SKKN Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học bộ môn hóa học chương trình lớp 9 THCS

SKKN Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học bộ môn hóa học chương trình lớp 9 THCS

Nghị quyết 29 của BCH trung ương Đảng khóa XI kỳ họp thứ 8 về công tác đổi mới giáo dục đã chỉ rõ : “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học “ [ 1] với mục tiêu là xây dựng nội dung chương trình và phương pháp giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước , phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.

 Để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục người giáo viên cần có sự hiểu biết và nắm bắt chắc chắn những sự thay đổi về nội dung và phương pháp giảng dạy cũng như những yêu cầu trong công tác đổi mới phương pháp đó chính là lấy học trò làm trung tâm , phát huy tính tích cực học tập của học sinh.

 Đối với bộ môn hóa học thì đây là một môn khoa học thực nghiệm , học sinh cần nghiên cứu các kiến thức trên cơ sở các thí nghiệm biểu diễn, thí nghiệm thực hành v.v. Qua đó học sinh phải biết tổng hợp kiến thức đồng thời vận dụng các kiến thức đã học vào giải các dạng bài tập là một vấn đề hết sức quan trọng . Thông qua việc giải các bài tập ấy nhằm giúp học sinh cũng cố các kiến thức đã học một cách có hệ thống.

 Môn hóa học là một môn học mới đối với học sinh THCS, đặc biệt chương trình hóa học lớp 8 là chương trình hóa học đại cương, nhiều các khái niệm, định luật, các đơn vị kién thức khá mới mẻ, trừu tượng. Vì vậy rất nhiều học sinh có tâm lí sợ học bộ môn hóa học. Nhiều học sinh đã phải rất vất vả để ghi nhớ kiến thức nhưng kết quả mang lại chưa cao. Thực tế cho thấy một số HS học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, các em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số HS này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Nguyên nhân đó chính là do các em chưa tìm ra phương pháp học tập phù hợp, chưa có phương pháp ghi nhớ kiến thức một hiệu quả. Từ đó dễ gây tâm lý chán nản, buông xuôi dẫn đến lổ hỏng kiến thức ngày càng rộng hơn và đến một lúc nào đó không thể lắp được.

 

doc 14 trang thuychi01 11414
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học bộ môn hóa học chương trình lớp 9 THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
Mục lục
1
I
Mở đầu
2
1.1
Lí do chọn đề tài
2
1.2
Mục đích nghiên cứu
3
1.3
Đối tượng nghiên cứu
3
1.4
Phương pháp nghiên cứu
3
1.5
Những điểm mới của SKKN
3
2
Nội dung SKKN
4
2.1
Cơ sở lí luận của SKKN
4
2.2
Thực trạng vấn đề nghiên cứu
4
2.3
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
5
2.4
Kết quả đạt được
10
3
Những kết luận về vấn đề ngiên cứu – kiến nghị
11
Tài liệu tham khảo
13
Danh mục các SKKN đã được HĐ SKKN ngành xếp loại
14
SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC BỘ MÔN HÓA HỌC CHƯƠNG TRÌNH LỚP 9 THCS
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
 Nghị quyết 29 của BCH trung ương Đảng khóa XI kỳ họp thứ 8 về công tác đổi mới giáo dục đã chỉ rõ : “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học “ [ 1] với mục tiêu là xây dựng nội dung chương trình và phương pháp giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước , phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
 Để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục người giáo viên cần có sự hiểu biết và nắm bắt chắc chắn những sự thay đổi về nội dung và phương pháp giảng dạy cũng như những yêu cầu trong công tác đổi mới phương pháp đó chính là lấy học trò làm trung tâm , phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
 Đối với bộ môn hóa học thì đây là một môn khoa học thực nghiệm , học sinh cần nghiên cứu các kiến thức trên cơ sở các thí nghiệm biểu diễn, thí nghiệm thực hành v.v. Qua đó học sinh phải biết tổng hợp kiến thức đồng thời vận dụng các kiến thức đã học vào giải các dạng bài tập là một vấn đề hết sức quan trọng . Thông qua việc giải các bài tập ấy nhằm giúp học sinh cũng cố các kiến thức đã học một cách có hệ thống. 
 Môn hóa học là một môn học mới đối với học sinh THCS, đặc biệt chương trình hóa học lớp 8 là chương trình hóa học đại cương, nhiều các khái niệm, định luật, các đơn vị kién thức khá mới mẻ, trừu tượng. Vì vậy rất nhiều học sinh có tâm lí sợ học bộ môn hóa học. Nhiều học sinh đã phải rất vất vả để ghi nhớ kiến thức nhưng kết quả mang lại chưa cao. Thực tế cho thấy một số HS học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, các em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số HS này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Nguyên nhân đó chính là do các em chưa tìm ra phương pháp học tập phù hợp, chưa có phương pháp ghi nhớ kiến thức một hiệu quả. Từ đó dễ gây tâm lý chán nản, buông xuôi dẫn đến lổ hỏng kiến thức ngày càng rộng hơn và đến một lúc nào đó không thể lắp được. 
 Hiện nay các đồng chí giáo viên đã sử dụng nhiều các kỹ thuật dạy học tích cực như: Kỹ thuật khăn phủ bàn, kỹ thuật mảnh ghép, kỹ thuật sử dụng sư đồ tư duy, Bàn tay nặn bột ... để từng bước chuyển dần cách dạy học từ chỗ trang bị kiến thức cho học sinh sang dạy cho học sinh cách tiếp cận và tìm tòi kiến thức . Từ đó vận dụng kiến thức vào thực tế và biến đổi thành kỹ năng cho riêng bản thân mình. Việc áp dụng kỹ thật dạy học bằng bản đồ tư duy kết hợp với các phương pháp học nhóm, công nghệ thông tin, vào trong giảng dạy hiện đang là công cụ phù hợp và đạt hiệu quả mà ở một số trường đang dần thực hiện trong việc nâng cao chất lượng dạy và học trong giáo dục hiện nay.
 Với những vấn đề đặt ra ở trên đã khẳng định hơn nữa vai trò của giáo dục. Dạy học không chỉ đơn thuần là cung cấp kiến thức mà còn phải giúp học sinh nhận thức được con đường chiếm lĩnh tri thức, giúp học sinh biết cách lựa chọn, hệ thống hóa và ghi nhớ kiến thức hiệu quả; đồng thời biết biết liên kết nhiều nguồn kiến thức lại với nhau và vận dụng một cách hiệu quả vào trong học tập cũng như thực tiễn. Vì thế tôi thực hiện đề tài: “ Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học bộ môn hóa học chương trình lớp 9 THCS” nhằm giúp học sinh học tập một cách tích cực hơn, phát huy tính sáng tạo, tư duy của bộ não góp phần vào việc lưu giữ kiến thức trên bộ não và sử dụng nó một cách có hiệu quả, thông minh và sáng tạo.
1.2. Mục đích nghiên cứu
 Góp phần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh 
 Giúp các em học sinh tự tổng hợp được kiến thức trọng tâm của từng chương trong bộ môn hóa 8 và ghi nhớ một cách sáng tạo có hệ thống, từ đó để vận dụng kiến thức vào giải các bài tập định tính, định lượng đặc biệt là các bài tập mang tính chất tổng hợp kiến thức như: Toán nhận biết các chất, tách các chật, viét các PTHH thực hiện dãy chuyển đổi hóa học ... Và các bài tập giải thích các hiện tượng thực tế.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
 Chương trình môn hóa học sách giáo khoa lớp 9. Sử dụng sơ đồ tư duy để tổng hợp kiến thức trọng tâm cơ bản từng chương một cách sáng tạo có hệ thống để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
 Phương pháp nghiên cứu lý luận: 
 GV nghiên cứu tài liệu có liên quan đến việc giúp học sinh biết cách dung sơ đồ tư duy để hệ thống hóa, ghi nhớ một cách đầy đủ kiến thức đã học.
 Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục:
 GV tham khảo ý kiến của các đồng nghiệp về phương pháp hướng dẫn học sinh ôn tập chương.
 Qua kinh nghiệm giảng dạy môn Hóa học của bản thân nhiều năm liền và hiệu quả đạt được qua các năm.
 Phương pháp thu thập thông tin: 
 GV thu thập thông tin phản hồi từ phía học sinh cũng như thông qua kết quả học tập môn Hóa học từng tháng để điều chỉnh phương pháp sử dụng cho phù hợp.
 Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
Giúp học sinh biết căn cứ vào nội dung của cả chương đã học để vẽ được sơ đồ tư duy hệ thống hóa kiến thức một chương theo cách hiểu và sáng tạo của riêng bản thân mình.
1.5. Những điểm mới của SKKN
 Việc sử dụng sơ đồ tư duy vào dạy học đã được nhiều các giáo viên nghiên cứu , áp dụng ở nhiều các bộ môn: Toán, Lí, Ngữ văn, ... và cả bộ môn hóa học. Tuy nhiên theo bản thân tôi tìm hiểu và ở huyện nơi tôi đang công tác thì chưa có một sáng kiến nào đi sâu nghiên cứu và áp dụng vào thực tế giảng dạy bộ môn hóa học lớp 9.
 Điểm mới của SKKN này là nghiên cứu kĩ các bài học ở sách giáo khoa chương trình phổ thông lớp 9, phân loại ra các bài học nên áp dụng sơ đồ tư duy cho từng loại bài cụ thể : Loại bài tìm hiểu kiến thức mới, loại bài tổng hợp kiến thức đã hoc theo từng phần hoặc theo chương, loại bài thực hành. Với mỗi loại bài giáo viên sẽ hướng dẫn các em sử dụng sơ đồ tư duy cho hiệu quả nhất, phù hợp với từng đối tượng học sinh. Đặc biệt là hướng dẫn cho các em dùng sơ đồ tư duy để học bài cũ, cachs ghi nhớ những kiến thức trọng tâm cơ bản của mỗi loại hợp chất, của từng chương, từng chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi...
 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
 “Sơ đồ tư duy còn gọi là bản đồ tư duy, lược đồ tư duy nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống hóa một chủ đề  chữ viết. Nghĩa của cụm từ BĐTD không hiểu theo nghĩa bản đồ như bản đồ địa lý mà BĐTD được hiểu là một hình thức ghi chép theo mạch tư duy của mỗi người bằng cách kết hợp việc sử dụng hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết” [2] .Đặc biệt ở đây là một sơ đồ mở, việc thiết kế SĐTD theo mạch tư duy của mỗi người, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết khắc khe như bản đồ địa lý, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, thêm màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một nội dung nhưng mỗi người có thể thể hiện nó dưới dạng SĐTD theo một cách riêng, do đó việc lập SĐTD phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người.
2.2. Thực trạng vấn đề ngiên cứu
 Bản thân đã nhiều năm làm công tác giảng dạy bộ môn hóa học ở nhà trường chất lượng cao của huyện , nhiều lần được dự các đợt tập huấn về đổi mới phương pháp giảng dạy của Bộ giáo dục, sở giáo dục. Đối tượng học sinh của nhà trường hầu hết là học sinh chăm ngoan, ý thức học tập tốt. Vì vậy việc áp dụng các phương pháp dạy học, các kỹ thuật dạy học tích cực vào bộ môn trong những năm qua đã góp phần nâng cao chất lượng học tập bộ môn hóa học rõ rệt. Tuy nhiên qua kinh nghiệm giảng dạy và tham gia dự giờ của nhiều các đồng chí giáo viên trong nhà trường và các trường khác tôi nhận thấy đối với đa số học sinh trong huyện thì các em vẫn còn lúng túng trong việc tìm ra phương pháp học tập bộ môn một cách hiệu quả nhất, đặc biệt việc ghi nhở kiến thưc để có thể áp dụng lý thuyết vào việc làm các bài tập vận dụng tổng hợp kiến thức và giái quyết các bài toán giải thích các hiện tượng thực tế trong cuộc sống. Một phần nữa là do nhiều giáo viên vẫn còn sử dụng phương pháp dạy học theo kiểu truyền thụ kiến thức hoặc gợi mở vấn đáp ... mà chưa chú trọng nhiều đến việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để các em tự tìm tòi kiến thức, một bộ phân không nhỏ HS không biết ghi chép kiến thức. Các em chỉ trong chờ GV đọc hoặc viết lên bảng rồi từ đó mới viết vào vở. Các em không biết ghi nhận kiến thức theo cách hiểu của mình mà chỉ ghi chép một cách thụ động dẫn đến một số học sinh ỷ lại, lười suy nghĩ, trong giờ học lơ là không tập trung, làm kiến thức bị thiếu hụt mất dần lâu dần thành chán học từ đó bị hổng về kiến thức nên đâm ra sợ bộ môn. 
2.3 Các giải pháp đã sử dụng để giảo quyết vấn đề.
 Trong quá trình giảng dạy tôi đã sử dụng sơ đồ tư duy trong việc dạy bài mới, trong giờ luyện tập, giờ ôn tập, giờ thực hành.. đồng thời hướng dẫn các em biết cách sử dụng sơ đồ tư duy trong việc ghi nhớ kiến thức sao cho hiệu quả nhất.
 Trước khi áp dụng đề tài vào giảng dạy lớp 9B3 trường THCS Nguyễn Du năm học 2017 – 2018, tôi dành một buổi ngoại khóa để giơi thiệu cho các em về sơ đồ tư duy: Cơ chể hoạt động, cách ghi chép , cách sử dụng sơ đồ tư duy để các em hiểu rõ về công cụ mà các em có thể áp dụng vào học tập. Cụ thể: 
 Cơ chế hoạt động của SĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh). SĐTD là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ với nhau vì vậy có thể vận dụng SĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương,..
 Ưu điểm của SĐTD là: Dễ nhìn, dễ viết; kích thích hứng thú học tập và khả năng sáng tạo của HS; phát huy tối đa tiềm năng ghi nhớ của bộ não; rèn luyện cách xác định chủ đề và phát triển ý chính, ý phụ một cách logic. 
 Cách ghi BĐTD: 
 - Nghĩ trước khi viết.
 - Viết ngắn gọn
 - Viết có tổ chức
Viết lại theo ý của mình, nên chừa khoảng trống để có thể bổ sung ý (nếu sau này cần) 
2.3.1. Sử dụng SĐTD trong việc giảng bài mới:
 Sử dụng SĐTD cho cách trình bày mới. GV thay vì gạch đầu dòng các ý cần trình bày lên bảng thì sử dụng SĐTD để thể hiện được một phần hoặc toàn bộ nội dung bài học một cách rất trực quan.
VD: : Khi dạy bài “ Tính chất hóa học của bazơ”, sau khi giáo viên cùng với học sinh tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu các tính chất hóa học của bazơ thì có thể hướng dẫn học sinh ghi chép lại tính chất hóa học của bazơ theo SĐTD. Các em có thể tự ghi chép lại kiến thức mà mình vừa khám phá theo cách thức riêng của mình và như thế các em có thể nhớ được tính chất của bazơ ngay tại lớp.
 2.3.2. Sử dụng BĐTD trong việc kiểm tra kiến thức cũ:
Vì thời gian kiểm tra bài cũ không nhiều, chỉ khoảng 5 – 7 phút nên yêu cầu của GV thường không quá khó, không đòi hỏi nhiều sự phân tích, so sánh để trả lời câu hỏi. GV thường yêu cầu HS tái hiện lại một phần nội dung bài học bằng cách gọi học sinh lên bảng trả lời câu hỏi. GV sẽ chấm điểm tùy vào mức độ thuộc bài của HS. Cách làm này vô tình để nhiều HS rơi vào tình trạng “học vẹt ”, đọc thuộc lòng mà không hiểu bài. Do đó cần phải có sự thay đổi trong việc kiểm tra, đánh giá nhận thức của HS, yêu cầu đặt ra là không chỉ kiểm tra “phần nhớ” mà cần chú trọng đến “phần hiểu”. Cách làm này vừa tránh được việc học vẹt, vừa đánh giá chính xác HS, đồng thời nâng cao chất lượng học tập. 
VD: Kiểm tra bài cũ phần muối giáo viên có thể yêu cầu học sinh điền các thông tin vào sơ đồ sau:
Giáo viên có thể gọi một học sinh lên bảng trình bày, các em ở dưới cùng làm , sau đó thu kết quả để đánh giá mức độ tiếp thu và việc học bài của học sinh ở nhà của cả lớp để có giải pháp kịp thời trong những tiết học tiếp theo.
2.3.3 Sử dụng SĐTD trong việc củng cố kiến thức bài học:
 Phù hợp với mục đích củng cố kiến thức cho HS sau bài học thì dạng bài tập thích hợp là điền thông tin còn thiếu vào SĐTD. Các thông tin còn thiếu này sẽ bao trùm nội dung toàn bài để một lần nữa nhằm khắc sâu kiến thức và lưu ý đến trọng tâm của bài học.
Ví dụ: Sau khi học xong bài: “ Tính chất hóa học của oxit, khái quát về sự phân loại oxit” , GV cho vẽ SĐTD để củng cố kiến thức hoặc giáo viên có thể yêu cầu học sinh nhắc lại những kiến thức trọng tâm của bài học và giáo viên dùng sơ đồ tư duy để chốt lại kiến thức.
.
2.3.4. Sử dụng SĐTD trong giờ ôn tập
 Giờ ôn tập thường là tổng hợp lại kiến thức của một chương, vì vậy giáo viên có thể dùng sơ đồ tư duy để hệ thống lại những kiến thức trọng tâm của chương để học sinh có thể nắm vững hơn những lượng kiến thức cần phải dùng để vận dụng làm bài tập. 
VD: Sau ki học xong chương hiđrocacbon giáo viên có thể yêu cầu học sinh dùng sơ đồ tư duy để khái quát lại toàn bộ kiến thức về đặc điểm cấu tạo, phản ứng đặc trưng của mỗi hidrocacbon. Công việc này giáo viên có thể cho học sinh làm việc theo nhóm , sau đó nhóm cử đại diện lên báo cáo. Hoặc giáo viên dùng sơ đồ tư duy để tổng hợp lại toàn bộ kiến thức chương.
 Tuy nhiên không phải bất cứ nội dung nào, bài học nào cũng có thể sử dung SĐTD và cũng không phải sử dụng cho mọi giờ học. GV cần có sự linh hoạt trong sử dụng SĐTD đúng lúc, đúng cách, phù hợp với đối tượng HS và quan trọng là đảm bảo việc truyền tải nội dung bài học. Trong dạy học, việc sử dụng SĐTD được sử dụng, khai thác khác nhau tùy theo trình độ của các nhóm HS: 
* Với đối tượng học sinh trung bình: Giáo viên có thể hướng dẫn, gợi ý các em tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của mỗi bài học vào một trang giấy. Có thể vẽ chung trên một cuốn vở hoặc để thành các trang giấy rời rồi kẹp thành một tập. Mỗi bài học được được vẽ kiến thức trọng tâm trên một trang giấy giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần, chỉ cần rút tờ BĐTD của bài đó ra là các em nhanh chóng ôn lại kiến thức một cách dễ dàng. Với cách làm này rèn luyện cho bộ óc các em suy nghĩ mạch lạc và cũng là cách giúp các em hiểu bài, ghi nhớ kiến thức vào não chứ không phải là học thuộc lòng, học vẹt. 
Ví dụ: Sau khi học xong bài: “ Rượu etylic”, GV có thể hướng dẫn cho HS vẽ SĐTD theo các gợi ý sau:
 GV cho ý chính của toàn bài ở trung tâm: Rượu etylic
 Đặt lần lượt các câu hỏi để HS vẽ tiếp các nhánh:
 Trong bài này chúng ta học các nội dung gì? HS trả lời và đồng thời giáo viên hướng dẫn các em vẽ các nhánh, mỗi nhánh ứng với một đơn vị kiến thức các em vừa trả lời.
- Công thức cấu tạo của rượu etylic thế nào? 
- Đặc điểm cấu tạo phân tử là gì?
- Có những tính chất hóa học nào? 
- Điều chế như thế nào?
 Với đối tượng học sinh khá, giỏi : Các em có thể sử dụng SĐTD để tổng hợp kiến thức của cả một chuyên đề:
 VD: Chuyên đề “ Phân loại và phương pháp giải các bài toán nhận biết các chất”
 Hoặc có thể dung SĐTD để vạch ra hướng giải quyết các bài toán về điều chế các chất, tách các chất ra khỏi một hỗn hợp  Với cách ghi theo SĐTD này các em có thể hình dung được tổng thể hướng giải quyết bài tập phức tạp.
 Ngoài việc vẽ SĐTD trong học tập, nên cho các em có thể sử dụng SĐTD tự ghi tóm lược nội dung chính của cuốn sách khi các em đọc sách. Hoặc gợi ý cho các em lập kế hoạch học tập, vạch kế hoạch cho bản thân để biến ước mơ thành hiện thực trong tương lai, các kế hoạch này có thể được bổ sung dần dần theo năm tháng bằng cách vẽ thêm nhánh khi mỗi người có sự điều chỉnh kế hoạch. Khuyến khích HS ôn luyện bài, học bài ở nhà, hoặc ở lớp hoạt động nhóm bằng SĐTD.
2.4.Kết quả đạt được :
 Đề tài này đã được tôi áp dụng, thử nghiệm với đối tượng học sinh khối lớp 9 của trường trong một số năm gần đây.	 
 Trong năm học 2017 – 2018 tôi đã áp dụng đề tài vào 2 lớp 9B3 và 9B4 các em không những không thấy khó khăn mà còn rất hứng thú. Qua bài kiểm tra khảo sát của lớp 9B3 và lớp 9B4 qua 2 bài kiểm tra số 1 và số 2 . Lần 1 chưa áp dụng đề tài, làn 2 đã áp dụng đề tài. Kết quả cho thấy :
 Lần 1 : Khi chưa áp dụng nội dung và biện pháp trên
Lớp
Số học sinh
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Sl
%
SL
%
SL
%
Sl
%
Sl
%
9B3
35
13
37%
16
45,7%
6
17,3%
0
0
9B4
40
16
40%
17
42,5%
7
17,5%
0
0
 Lần 2: Sau khi áp dụng nội dung và các biện pháp trên :
Lớp
Số học sinh
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Sl
%
SL
%
SL
%
Sl
%
Sl
%
9B3
35
20
57%
15
43%
0
0
0
9B4
40
24
60%
16
40%
0
0
0
 Sở dĩ kết quả và chất lượng học sịnh được nâng lên rõ rệt, là do học sinh đã chủ động trong việc ghi chép kiến thức trọng tâm , biết cách dùng SĐTD vào việc học bài cũ, tổng hợp kiến thức của từng chương. Đặc biệt các em đã hình thành được kỹ năng giải bài tập, biết phân tích bài toán. Tuy nhiên việc áp dụng từng nội dung của đề tài tuỳ thuộc vào đối tựơng học sinh. Đối với các lớp đại trà tôi chỉ rèn luyện cho các em dạng bài tập đơn giản, với lớp ôn thi học sinh giỏi thì phải khắc sâu giúp học sinh hiểu được bản chất của vấn đề, hướng dẫn các em sử dụng SĐTD vào phân tích các đề bài phức tạp mang tính tổng quát giúp các em hình thành kỹ năng giải bài toán phức tạp cần vận dụng lượng kiến thức tổng hợp..
3. NHỮNG KẾT LUẬN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU – KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
 Trong quá trình giảng dạy bộ môn hóa học cũng như trong công tác chỉ đạo hoạt động chuyên môn trong nhà trường nhiều năm, bản thân tôi đã phát hiện ra những vướng mắc , lúng túng của các em trong quá trình học tập cũng như trong công tác giảng dạy của các giáo viên . Từ đó tôi đi tới suy nghĩ nên áp dụng SĐTD vào công tác giảng dạy và học tập nhằm giúp các em học sinh có thể chủ động hơn trong việc tìm tòi, khám phá kiến thức bộ môn, phù hợp với việc đổi mới phương pháp giáo dục mà chúng ta đang thực hiện.
 Giúp các hiểu thấu đáo hơn khi giải những bài tập hóa học, từ đó gây cho các em hứng thú học tập và lòng say mê ham học bộ môn, chịu khó nghiên cứu tìm tòi những bài toán khó và những lời giải hay. Trên cơ sở đó giáo viên nâng cao dần kiến thức cho các em để các em có hứng thú tiếp cận với các dạng toán mới khó và phức tạp hơn nhiều .
 Trên đây là nội dung và những biện pháp thực hiện mà bản thân tôi đã ôn luyện cho các em học sinh lớp 9 , tuy nó không phải là mới mẻ và cũng đã được nhiều giáo viên áp dụng trong những năm gần đây . Song vẫn còn có nhiều những vướng mắc khi sử dụng trong quá trình giảng dạy và học tập. Do đó tôi vẫn mạnh dạn đưa ra đề tài này với mong muốn góp thêm một giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn theo hướng phát huy tính sáng tạo của học sinh trong việc học tập bộ môn hóa học.
 Trong đề tài này tôi chỉ đưa ra một số các bài có thể áp dụng SĐTD vào việc giảng dạy, học tập. Trong quá trình thực hiện giáo viên có thể tùy theo đối tượng học sinh mà vận dụng vào học bài mới hay tổng hợp kiến thức hoặc giaỉ các bài tập sao cho phù hợp.
 Tóm lại trong quá trình giảng dạy đòi hỏi người giáo viên cần nắm bắt và tiếp cận với sự thay đổi của chương trình và nội dung sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy nhằm phát huy tính tích cực học tập bộ môn của học sinh. Từ đó hình thành ở các em kỹ năng lĩnh hội kiến thức phù hợp với đặc trưng của bộ môn. Ngoài ra còn rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức để làm các bài tập . Song song với việc trang bị cho các em về những kiến thức cơ bản của bộ môn thì việc ôn luyện để nâng cao kiến thức là một vấn đề hết sức quan trọng nhằm nâng cao chất lượng mũi nhọn . Muốn vậy đòi hỏi ở người thầy cần phải có kiến thức, có phương pháp để dẫn dắt các em tìm tòi n

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_su_dung_so_do_tu_duy_trong_day_hoc_bo_mon_hoa_hoc_chuon.doc