SKKN Thiết kế bộ dụng cụ lọc tách động vật trong đất và hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học nhóm động vật chân khớp bé

SKKN Thiết kế bộ dụng cụ lọc tách động vật trong đất và hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học nhóm động vật chân khớp bé

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung ương khóa XI (nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo có nêu “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học” [5].

Thông tư số 38/2012/TT-BGDĐT ngày 02/11/2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã đánh giá vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học ở trường phổ thông là: giúp học sinh vận dụng kiến thức của các môn học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn; góp phần đổi mới hình thức tổ chức dạy học; đổi mới hình thức và phương pháp đánh giá kết quả học tập; phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh; thúc đẩy giáo viên tự bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ; nâng cao chất lượng dạy học trong các cơ sở giáo dục trung học; phát triển văn hóa đọc trong trường trung học gắn với đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục trải nghiệm sáng tạo theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh [6].

Như vậy, bên cạnh việc đổi mới phương pháp dạy học, người giáo viên cần phải tích cực sử dụng và làm thêm đồ dùng thiết bị dạy học, giúp học sinh làm quen với nghiên cứu khoa học. Để giúp học sinh làm quen với nghiên cứu khoa học thì người giáo viên hướng dẫn trước hết phải am hiểu lĩnh vực nghiên cứu, thiết kế được các trang thiết bị thí nghiệm, xây dựng được quy trình, phương pháp nghiên cứu phù hợp với thực tiễn của nhà trường và khả năng của học sinh.

Là một giáo viên được đào tạo cơ bản, sau 15 năm giảng dạy 3 môn Sinh học, Kỹ thuật nông nghiệp và Nghề làm vườn, tôi nhận thấy ngoài các giờ học chính khóa thì các buổi thực hành thí nghiệm đã lôi cuốn được học sinh, kích thích tư duy sáng tạo và tìm hiểu khám phá. Tôi đã từng bước cùng với các em làm những dụng cụ và bố trí các thí nghiệm nghiên cứu đơn giản, từng bước tìm tòi để xác định đối tượng nghiên cứu phù hợp với điều kiện giảng dạy, học tập, phù hợp với năng lực và sự đam mê. Cuối cùng, chúng tôi đã quyết định chọn đối tượng nghiên cứu là nhóm động vật đất, trọng tâm là động vật chân khớp bé (Microarthropoda) trong đất vì chúng là những sinh vật có vai trò rất quan trọng và là đối tượng phù hợp để áp dụng những kiến thức các môn học Sinh – Nông nghiệp.

 

doc 15 trang thuychi01 5040
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Thiết kế bộ dụng cụ lọc tách động vật trong đất và hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học nhóm động vật chân khớp bé", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung ương khóa XI (nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo có nêu “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học” [5].
Thông tư số 38/2012/TT-BGDĐT ngày 02/11/2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã đánh giá vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học ở trường phổ thông là: giúp học sinh vận dụng kiến thức của các môn học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn; góp phần đổi mới hình thức tổ chức dạy học; đổi mới hình thức và phương pháp đánh giá kết quả học tập; phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh; thúc đẩy giáo viên tự bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ; nâng cao chất lượng dạy học trong các cơ sở giáo dục trung học; phát triển văn hóa đọc trong trường trung học gắn với đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục trải nghiệm sáng tạo theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh [6].
Như vậy, bên cạnh việc đổi mới phương pháp dạy học, người giáo viên cần phải tích cực sử dụng và làm thêm đồ dùng thiết bị dạy học, giúp học sinh làm quen với nghiên cứu khoa học. Để giúp học sinh làm quen với nghiên cứu khoa học thì người giáo viên hướng dẫn trước hết phải am hiểu lĩnh vực nghiên cứu, thiết kế được các trang thiết bị thí nghiệm, xây dựng được quy trình, phương pháp nghiên cứu phù hợp với thực tiễn của nhà trường và khả năng của học sinh.
Là một giáo viên được đào tạo cơ bản, sau 15 năm giảng dạy 3 môn Sinh học, Kỹ thuật nông nghiệp và Nghề làm vườn, tôi nhận thấy ngoài các giờ học chính khóa thì các buổi thực hành thí nghiệm đã lôi cuốn được học sinh, kích thích tư duy sáng tạo và tìm hiểu khám phá. Tôi đã từng bước cùng với các em làm những dụng cụ và bố trí các thí nghiệm nghiên cứu đơn giản, từng bước tìm tòi để xác định đối tượng nghiên cứu phù hợp với điều kiện giảng dạy, học tập, phù hợp với năng lực và sự đam mê. Cuối cùng, chúng tôi đã quyết định chọn đối tượng nghiên cứu là nhóm động vật đất, trọng tâm là động vật chân khớp bé (Microarthropoda) trong đất vì chúng là những sinh vật có vai trò rất quan trọng và là đối tượng phù hợp để áp dụng những kiến thức các môn học Sinh – Nông nghiệp.
Một trong những khó khăn khi thực hiện là thiếu dụng cụ và phương pháp nghiên cứu. Bộ lọc tách chuẩn “Berlese-Tullgren” chỉ mới được trang bị ở một số trường Đại học và Viện cứu với giá thành rất cao. Với một trường phổ thông như trường tôi thì không có điều kiện để trang bị được. Mà nếu có thì học sinh cũng không có khả năng thực hiện được quy trình tách lọc và bố trí được các thí nghiệm.
Bằng sự đam mê, ham học hỏi tìm tòi, tôi đã tự thiết kế được bộ dụng cụ tương đối hoàn chỉnh, vật liệu rẻ tiền và xây dựng được các bước thực hiện nghiên cứu nhóm động vật chân khớp bé trong đất. Nhờ đó mà nhiều học sinh đã tự bố trí được các thí nghiệm và thu được kết quả có giá trị khoa học, viết được báo cáo để tham dự các kỳ thi do Tỉnh tổ chức đạt kết quả.
Vì vậy, tôi xin chia sẻ những kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy và hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học với đề tài:
“Thiết kế bộ dụng cụ lọc tách động vật trong đất và hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học nhóm động vật chân khớp bé”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài tập trung giải quyết 2 vấn đề:
- Thiết kế được bộ dụng cụ lọc tách động vật trong đất bao gồm: lựa chọn vật liệu, bố trí các dụng cụ, lọc tách thử nghiệm và đánh giá kết quả.
- Nêu được các bước hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học về nhóm động vật chân khớp bé: xác định đề tài, viết đề cương, tiến hành thu mẫu, lọc tách, phân tích mẫu, xử lí số liệu và viết báo cáo.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: động vật sống trong đất, chủ yếu là nhóm chân khớp bé (Microarthopoda).
- Đối tượng thực hiện thí nghiệm: học sinh lớp 10B1, 10B2, 10B3 và 10B9.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thiết kế bộ dụng cụ lọc tách động vật đất
Từ suy luận lí thuyết về tập tính của động vật là hướng đất dương và hướng sáng âm cùng với sự tham khảo các tài liệu nước ngoài và bộ lọc chuẩn tôi đã lựa chọn các vật liệu dễ kiếm ở địa phương bố trí hệ thống lọc.
Việc bố trí thí nghiệm lặp lại nhiều lần, cải tiến liên tục. Để kiểm chứng, tôi đã chọn 4 nhóm nghiên cứu ở 4 lớp, mỗi lớp gồm 2 học sinh tiến hành toàn bộ quy trình sau đó so sánh kết quả giữa các nhóm, so sánh với kết quả trước cải tiến và so sánh kết quả với bộ lọc chuẩn. Bộ dụng cụ thu được số lượng động vật đất nhiều nhất và quy trình đơn giản nhất sẽ được chọn.
- Phương pháp hướng dẫn học sinh tham gia nghiên cứu khoa học
Trên cơ sở nghiên cứu tài liệu về phương pháp nghiên cứu khoa học và thực tế hướng dẫn học sinh tham gia cuộc thi “Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống trong thực tiễn dành cho học sinh trung học” và cuộc thi “Học sinh sáng tạo khoa học kỹ thuật và nghiên cứu khoa học”, tôi mạnh dạn đưa ra các bước thực hiện. Kiểm tra, sửa chữa sau mỗi lần hướng dẫn các nhóm nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê và tổng kết kinh nghiệm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận 
Trong khoa học Sinh thái đất, thì đất lại là một môi trường sống đặc thù cho các nhóm sinh vật khác nhau. Đây là môi trường trung gian, chuyển tiếp, với ba thể, đa hạt, có hệ thống khoang, kẽ trống liên tiếp, bên trong có chứa khí và một lượng nước ở các dạng liên kết khác nhau. Môi trường sống này, cùng với hệ chất vô sinh và hữu sinh phủ trên bề mặt, đảm bảo các điều kiện sống cho nhiều nhóm động vật khác nhau. 
Động vật sống trong đất có số lượng và sinh khối lớn, chiếm 90% tổng sinh khối động vật cạn và 50% tổng số loài động vật trên trái đất. Động vật đất đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành đất, phân hủy xác hữu cơ, làm gia tăng độ phì nhiêu, cải tạo và bảo vệ môi trường đất, chỉ thị các đặc điểm, tính chất lí hóa của đất [1].
A
Ve bét (Acarina)
G
Mọt đất (Isopoda)
B
Bọ nhảy (Collembola)
H
Rết tơ và nhiều chân (Myriapoda)
C
Nhện (Araneida)
I
Mối (Isoptera)
D
Ấu trùng ruồi (Diptera)
J
Giun đất (Lumbricida)
E
Bọ cánh cứng (Coleoptera)
K
Giun tròn (Enchytraeida)
F
Kiến (Hymenoptera)
L
Nematodes (Nematoda)
Hình 1. Các nhóm động vật đất [1]
Trong cấu trúc hệ động vật đất, nhóm chân khớp bé (Microarthropoda) thường chiến ưu thế về số lượng so với các nhóm khác. Chân khớp bé ở đất (Microarthropoda) bao gồm các nhóm động vật không xương sống thuộc ngành chân khớp (Arthropoda), có chiều dài cơ thể khoảng 0,1-0,2 mm cho đến 2,0-3,0 mm. Chân khớp bé trong đất gồm phần lớn là nhóm Ve bét (Arachnida: Acarina) và nhóm Bọ nhảy (Insecta: Apterygota: Collembola), luôn chiếm khoảng hơn 95% tổng số lượng của chân khớp bé. Ngoài ra, với số lượng không đáng kể còn có các nhóm Chân khớp bé khác (Microarthropoda khác) như: Rết tơ (Myriapoda: Symphyla), Đuôi nguyên thủy, Hai đuôi, Ba đuôi (Insecta: Protula, Diptura, Thysanura). Trong đó nhóm Ve bét gồm Ve giáp (Oribatei), Mạt (Gamasina, Uropodina) và Acarina khác. Nhóm bọ nhảy gồm 3 nhóm chính là Entomobryomorpha, Symphypleona, Poduromorpha [2, 3].
Sinh khối của chân khớp bé tuy không lớn, đạt khoảng 10 kg ở 1ha đất vùng ôn đới và nhiệt đới, nhưng số lượng của chúng đạt 150.000 đến hơn 800.000 cá thể tính trên 1 mét vuông mặt đất. Ở Việt Nam, số lượng chân khớp bé đạt 4.000 - 25.000 ở các hệ sinh thái đất canh tác vùng đồng bằng, và 11.000 - 25.700 ở hệ sinh thái đất rừng, tính trên 1 mét vuông mặt đất [1].
Nghiên cứu động vật đất, nhất là nhóm Chân khớp bé trong đất có thể đánh giá về sự đa dạng sinh học, sự biến động của quần xã sinh vật dưới tác động của các yếu tố lí hóa trong đất, từ đó có thể sử dụng chúng như là chỉ thị của môi trường đất [4].
2.2. Thực trạng vấn đề 
2.2.1. Thuận lợi
- Trường THPT Dương Đình Nghệ được thành lập từ năm 2000 với mô hình trường Bán công và chuyển sang công lập từ năm 2010. Năm học 2016 -2017 nhà trường có 26 lớp và 73 cán bộ giáo viên đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn. Nhà trường luôn quan tâm, khuyến khích giáo viên đổi mới phương pháp dạy học và sử dụng thiết bị dạy học.
- Nhóm giáo viên Sinh học gồm 6 đồng chí đều trẻ và nhiệt tình trong công việc, kiến thức chuyên môn vững vàng, được đào tạo cơ bản.
- Trang thiết bị dạy học hiện đại, có phòng thực hành thí nghiệm Sinh – Hóa.
- Học sinh ham học hỏi, tìm tòi để áp dụng những kiến thức đã học được vào thực tiễn, trong sản xuất nông nghiệp của gia đình, nhất là những kiến thức Sinh học, Kỹ thuật nông nghiệp và Nghề làm vườn.
2.2.2. Khó khăn
- Một số thí nghiệm thực hành không thể thực hiện được do thiếu thiết bị hóa chất, hoặc có nhưng do lâu ngày sử dụng nên đã hỏng, hóa chất hết hạn mà thiếu nguồn kinh phí để bổ sung. Một số thí nghiệm ngoài Sách giáo khoa thì không hề có thiết bị và quy trình hướng dẫn thực hiện.
- Giáo viên kiêm nhiệm nhiều việc nên thời gian dành cho các hoạt động tìm hiểu sáng tạo còn hạn chế, nhất là tổ chức cho học sinh nghiên cứu khoa học.
- Hoc sinh đa số là con em nông thôn, nhà ở xa trường, gia đình nghèo, sự va chạm cọ sát với thực tế còn hạn chế. Vấn đề nghiên cứu khoa học hoàn toàn mới và lạ lẫm đối với các em. Vì vậy khi bắt tay vào nghiên cứu, các em còn lúng túng, thiếu kỹ năng và thiếu cả tính kỷ luật.
2.2.3. Một số kết quả đạt được
Trong dạy học môn Sinh học, môn Công nghệ 10 (Kỹ thuật nông nghiệp) và môn Nghề làm vườn, nhóm giáo viên Sinh luôn cố gắng tổ chức tốt tất cả các bài thực hành có trong chương trình.
Ngoài ra, các giáo viên còn tổ chức các buổi ngoại khóa, hướng dẫn thêm các thí nghiệm ngoài chương trình, giúp các em tìm hiểu khoa học trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thành lập Câu lạc bộ nghiên cứu khoa học Sinh học và bước đầu tổ chức làm quen với cách bố trí thí nghiệm, xử lí số liệu và viết báo cáo.
Năm học 2016 – 2017 có 3 học sinh trong Câu lạc bộ Nghiên cứu khoa học Sinh học với 2 đề tài tham gia 2 cuộc thi cấp Tỉnh đều đạt giải: “Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình thuống trong thực tiễn dành cho học sinh THPT” – đạt giải Nhì và “Cuộc thi KHKT – NCKH dành cho học sinh trung học” – đạt giải Khuyến khích).
2.3. Các giải pháp thực hiện
2.3.1. Thiết kế bộ dụng cụ lọc tách động vật trong đất
Dựa vào tập tính hướng đất dương và hướng sáng âm của động vật mà thiết kế bộ dụng cụ dạng phễu. Mẫu đất trong phễu lọc sẽ khô dần, theo đó các động vật sẽ chui sâu dần xuống lớp đất phía dưới, qua lưới lọc và rơi xuống đáy phễu.
- Phễu lọc thiết kế đầu tiên (hình 2): Cắt phần đầu của chai dầu ăn loại 5 lít. Cho ít cồn 700 dưới đáy chai, phần cổ chai cắt ra sau khi bỏ nắp giống như một chiếc phễu sẽ được úp ngược lên thân chai dầu. Đặt ngang phễu 4 thanh nan tre rồi phủ một mảnh màn tuyn làm lưới lọc.
Hình 2. Phễu lọc tách thiết kế đầu tiên
Hình 3. Phễu lọc tách cải tiến
- Trong quá trình thực hiện đã tìm và thay các vật liệu, cuối cùng được bộ phễu lọc hoàn chỉnh (hình 3).
Cấu tạo của phễu lọc như sau: Phễu bằng nhựa cao 20 cm, đường kính miệng là 17 cm, đường kính vòi là 1,5cm. Các phễu lọc được đặt trên giá gỗ, vòi phễu buộc túi nilon (hoặc ống nghiệm nhỏ) chứa dung dịch định hình (thường là formol 4% hoặc cồn 700) và có êtiket ghi thông tin mẫu.
Đặt trên phễu là rổ lọc hình trụ bằng nhựa, đường kính 15cm, cao 6cm; đáy rổ có kích thước các mắt khoảng (1,5x1,5)mm. Trước khi cho mẫu đất vào rây lọc, đất cần được bẻ nhỏ và rải đều lên mặt lưới. Phần đất vụn lọt qua mắt lưới phải được đổ trở lại trước khi đặt rổ vào phễu.
Thời gian lọc là 7 ngày đêm liên tục ở điều kiện phòng thí nghiệm để thu động vật ở đáy phễu.
Hình 4. Bộ phễu lọc tách động vật đất đặt trên giá lọc
Kết quả thử nghiệm của các bộ lọc tách thiết kế so với bộ lọc tách chuẩn “Berlese-Tullgren” được trang bị ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội được thể hiện ở bảng 1 (mỗi thử nghiệm tiến hành 3 lần).
Bảng 1. So sánh kết quả lọc tách động vật đất
Bộ lọc tách
Số lượng cá thể Microarthropoda trung bình thu được trên 1 mẫu đất vườn 
(250 cm3)
Ghi chú
Bộ lọc tách đầu tiên
75,3 cá thể
Bộ lọc tách cải tiến
220,7 cá thể
Bộ lọc tách chuẩn “Berlese-Tullgren”
279,3 các thể
Xem [1]
Như vậy, bộ tách lọc cải tiến đã thu được số lượng cá thể tương đương với bộ lọc tách chuẩn, số liệu đáng tin cậy và phù hợp với điều kiện thực tế ở trường phổ thông với chi phí chưa đến 100.000đ/1 giá lọc gồm 6 phễu.
2.3.2. Hướng dẫn học sinh các bước nghiên cứu khoa học nhóm động vật chân khớp bé
Để thực hiện nghiên cứu, giáo viên phải tiến hành chọn và chia nhóm học sinh. Đối tượng học sinh được chọn tham gia nghiên cứu khoa học phải là những em đam mê, thích khám phá. Ngoài ra, các em còn phải có tính kiên trì, tư duy ligic và khả năng xử lí tình huống nhanh nhạy.
Tôi đã tiến hành thông báo cho học sinh của 4 lớp 10B1, 10B2, 10B3 và 10B9 đăng kí tham gia từ đầu năm học (có tổng số 42 em đăng kí). Sau đó tiến hành chọn bằng cách cho các em tham gia các bước lọc tách động vật để đánh giá độ khéo léo và tính kiên trì. Cuối cùng, tôi đã chọn được mỗi lớp 2 học sinh và thành lập 4 nhóm nghiên cứu gồm: nhóm 1, nhóm 2, nhóm 3 và nhóm 4, mỗi nhóm có 2 thành viên. 
Các nhóm nghiên cứu thực hiện các bước như sau:
Bước 1. Chọn đề tài nghiên cứu
Các nhóm chọn đề tài nghiên cứu phù hợp với khả năng và đặc điểm nơi cư trú, tính chất công việc, học tập của các thành viên. Các hướng nghiên cứu về nhóm động vật chân khớp bé gồm:
- Cấu trúc quần xã động vật chân khớp bé tại một sinh cảnh nhất định
- So sánh cấu trúc quần xã động vật chân khớp bé ở các sinh cảnh khác nhau
- Tương quan một độ giữa các nhóm động vật chân khớp bé chính tại một hay và sinh cảnh
- Biến đổi cấu trúc quần xã động vật chân khớp bé theo tầng đất, theo mùa, theo độ cao (so với mặt nước biển)...
- Ảnh hưởng của chế độ canh tác (phân bón, tưới nước, luân canh, xen canh, loại cây trồng ...), của thuốc trừ sâu, trừ cỏ... lên cấu trúc quần xã chân khớp bé
- Diễn thế quần xã chân khớp bé trên một sinh cảnh theo thời gian
- Tác động của ô nhiễm môi trường đến nhóm động vật chân khớp bé.
- Nghiên cứu biến động số lượng động vật chân khớp bé (nhất là Oribatei và Collembola) làm chỉ thị môi trường (đánh giá mức độ ô nhiễm)
Sau thời gian tìm hiểu, các nhóm đã chọn được đề tài là
Nhóm 1: Nghiên cứu cấu trúc quần xã chân khớp bé (Microarthropoda) ở đất canh tác tại xã Thiệu Tiến – Thiệu Hóa.
Nhóm 2: Nghiên cứu cấu trúc quần xã chân khớp bé (Microarthropoda) ở đất trồng lúa – Xã Thiệu Đô – Thiệu Hóa
Nhóm 3: Nghiên cứu cấu trúc quần xã chân khớp bé (Microarthropoda) ở đất trồng rau sạch – Thị trấn Vạn Hà – Thiệu Hóa
Nhóm 4: Nghiên cứu cấu trúc quần xã chân khớp bé (Microarthropoda) ở đất trồng ngô tại xã Thiệu Tân – Thiệu Hóa
Bước 2. Xây dựng đề cương nghiên cứu
Mỗi nhóm viết đề cương nghiên cứu phù hợp với đề tài đã chọn. Đây là cơ sở để thực hiện các bước nghiên cứu tiếp theo. Cũng trên cơ sở đề cương, các thành viên sẽ phân công nhiệm vụ và xác định tiến độ thực hiện các nhiệm vụ cụ thể.
Đề cương khi viết phải đảm bảo các nội dung chủ yếu sau: 
- Tên đề tài
- Đặt vấn đề (Lí do chọn đề tài)
- Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
- Dự kiến các kết quả
- Kế hoạch thực hiện
Bước 3. Thu mẫu đất
Tùy theo đề tài nghiên cứu, căn cứ vào cách bố trí thí nghiệm mà có cách thu mẫu, số lượng mẫu khác nhau. Đây là khâu rất quan trọng trong, liên quan đến kết quả của nghiên cứu.
Thu mẫu theo 2 tầng thẳng đứng như sau:
- Tầng 1: sâu trong đất từ 0 – 10 cm.
- Tầng 2: sâu trong đất từ 11 – 20 cm.
Kích thước mỗi mẫu đất là (5x5x10)cm, thu mẫu bằng hộp kim loại mỏng hình chữ nhật có kích thước (5x5x15)cm. 
Mỗi mẫu đất sau khi thu ở thực địa, cho ngay vào túi nilon riêng và buộc chặt. Bên trong mỗi mẫu đất đều kèm theo 1 êtiket giấy bóng mờ. Trên mỗi êtiket có ghi: thời gian, địa điểm, kí hiệu lô thí nghiệm hoặc đối chứng. Tất cả các mẫu trong cùng một dạng thí nghiệm cho vào cùng một túi nilon lớn để tiện cho việc lọc tách sau này. 
Mỗi thí nghiệm đều lặp lại ít nhất 3 lần, cần thu cả mẫu định tính và cả mẫu định lượng.
Hình 5. Thu mẫu tại thực địa
Bước 4. Lọc tách động vật 
Mỗi mẫu đất cho vào một phễu lọc và tiến hành lọc tách đồng thời. Thời gian lọc là 7 ngày đêm liên tục trong điều kiện nhiệt độ phòng.
Sau khi lọc, dùng bông không thấm nước nút kín ống nghiệm và dùng dây chun bó các ống nghiệm ở cùng công thức với nhau. Sau đó lần lượt đặt chúng vào bình thủy tinh có chứa formol 4% và đậy kín (để khi phân tích không bị nhầm lẫn, mẫu không bị hỏng).
Hình 6. Lọc tách động vật đất tại phòng thí nghiệm
Bước 5. Phân tích mẫu 
Đặt giấy lọc có chia ô lên phễu lọc, đổ dung dịch có chứa mẫu trong ống nghiệm lên tờ giấy lọc đó. Tráng lại nhiều lần bằng nước cất để tránh sót mẫu, sau khi đã lọc hết nước, để tờ giấy lọc có chứa các động vật vào đĩa petri và tiến hành phân tích dưới kính lúp 2 mắt (hoặc kính hiển vi, vật kính 5-10x) 
Hình 7. Dụng cụ phân tích mẫu (chưa bao gồm kính hiển vi)
Dùng kim phân tích (kim nhọn và kim mũi mác) nhặt từng các thể động vật để tập trung và một góc của đĩa petri, nhận dạng và ghi số lượng từng nhóm động vật vào sổ. Tất cả các mẫu sau khi phân tích và kiểm tra cẩn thận sẽ được cho vào ống nghiệm nhỏ có chứa dung dịch định hình, có nhãn và nút lại bằng bông không thấm nước.
Hình 8. Phân tích mẫu dưới kính hiển vi
Để giữ mẫu được lâu, không bị giòn nát, cần bổ sung dịch định hình một vài giọt glixêrin. Tất cả các ống nghiệm này được bảo quản chung trong lọ to chứa formol 4%.
Giáo viên cần phải hướng dẫn chi tiết đặc điểm nhận dạng của các nhóm động vật, tránh nhầm lẫn. Có 3 nhóm Chân khớp chính là Acarina, Collembola và Microarthopoda khác (kí hiệu M#). Trong khi phân tích mẫu, 2 nhóm động vật được tách riêng và tính toán số lượng của từng nhóm, cụ thể như sau: 
- Với Acari tách ra 4 nhóm phân loại: 
+ Oribatida (kí hiệu là O) 
+ Gamasina (kí hiệu là G) 
+ Uropodina (kí hiệu là U) 
+ Acari khác (bao gồm các nhóm Ve bét còn lại, kí hiệu là A#). 
- Với Collembola chia thành 3 nhóm phân loại: 
+ Poduromorpha (kí hiệu là P) 
+ Entomobryomorpha (kí hiệu là E) 
+ Symphypleona (kí hiệu là S).
Số liệu ghi chép đều kẻ theo mẫu (bảng 2).
Bảng 2. Mẫu ghi chép số liệu phân tích
Nhóm ĐV
Acarina
Collembola
M#
Tổng
O
G
U
A#
P
E
S
Oribatida
Gamasina
Uropodina
Hình 9. Đặc điểm nhận dạng các nhóm Acarina [2,3].
(A) Symphypleona, (B) Entomobryomorpha, (C) Poduromorpha, 
(D)=>(K) Collembola khác đều tính là M#.
Hình 10. Đặc điểm nhận dạng các nhóm Collembola [2, 3].
Bước 6. Xử lí số liệu
Sau khi phân tích, các số liệu được tính ra mật độ cá thể trên 1 m2 mặt đất. Mỗi mẫu đất có thể tích là 250cm3, quy ra diện tích bề mặt là 25cm2. Vậy số lượng cá thể động vật trên 1m2 gấp 400 lần số lượng cá thể trong mỗi mẫu đất. 
Ngoài ra, còn phải tính tỉ lệ % cá thể của một nhóm so với tổng số, tỉ lệ % cá thể động vật ở mỗi tầng đất.
Bước 7. Viết báo cáo
Mỗi nhóm viết 1 báo cáo khoa học trên cơ sở các kết quả nghiên cứu. Giáo viên hướng dẫn tổ chức 1 buổi báo cáo, lần lượt mỗi nhóm trình bày tóm tắt, các nhóm khác nhận xét đánh giá và góp ‎bổ sung hoàn thiện. Báo cáo khoa học có thể đăng kí tham gia Cuộc thi cấp trường, cấp Tỉnh hoặc cùng với giáo viên hướng dẫn gửi đăng trên các tạp chí khoa học.
Báo cáo khoa học cần đảm bảo cấu trúc như sau: 
- Tên đề tài
- Đặt vấn đề (Lí do chọn đề tài)
- Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
- Kết quả và thảo luận
+ Cấu trúc quần xã chân khớp bé tại....
+ Cấu trúc nhóm Acarina tại ...
+ Cấu trúc nhóm Collembola tại ... 
- Kết luận
- Tài liệu tham khảo
 2.4. Hiệu quả đạt được
Từ tháng 9/2016 – tháng 10/2016 tiến hành thiết kế bộ lọc tách động vật trong đất, đồng thời chọn được các nhóm tham gia nghiên cứu. Các nhóm đã sử dụng tương đối thành thạ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_thiet_ke_bo_dung_cu_loc_tach_dong_vat_trong_dat_va_huon.doc
  • docBìa-muc luc- TL tham khảo -Trình.doc