạn bởi cuộc sống thường ngày của các em trong nhà trường, nhiều tình huống được lựa chọn không phải chỉ để học sinh thực hiện các thao tác về tư duy, mà còn để học sinh ý thức về các vấn đề xã hội (như là sự nóng lên của Trái đất, phân biệt giàu nghèo,). Kiến thức của câu hỏi phong phú, không chỉ bao gồm các câu hỏi lựa chọn đáp án mà còn yêu cầu học sinh tự xây dựng nên đáp án của mình. Chất liệu được sử dụng để xây dựng các câu hỏi này cũng đa dạng, ví dụ như: bài tập đọc hiểu của PISA có thể xây dựng trên bảng biểu, đồ thị, tranh, ảnh quảng cáo, văn bản, bài báo....[3].
* Các kiểu câu hỏi được sử dụng:
- Câu hỏi mở đòi hỏi trả lời ngắn (short response question).
- Câu hỏi mở đòi hỏi trả lời dài (khi chấm sẽ phải tách ra từng phần để cho điểm) (open- constructed response question).
- Câu hỏi đóng đòi hỏi trả lời (dựa trên những trả lời có sẵn) (close - constructed response question).
- Câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn (Multiple choice).
- Câu hỏi Có - Không, Đúng - Sai phức hợp (Yes - No, True - False). 
* Các mức trả lời:
Mức tối đa 
Mức chưa tối đa 
Mức không đạt 
- Sử dụng các mức này thay cho khái niệm “Đúng” hay “không đúng”.
- Một số câu hỏi không có câu trả lời “đúng”. Hay nói đúng hơn, các câu trả lời được đánh giá dựa vào mức độ HS hiểu văn bản hoặc chủ đề trong câu hỏi. 
- “Mức tối đa” không nhất thiết chỉ là những câu trả lời hoàn hảo hoặc đúng hoàn toàn. 
- “Mức không đạt” không có nghĩa là hoàn toàn không đúng. 
Ÿ Cách chấm điểm: 
PISA sử dụng thuật ngữ coding (Đáp án), không sử dụng khái niệm chấm bài vì mỗi mã của câu trả lời được quy ra điểm số tùy theo câu hỏi.
Các câu trả lời đối với các câu hỏi nhiều lựa chọn hoặc câu trả lời của một số câu hỏi trả lời ngắn được xây dựng trước sẽ được nhập trực tiếp vào phần mềm nhập dữ liệu.
Các câu trả lời còn lại sẽ được mã hoá bởi các chuyên gia. Sau khi mã hoá xong sẽ được nhập vào phần mềm. OECD nhận dữ liệu và chuyển đổi thành điểm cho mỗi HS.
 Các nhãn thể hiện mức độ trả lời bao gồm: Mức đạt được tối đa cho mỗi câu hỏi và được quy ước gọi là “Mức đầy đủ”, mức “Mức không đạt” mô tả các câu trả lời không được chấp nhận và bỏ trống không trả lời. Một số câu hỏi có thêm “Mức chưa đầy đủ” cho những câu trả lời thỏa mãn một phần nào đó
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Những kết quả bước đầu của việc đổi mới phương pháp KT-ĐG theo hướng tiếp cận pisa.
*Đối với giáo viên:
 - Đông đảo giáo viên có nhận thức đúng đắn về đổi mới PPDH. Nhiều giáo viên đã xác định rõ sự cần thiết và có mong muốn thực hiện đổi mới đồng bộ PPDH và KT-ĐG.
 - Một số giáo viên đã vận dụng được các phương pháp KT-ĐG tích cực trong dạy học, vận dụng được quy trình KT-ĐG mới nhất .
 +Thuận lợi.
Việc sử dụng bài tập theo chuẩn Pisa trong dạy học là một vấn đề mới, phù hợp với xu thế đổi mới toàn diện nền giáo dục theo định hướng phát triển năng lực học sinh và xu thế toàn cầu hóa giáo dục trên thế giới nên đang được sự quan tâm của các cấp quản lý giáo dục. 
 + Khó khăn.
Nguồn tư liệu phục vụ cho việc xây dựng hệ thống bài tập theo chuẩn Pisa còn nhiều hạn chế.
Chương trình đánh giá học sinh theo chuẩn Pisa chưa được triển khai trên toàn quốc, nội dung các câu hỏi chưa đi vào chiều sâu của từng môn học.
Đội ngũ giáo viên nói chung và giáo viên dạy môn hóa học nói riêng cũng phần nào chưa tiếp cận với cách đánh giá học sinh của tổ chức Pisa.
Công tác kiểm tra và thi của nước ta mặt dù có nhiều cải tiến song vẫn chưa theo hướng phát huy tư duy tích cực, sáng tạo của học sinh. Khâu ra đề thi vẫn còn mang tính chất học thuộc, ghi nhớ và tái hiện, nặng về tính toán .
2.2.2. Những mặt hạn chế của hoạt động đổi mới kiểm tra đánh giá thông qua hệ thống câu hỏi và bài tập theo hướng tiếp cận pisa ở trường THPT.
- Dù không hiểu nhiều về câu hỏi và bài tập trong kì thi PISA, song thực tế trong quá trình dạy học đa số GV đều đã có sử dụng những dạng câu hỏi bài tập theo 
tiếp cận PISA như đã nêu. Tuy nhiên mức độ sử dụng còn ít, chưa đa dạng và hiệu quả sử dụng chưa cao. GV sử dụng phổ biến nhất vẫn là những câu hỏi giải thích các hiện tượng thực tiễn. 
- Những dạng bài tập liên quan đến những vấn đề thực tế của cá nhân và cộng đồng, những dạng bài tập phát huy năng lực, tư duy khoa học của HS đã được sử dụng nhưng còn rất hạn chế trong kiểm tra - đánh giá HS. 
- Chưa khai thác triệt để các ứng dụng của Hóa học trong thực tế và các vấn đề thực tiễn có liên quan đến kiến thức Hóa học vào nội dung bài tập nên tính thực tiễn của môn học chưa cao. 
- GV ít để ý đến ý kiến cá nhân HS, HS lĩnh hội kiến thức còn bị động, phụ thuộc nhiều vào giáo viên.
2.3. Cơ sở và nguyên tắc thiết kế hệ thống bài tập tích hợp 
Để thiết kế được một bài tập hay theo hướng tiếp Pisa, chúng ta phải thực hiện các bước sau[3];[4]:
Bước 1. Xác định tên chủ đề bài tập: Tên chủ đề bài tập cho biết phần kiến thức trọng tâm, xuyên suốt được đề cập đến trong bài tập.
Bước 2. Xây dựng nội dung phần dẫn: Phần dẫn chứa đựng các nội dung, số liệu (đáng tin cậy), hình ảnh có liên quan đến chủ đề của bài tập, liên quan đến các câu hỏi trong bài tập đó. Phần dẫn phải được trình bày rõ ràng, mạch lạc, sinh động, dễ hiểu và thực sự thiết thực cho việc trả lời các câu hỏi trong bài tập. 
Bước 3. Xây dựng các câu hỏi xoay quanh chủ đề bài tập, chủ yếu là các câu hỏi liên quan thực tiễn, nhằm phát triển năng lực vận dụng của học sinh.
Bước 4. Xây dựng hướng dẫn chấm. Xây dựng hướng dẫn chấm theo 3 mức độ: Mức đầy đủ; Mức chưa đầy đủ; Không đạt hoặc theo 2 mức độ: Mức đầy đủ; Không đạt. Khác với bài tập trong kì thi Pisa, đáp án được mã hóa theo các mức độ, thì trong luận văn này, chúng tôi không mã hóa mà Việt hóa đáp án theo các mức độ để dễ dàng áp dụng vào trong quá trình giảng dạy. 
Bước 5. Kiểm tra, chỉnh sửa bài tập về văn phong, nội dung, ngữ pháp
 2.3.1. Khái quát về chương Halogen 
Bài 1: Khái quát về nhóm Halogen
*Kiến thức. Biết được.
- Vị trí nhóm halogen trong bảng tuần hoàn.
- Sự biến đổi độ âm điện, bán kính nguyên tử và một số tính chất vật lí của các nguyên tố trong nhóm.
- Cấu hình lớp electron ngoài cùng của nguyên tử các nguyên tố halogen tương tự nhau. Tính chất hoá học cơ bản của các nguyên tố halogen là tính oxi hoá mạnh.
- Sự biến đổi tính chất hóa học của các đơn chất trong nhóm halogen.
*Kĩ năng
- Viết được cấu hình lớp electron ngoài cùng của nguyên tử F, Cl, Br, I.
- Dự đoán được tính chất hóa học cơ bản của halogen là tính oxi hóa mạnh dựa vào cấu hình lớp electron ngoài cùng và một số tính chất khác của nguyên tử.
- Viết được các PTHH chứng minh tính chất oxi hoá mạnh của các nguyên tố halogen, quy luật biến đổi tính chất của các nguyên tố trong nhóm.
- Tính thể tích hoặc khối lượng dung dịch chất tham gia hoặc tạo thành sau phản ứng.
*Phát triển năng lực:
- Năng lực tính toán hóa học 
- Năng lực sử dụ
ng ngôn ngữ hoá học.
Bài 2: Clo
*Kiến thức 
Biết được: Tính chất vật lí, trạng thái tự nhiên, ứng dụng của clo, phương pháp điều chế clo trong phòng thí nghiệm, trong công nghiệp.
Hiểu được: Tính chất hoá học cơ bản của clo là phi kim mạnh, có tính oxi hoá mạnh (tác dụng với kim loại, hiđro).Clo còn thể hiện tính khử .
*Kĩ năng
- Dự đoán, kiểm tra và kết luận được về tính chất hóa học cơ bản của clo.
- Quan sát các thí nghiệm hoặc hình ảnh thí nghiệm rút ra nhận xét.
- Viết các PTHH minh hoạ tính chất hoá học và điều chế clo.
- Tính thể tích khí clo ở đktc tham gia hoặc tạo thành trong phản ứng.
*Phát triển năng lực:
- Năng lực tính toán hóa học 
- Năng lực vận dụng kiến thức hoá học vào cuộc sống.
- Năng lực giải quyết vấn đề thông qua môn hoá học.
Bài 3: Hiđro clorua - Axit clohiđric và muối clorua
*Kiến thức
Biết được: 
- Cấu tạo phân tử, tính chất của hiđro clorua (tan rất nhiều trong nước tạo thành dung dịch axit clohiđric).
- Tính chất vật lí, điều chế axit clohiđric trong phòng thí nghiệm và trong công nghiệp.
- Tính chất, ứng dụng của một số muối clorua, phản ứng đặc trưng của ion clorua.
- Dung dịch HCl là một axit mạnh, có tính khử.
*Kĩ năng
- Dự đoán, kiểm tra dự đoán, kết luận được về tính chất của axit HCl.
- Viết các PTHH chứng minh tính chất hoá học của axit HCl. 
- Phân biệt dung dịch HCl và muối clorua với dung dịch axit và muối khác.
- Tính nồng độ hoặc thể tích của axit HCl tham gia hoặc tạo thành trong phản ứng
*Phát triển năng lực
- Năng lực tính toán hóa học 
- Năng lực sử dụng ngôn ngữ hoá học.
- Năng lực thực hành hóa học
 - Năng lực vận dụng kiến thức hoá học vào cuộc sống.
Bài 4: Sơ lược về hợp chất có oxi của clo
*Kiến thức
Biết được: Thành phần hóa học, ứng dụng, nguyên tắc sản xuất.
Hiểu được: Tính oxi hóa mạnh của một số hợp chất có oxi của clo (nước Gia-ven, clorua vôi).
*Kĩ năng
- Viết được các PTHH minh hoạ tính chất hóa học và điều chế nước Gia-ven, clorua vôi .
- Sử dụng có hiệu quả, an toàn nước Gia-ven, clorua vôi trong thực tế. 
*Phát triển năng lực:
- Năng lực sử dụng ngôn ngữ hoá học.
- Năng lực giải quyết vấn đề thông qua môn hoá học.
- Năng lực vận dụng kiến thức hoá học vào cuộc sống.
Bài 5: Flo, brom, iot.
*Kiến thức
Biết được:
 Sơ lược về tính chất vật lí, trạng thái tự nhiên, ứng dụng, điều chế flo, brom, iot và một vài hợp chất của chúng.
Hiểu được :
 Tính chất hoá học cơ bản của flo, brom, iot là tính oxi hoá, flo có tính oxi hoá mạnh nhất; nguyên nhân tính oxi hoá giảm dần từ flo đến iot.
*Kĩ năng
- Dự đoán, kiểm tra và kết luận được tính chất hoá học cơ bản của flo, brom, iot.
- Quan sát thí nghiệm, hình ảnh...rút ra được nhận xét .
- Viết được các PTHH chứng minh tính chất hoá học của flo, brom, iot và tính oxi hóa giảm dần từ flo đến iot.
- Tính khối lượng brom, iot và một số hợp chất tham gia hoặc tạo thành trong ph.ứng.
 2.3.2 Một số ví dụ mẫu về cách xây dựng bài tập PISA
Dựa trên đặc điểm, hình thức những bài tập mà kì thi Pisa đã sử dụng, chúng tôi đã tiến hành thiết kế hệ thống các bài tập tiếp cận Pisa nhằm phục vụ cho công tác dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
BÀI 1: NƯỚC MÁY
Trong các nhà máy cung cấp nước sinh hoạt thì khâu cuối cùng của việc xử lí nước là khử trùng nước. Một trong các phương pháp khử trùng nước đang được dùng phổ biến ở nước ta là dùng khí Clo. Lượng Clo được bơm vào nước trong bể tiếp xúc theo tỉ lệ 5 g/m3. 
 Câu hỏi 1: Vì sao Clo trong nước có tính khử trùng, diệt khuẩn?
.......................................
 Câu hỏi 2: Clo là một khí độc. Vì vậy, việc dùng nước máy chứa hàm lượng Clo vượt quá mức cho phép sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe. Do đó, để dùng nước máy an toàn, chúng ta cần phải
A. Xả nước máy ra chậu, phơi 1 thời gian mới sử dụng.
B. Dùng ngay nước máy vừa mới ra khỏi vòi.
C. Xả nước máy vào xô, chậu và đậy kín.
D. Trộn nước máy với nước giếng rồi sử dụng
..
 Câu hỏi 3: Nếu với dân số Hà Nội là 3 triệu, mỗi người dùng 200 lít nước/ngày, thì các nhà máy cung cấp nước sinh hoạt cần dùng bao nhiêu kg Clo mỗi ngày cho việc xử lí nước? 
..
 Hướng dẫn chấm bài 1
 Câu hỏi 1
Mức đầy đủ:
 	 Nước Clo có tính tẩy trùng diệt khuẩn do nước Clo chứa HClO có tính oxi hóa rất mạnh. 
 	HClO sinh ra do phản ứng: Cl2 + H2O HCl + HClO
Mức chưa đầy đủ: Học sinh giải thích được do tính oxi hóa mạnh của nước Clo mà chưa viết được quá trình sinh ra HClO.
Không đạt: Giải thích sai hoặc không làm bài.
 Câu hỏi 2
Mức đầy đủ: Chọn đáp án A. Xả nước máy ra chậu, phơi 1 thời gian mới sử dụng.
Không đạt: Chọn đáp án khác hoặc không làm bài.
 Câu hỏi 3
Mức đầy đủ: Tính toán đúng như sau:
Lượng nước cần dùng cho thành phố Hà Nội mỗi ngày là: 
200 . 3.106 = 6.108 lít = 6.105 m3 
Lượng khí Clo cần dùng là: 6.105. 5 = 3.106 gam = 3.103 kg
Mức chưa đầy đủ: Công thức đúng nhưng kết quả sai do nhầm lẫn hoặc viết sai.

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_thiet_ke_he_thong_bai_tap_hoa_hoc_theo_huong_tiep_can_c.docx