SKKN Sử dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để giáo dục giới tính có hiêụ quả thông qua chương sinh sản - Sinh học 8 ở trường THCS Thạch Cẩm
Xã hội phát triển, chất lượng cuộc sống được nâng lên đồng thời mặt trái của xã hội cũng tác động không nhỏ đến đời sống con người, nhất là lứa tuổi học sinh THCS, đây là giai đoạn phát triển đặc biệt trong đời của một con người, giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ con thành người lớn, được đặc trưng bởi sự phát triển mạnh mẽ cả về thể chất lẫn tinh thần, tình cảm và cả khả năng hoà nhập cộng đồng. Có thể nói, đây là giai đoạn quan trọng trong việc định hình nhân cách để làm chủ bản thân về những hành vi tình dục, những kiến thức chăm sóc bảo vệ sức khoẻ sinh sản sau này.
Trong khi đó hệ thống giáo dục phổ thông nói chung và chương trình giáo dục THCS nói riêng của nước ta hiện nay chưa đưa môn giáo dục giới tính vào giảng dạy, mà nội dung giáo dục giới tính chỉ được lồng ghép vào một số bài trong các môn học như: Sinh học, giáo dục công dân, địa lí Tuy nhiên, nội dung lồng ghép còn rất chung chung; đội ngũ giáo viên chuyên trách về vấn đề này chưa trường nào có. Các Thầy, Cô giảng dạy các bộ môn khi đề cập đến việc dạy các kiến thức về giới tính đôi khi còn ngại ngùng. Thái độ của các em học sinh khi nói đến vấn đề liên quan đến giới tính còn khá dè dặt. Mặc dù các em rất muốn biết và thật sự cần biết.[1]
Có lẽ chưa bao giờ tình trạng trẻ bị xâm hại tình dục lại trở thành vấn nạn bức súc như bây giờ. Có thể là do lứa tuổi vị thành niên hiện nay có nhiều điều kiện hơn để tiếp cận với thông tin, kiến thức mới, bên cạnh mặt tích cực các em cũng phải đối mặt với những nguy hiểm như: Thông tin hình ảnh mang tính kích động sai lệch; tệ nạn xã hội (Rượu, ma tuý, mại dâm ) Hơn nữa các em chưa có kinh nghiệm sống, vì vậy các em rất dễ bị rủ rê, lôi kéo ép buộc, lừa gạt sa dần vào tệ nạn xã hội. Bên cạnh đó gia đình- người gần gũi với các em chưa thật sự quan tâm đúng mức.
1. Mở đầu. 1.1 Lí do chọn đề tài. Xã hội phát triển, chất lượng cuộc sống được nâng lên đồng thời mặt trái của xã hội cũng tác động không nhỏ đến đời sống con người, nhất là lứa tuổi học sinh THCS, đây là giai đoạn phát triển đặc biệt trong đời của một con người, giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ con thành người lớn, được đặc trưng bởi sự phát triển mạnh mẽ cả về thể chất lẫn tinh thần, tình cảm và cả khả năng hoà nhập cộng đồng. Có thể nói, đây là giai đoạn quan trọng trong việc định hình nhân cách để làm chủ bản thân về những hành vi tình dục, những kiến thức chăm sóc bảo vệ sức khoẻ sinh sản sau này. Trong khi đó hệ thống giáo dục phổ thông nói chung và chương trình giáo dục THCS nói riêng của nước ta hiện nay chưa đưa môn giáo dục giới tính vào giảng dạy, mà nội dung giáo dục giới tính chỉ được lồng ghép vào một số bài trong các môn học như: Sinh học, giáo dục công dân, địa lí Tuy nhiên, nội dung lồng ghép còn rất chung chung; đội ngũ giáo viên chuyên trách về vấn đề này chưa trường nào có. Các Thầy, Cô giảng dạy các bộ môn khi đề cập đến việc dạy các kiến thức về giới tính đôi khi còn ngại ngùng. Thái độ của các em học sinh khi nói đến vấn đề liên quan đến giới tính còn khá dè dặt. Mặc dù các em rất muốn biết và thật sự cần biết.[1] Có lẽ chưa bao giờ tình trạng trẻ bị xâm hại tình dục lại trở thành vấn nạn bức súc như bây giờ. Có thể là do lứa tuổi vị thành niên hiện nay có nhiều điều kiện hơn để tiếp cận với thông tin, kiến thức mới, bên cạnh mặt tích cực các em cũng phải đối mặt với những nguy hiểm như: Thông tin hình ảnh mang tính kích động sai lệch; tệ nạn xã hội (Rượu, ma tuý, mại dâm) Hơn nữa các em chưa có kinh nghiệm sống, vì vậy các em rất dễ bị rủ rê, lôi kéo ép buộc, lừa gạt sa dần vào tệ nạn xã hội. Bên cạnh đó gia đình- người gần gũi với các em chưa thật sự quan tâm đúng mức. Đương nhiên, người phải chịu hậu quả chính là các em, những người chưa được trang bị những kiến thức sơ đẳng nhất để bảo vệ chính mình. Ngay ở địa bàn xã Thạch Cẩm chúng tôi, đã có những trường hợp bé gái chỉ 13 tuổi đã bị xâm hại tình dục, phải nhờ đến cơ quan chức năng vào cuộc, nhưng do thiếu hiểu biết nên gia đình chỉ trình báo khi không còn đủ chứng cứ để buộc kẻ phạm tội chịu hình phạt; còn vài học sinh nữ bị rủ rê bỏ học, sa vào tệ nạn xã hội ở độ tuổi 12-13. Ở các xã lân cận cũng đã phát hiện học sinh mang thai ngoài ý muốn, khi gia đình biết được thì đã quá muộn phải sinh con khi bản thân em vẫn còn là một đứa trẻ. Đã có nhiều phụ nữ chưa đến tuổi 18 đi khám và phá thai tại các trung tâm y tế. Để lại hậu quả trước mắt và lâu dài như: Mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục, viêm nhiễm phụ khoa vô sinh do tắc ống dẫn trứng, tai biến nạo hút thai, sinh con khó dẫn đến tử vong cả mẹ và con, hoặc vô sinh Nhiều em kết hôn khi chưa đủ 18 tuổi, chưa có nghề nghiệp ổn định, chưa tự nuôi sống chính bản thân mình. Trước thực tế đó để học sinh của những năm học tiếp theo không lặp lại kết quả trước đây, là một giáo viên tôi đã trăn trở nghiên cứu và lựa chọn và thực hiện đề tài “Sử dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để giáo dục giới tính có hiêụ quả thông qua chương sinh sản- sinh học 8 ở trường THCS Thạch Cẩm” 1.2. Mục đích nghiên cứu: Việc nghiên cứu đề tài nhằm tìm ra biện pháp tốt nhất để lồng ghép giáo dục giới tính cho học sinh trường THCS Thạch Cẩm, góp phần hình thành và phát triển nhân cách cho các em. Cụ thể là: Lựa chọn, áp dụng một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực phù hợp nhất, giúp các em chủ động lĩnh hội những tri thức về đặc điểm tâm sinh lí, cách xây dựng mối quan hệ với mọi người, đặc biệt là người khác giới, tri thức về sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục, tri thức về hôn nhân và gia đình. Hình thành ở các em các kĩ năng tự bảo vệ bản thân, bình tĩnh, tự tin điều chỉnh cảm xúc, tránh xa cám dỗ, vững vàng bước vào cuộc sống. 1.3 Đối tượng nghiên cứu: Các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để lồng ghép giáo dục giới tính có hiệu quả với học sinh lớp 8 trường THCS Thạch Cẩm năm học 2015-2016. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu lí luận: Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, hệ thống hóa các tài liệu nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp quan sát sư phạm, phương pháp điều tra (Phiếu anket, trò chuyện). - Phương pháp xử lí số liệu và phân tích sư phạm.. 1.5. Những điểm mới của SKKN: Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về đề tài tích hợp giáo dục giới tính vào chương trình sinh học song chưa có đề tài nào đề cập đến một cách làm cụ thể để mang lại hiệu quả. Bản thân tôi năm học 2011-2012 đã nghiên cứu đề tài :“ Vận dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực nhằm lồng ghép giáo dục giới tính cho học sinh trong chương sinh sản- Sinh học 8 ”. Nhưng đề tài của năm học 2011-2012 chỉ tập trung nghiên cứu về các các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để giúp học sinh lĩnh hội được các tri thức cấu tạo cơ thể lên quan đến giới tính, tri thức về sức khỏe sinh sản, tri thức về hôn nhân gia đình, để xây dựng cuộc sống lành mạnh. Thì đề tài “Sử dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để giáo dục giới tính có hiệu quả thông qua chương sinh sản - sinh học 8. ở trường THCS Thạch Cẩm”, tôi vận dụng trên đối tượng học sinh lớp 8 năm học 2015-2016 của nhà trường, phát triển các kiến thức chung trong đề tài cũ, ngoài ra ở đề tài mới đặc biệt lưu ý cho học sinh cách nhận biết các nguy cơ trước những cám dỗ, rèn kỹ năng thoát hiểm, kỹ năng ứng phó phòng tránh với các tình huống xấu để bảo vệ bản thân. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm. 2.1.Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm: Cẩm nang giáo dục giới tính trong trường học- Nhà xuất bản từ điển bách khoa do tác giả Kim Dung – Thái Hòa biên soạn có viết: Nội dung của giáo dục giới tính có thể bao gồm những vấn đề sau: - Đặc điểm tâm sinh lí con người và những đặc điểm về tính dục với những hiện tượng điển hình như: sự phát triển sinh lí cơ thể về chiều cao, cân nặng, cấu trúc và chức năng của hệ sinh dục, đời sống tình dục, kinh nguyệt, sinh nở, những kiến thức về sức khỏe, sinh đẻ có kế hoạch, các bệnh liên quan đến đường sinh dục - Đặc điểm giới tính về đạo đức, xã hội, thẩm mỹ như: cách cư sử với mọi người, với bạn khác giới - Những vấn đề về quan hệ bạn khác giới và tình yêu nam nữ như: Bản chất của tình yêu, cư sử trong tình yêu, xây dựng tình bạn, tình yêu chân chính - Những vấn đề về hôn nhân gia đình Những nội dung trên cần được thực hiện theo hình thức tổ chức giáo dục thích hợp, cho những đối tượng thích hợp và theo từng điều kiện hoàn cảnh thích hợp [2]. Trong luận văn Thạc sĩ khoa học giáo dục của tác giả Lê Hà Kim Khánh trường Đại học Vinh có viết: Giáo dục giới tính, phải dạy cho các em những kiến thức, kỹ năng cụ thể như cách từ chối tình dục, cách giữ gìn thân thể, cách thoát hiểm Mấu chốt là trang bị cho học sinh nữ lứa tuổi vị thành niên kỹ năng sống và biết cách từ chối trước những đòi hỏi hoặc dụ dỗ từ bạn tình; những cách ứng xử hợp lý trong mọi tình huống để giúp các em tránh được những nguy cơ có thể đến với chúng. Giúp cho họ rèn luyện tư tưởng, trau dồi kiến thức, xây dựng nhân cách cho phù hợp với giới tính, hiểu thế nào là tình yêu đích thực, bí quyết xây dựng hạnh phúc gia đình.[5] Về phương pháp giảng dạy dùng trong giáo dục giới tính thì Cẩm nang giáo dục giới tính trong trường học- Nhà xuất bản từ điển bách khoa do tác giả Kim Dung – Thái Hòa viết: “ Sử dụng các phương pháp giảng dạy tương tác để thu hút học sinh là rất quan trọng những phương pháp này khuyến khích học sinh tham gia thảo luận một cách tích cực giúp các em dễ tiếp thu, dễ hiểu, dễ nhớ” Có nhiều phương pháp dạy học tích cực như: Phương pháp dạy học theo nhóm; phương pháp tích hợp, phương pháp đóng vai Trong chương sinh sản, khi lồng ghép giáo dục gới tính cho học sinh, tôi vận dụng có hiệu quả nhất là phương pháp dạy học theo nhóm bằng các kĩ thuật dạy học tích cực như: Kĩ thuật các mảnh ghép, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật hỏi chuyên gia, kĩ thuật chúng em biết 3 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN: Xã Thạch Cẩm nơi tôi đang công tác là một xã miền núi đông dân nhưng có điều kiện kinh tế khó khăn, nhiều cha mẹ học sinh bỏ con cái ở nhà tự xoay sở hoặc gửi cho ông bà, cô, bác trông nom để đi làm ăn xa. Qua khảo sát thống kê đầu năm học 2015-2016 có 298/409 em có bố mẹ đi làm ăn xa nhà ( Trong đó có 108 em có cả bố và mẹ đều đi làm ăn xa nhà), các em không nhận được sự chăm sóc chỉ bảo tối thiểu từ phía gia đình. Về xã hội mặc dù đây là xã miền núi nhưng đã có rất nhiều tệ nạn như: Cờ mạc, mại dâm, ma tuý,... Về phía nhà trường năm học 2011-2012 tôi đã vận dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực nhằm lồng ghép giáo dục giới tính cho học sinh trong chương sinh sản- Sinh học 8, qua đó nhận thức của học sinh về giới đã tiến bộ rệt sau đó 3 năm học liền kề từ năm học 2012-2013 đến năm học 2014- 2015 tôi chuyển sang dạy sinh học 9 thì việc giáo dục giới tính chỉ dừng lại ở một vài buổi nói chuyện chuyên đề về ma tuý, HIV/AIDS hoặc thông qua các tiết học ở một số môn học có nội dung liên quan đến giới tính, giáo viên chỉ đặt một số câu hỏi tích hợp giáo dục giới tính, với nội dung chung chung, sơ sài làm cho học sinh hiểu mơ màng, thậm chí nếu kết hợp thêm những thông tin sai lệch bên ngoài có thể các em còn hiểu sai vấn đề dẫn đến hậu quả đáng tiếc. Để chuẩn bị nghiên cứu vấn đề này cuối năm học 2014-2015 tôi đã dùng phiếu khảo sát để đánh giá mức độ nhận thức về giới tính của học sinh khối 8. Kết quả như sau: Năm học Số học sinh được khảo sát (Lớp 8) Mức độ nhận thức về giới tính Đầy đủ Phiến diện Sai lệch SL TL% SL TL% SL TL% 2014-2015 112 59 52,7 35 31,3 18 16 Như vậy: còn quá nhiều học sinh mới nắm kiến thức về giới tính ở một vài góc độ nào đó- Nhóm này dễ dẫn đến hiểu sai lệch vấn đề nếu như có thêm sự tác động tiêu cực ngoài xã hội. Nhóm học sinh nhận thức về giới tính ở mức độ yếu còn chiếm 16%. Đây là nhóm học sinh đáng lo ngại nhất, nhóm học sinh này nếu không có sự kèm cặp giáo dục của cả gia đình và xã hội thì các em khó mà bảo vệ được sức khoẻ sinh sản và tương lai của mình. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề: Để lồng ghép giáo dục giới tính cho học sinh qua chương sinh sản trong chương trình sinh học lớp 8 thì việc phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong việc thu nhận kiến thức, rèn luyện kĩ năng thái độ, hoàn thiện nhân cách là rất quan trọng để làm được điều này tôi đã thực hiện một số biện pháp sau: 2.3.1. Chọn lọc những nội dung cần thiết để giáo dục giới tính cho học sinh, lựa chọn phương pháp và kĩ thuật dạy học phù hợp với từng nội dung đã chọn: Trong chương trình sinh học 8 có rất nhiều bài có thể lồng ghép giáo dục giới tính cho học sinh trong đó chương sinh sản là điển hình nhất. Ở chương này có 5 tiết lí thuyết, từ tiết 63 đến tiết 67, nội dung trong các bài đều liên quan đến vấn đề giới tính. Vì vậy để lồng ghép giáo dục giới tính cho học sinh tôi không đưa thêm kiến thức mới vào bài mà chỉ tổ chức cho học sinh hoạt động tich cực, chủ động khai thác kiến thức, tự tìm hiểu và làm rõ thêm một số vấn đề liên quan đến giới tính, đặc biệt lưu ý vận dụng liên hệ với thực tiễn, từ đó các em tự hình thành cho mình một số kĩ năng, có thái độ: Bình tĩnh, tự tin trước những thay đổi về tâm sinh lí ở tuổi dậy thì để đối mặt và đón nhận nó một cách tích cực, có ý thức giữ gìn vệ sinh hệ sinh dục, bảo vệ sức khoẻ sinh sản của bản thân trước những nguy cơ khách quan đưa đến. Có thể sử dụng rất nhiều phương pháp giáo dục giới tính cho học sinh nhưng với điều kiện cụ thể của trường THCS Thạch Cẩm tôi đã chọn các phương pháp phù hợp cho từng nội dung như sau: Tên bài học Các nội dung giáo dục giới tính được lồng ghép Các phương pháp/ Kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng Bài 60 ( Tiết 63) Cơ quan sinh dục nam - Cấu tạo và các bộ phận của cơ quan sinh dục nam và chức năng của chúng: Biết được những thay đổi về tâm sinh lí ở tuổi dậy thì để đối mặt và đón nhận nó một cách tích cực, có ý thức giữ gìn vệ sinh hệ sinh dục, bảo vệ sức khoẻ sinh sản. - Đặc điểm của tinh trùng Cơ sở của các biện pháp tránh thai. - Dạy học nhóm. - Trực quan. - Vấn đáp- Tìm tòi Bài 61 ( Tiết 64) Cơ quan sinh dục nữ - Cấu tạo và các bộ phận của cơ quan sinh dục nữ và chức năng của chúng: Biết được một số vấn đề nảy sinh liên quan đến giới tính ở tuổi dậy thì Biết cách giữ gìn vệ sinh hệ sinh dục, bảo vệ sức khoẻ sinh sản. - Đặc điểm của trứng Cơ sở của các biện pháp tránh thai. Lưu ý nhận thức về vấn đề tình dục cần đạt là: sống lành mạnh, trong sáng, không được thử và không được quan hệ tình dục bừa bãi và đặc biệt phải biết giữ trinh tiết cho đến khi lập gia đình. - Dạy học nhóm. - Vấn đáp- Tìm tòi - Trực quan. Bài 62-63 ( Tiết 65) Thụ tinh, thụ thai, cơ sở khoa học của các biện pháp tránh thai Thụ tinh và thụ thai, biết được các điều kiện cần cho sự thụ tinh, thụ thai - Ý nghĩa của việc tránh thai, những nguy cơ có thai ở tuổi vị thành niên, cơ sở khoa học của các biện pháp tránh thai. Lưu ý: Giúp học có kĩ năng ứng phó với những tình huống ép buộc, lừa gạt quan hệ tình dục, tránh mang thai ngoài ý muốn. - Dạy học nhóm nhỏ -Kĩ thuật “khăn trải bàn” - Hỏi chuyên gia Bài 64 (Tiết 66)Các bệnh lây qua đường sinh dục - Nguyên nhân, triệu chứng, tác hại và cách lây truyền của bệnh lậu, bệnh giang mai. Giáo dục học sinh biết cách phòng tránh có hiệu quả các bệnh trên, bảo vệ sức khoẻ sinh sản. - Dạy học nhóm/ Kĩ thuật các mảnh ghép. - Vấn đáp- Tìm tòi Bài 65 (Tiết 67) Đại dịch AIDS- Thảm hoạ của loài người - Qua các nội dung: Nguyên nhân dẫn tới AIDS, vì sao AIDS là thảm hoạ của loài người, những con đường lây nhiễm, các biện pháp phòng tránh, giáo dục cho học sinh có ý thức ngăn chặn dại dịch AIDS bằng cách kiên quyết từ chối những hành vi dụ dỗ, lừa gạt tình dục không an toàn, tránh xa tệ nạn mại dâm, ma tuý, cờ bạc; tuyên truyền cho người thân và bạn bè về những vấn đề mình tiếp thu được qua bài học, có thái độ cảm thông chia sẻ và động viên, giúp đỡ người không maỵ bị HIV/ AIDS và người thân của họ. - Dạy học nhóm nhỏ. - Vấn đáp- Tìm tòi - Hỏi chuyên gia - chúng em biết 3 - Viết tích cực. 2.3.2.Tổ chức các hoạt động dạy học theo kĩ thuật dạy học tích cực: Sau khi đã thiết kế được kế hoạch bài học (giáo án), phù hợp với từng nội dung bài học tôi đã tổ chức điều khiển học sinh hoạt động một cách tích cực, chủ động tìm tòi phát hiện tri thức bằng nhiều kĩ thuật dạy học khác nhau. Các kĩ thuật dạy học chính mà tôi đã lựa chọn trong chương này là: Thảo luận nhóm nhỏ. Vấn đáp- Tìm tòi Kĩ thuật các “ mảnh ghép” Kĩ thuật “khăn trải bàn” Kĩ thuật “Hỏi chuyên gia” Kĩ thuật “Chúng em biết 3 ” Tuỳ nội dung của từng phần, từng bài để vận dụng các kĩ thuật dạy học khác nhau. Trong khuôn khổ của một SKKN tôi xin trình bày các biện pháp cụ thể mà tôi đã thực hiện ở hai tiết trong chương sinh sản. * Ví dụ 1: Khi dạy bài 62-63 ( Tiết 65) Thụ tinh, thụ thai, cơ sở khoa học của các biện pháp tránh thai. Đây là bài có nội dung cơ bản của giáo dục dân số và kế hoạch hoá gia đình, là cơ sở của giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên nhưng nội dung kiến thức trong SGK còn chung chung hơn nữa chương trình lại dồn 2 bài ( 62-63) vào một tiết học. Nếu không sử dụng kĩ thuật dạy học phù hợp thì học sinh không thể lĩnh hội được hết nội dung của bài hoặc chỉ tiếp thu một cách hời hợt, không đủ thời gian để liên hệ thực tiễn lồng ghép giáo dục giới tính. Vì vậy tôi đã vận dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực sau đây: - Thảo luận nhóm nhỏ Kĩ thuật “khăn trải bàn” Hỏi chuyên gia. Tôi đã vận dụng vào từng phần trong bài như sau: Hoạt động 1: Tìm hiểu những điều kiện cần cho sự thụ tinh và thụ thai: Với phần này tôi chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ mỗi nhóm 2 hoặc 3 em, mỗi em tự nghiên cứu thông tin để trả lời vấn đề đặt ra ở cuối mục 1: Hãy nêu rõ Những điều kiện cần cho sự thụ tinh và thụ thai.( Trong 3 phút). Sau khi hoạt động cá nhân, giáo viên cho học sinh trao đổi với bạn cùng nhóm (trong 3 phút). Trong khi các nhóm nhỏ thảo luận, giáo viên đi đến các nhóm và hướng dẫn các nhóm còn lúng túng bằng cách đặt ra các câu hỏi phụ như: Trứng chưa chín, chưa rụng thì có thể thụ tinh được không?(Không) Trứng chín và rụng nhưng không gặp được tinh trùng trong ống dẫn trứng thì có thể thụ tinh được không?(Không) Trứng được thụ tinh nhưng chưa bám và làm tổ được trong lớp niêm mạc tử cung thì có thụ thai được không?(Không) Đại diện của 1 nhóm trình bày kết quả trước cả lớp, các nhóm khác nghe và bổ sung ( Trong 3 phút), sau đó GV sử dụng sơ đồ tóm tắt và kết luận: Sự thụ tinh [6] - Sự thụ tinh chỉ xảy ra khi trứng gặp được tinh trùng và tinh trùng lọt được vào trứng để tạo thành hợp tử. - Sự thụ thai chỉ xảy ra khi trứng đã thụ tinh bám được và làm tổ trong lớp niêm mạc tử cung. GV giải thích thêm: Điều kiện Thụ tinh Là sự kết hợp giữa tinh trùng và trứng Xảy ra ở 1/3 ống dẫn trứng, từ phía đầu xuống - Tinh trùng phải gặp được trứng - Đủ số lượng tinh trùng cần thiết - Thời gian tinh trùng gặp trứng không quá sớm cũng không quá muộn. Thụ thai Là quá trình làm tổ và phát triển của hợp tử trong tử cung. Lớp niêm mạc tử cung phải được chuẩn bị sẵn: dày, xốp, xung huyết GV nhấn mạnh: những kết luận trên là cơ sở cho việc thực hiện kế hoạch hoá gia đình sẽ nghiên cứu ở phần sau. Hoạt động 2: Tìm hiểu sự phát triển của thai Phần này nội dung thông tin trong SGK ít vì vậy tôi sưu tập thêm một số hình ảnh về trẻ em suy dinh dưỡng, còi xương, phát triển không bình thường, do mẹ ăn uống kiêng khem quá mức hoặc dùng các chất gây nghiện như: Thuốc lá, rượu, bia để các em có thêm thông tin, sau đó dùng kĩ thuật “khăn phủ bàn” để tổ chức cho các em khai thác kiến thức để trả lời vấn đề đặt ra ở cuối mục 2: Sức khoẻ của mẹ ảnh hưởng như thế nào đối với sự phát triển của thai? Từ sự phân tích đó có thể đi đến kết luận gì về những việc cần làm và những điều nên tránh để thai phát triển tốt và con sinh ra khoẻ mạnh, phát triển bình thường? - Chia nhóm học sinh mỗi nhóm 6 em, mỗi em tự nghiên cứu thông tin trong SGK, kết hợp với thông tin mà GV cung cấp và kiến thức thực tiễn các em góp nhặt được để tự trả lời vào phần của mình trên “ Khăn phủ bàn” (trong 2 phút). - Thảo luận nhóm thống nhất ý kiến ghi kết quả vào giữa “Khăn phủ bàn” (Trong 3 phút). - Đại diện 1 nhóm trình bày kết quả. Các nhóm khác tham gia nhận xét, đánh giá bổ sung, GV nhận xét bổ sung, kết luận: (Trong 2 phút). Thai được nuôi dưỡng và phát triển bình thường nhờ chất dinh dưỡng lấy từ mẹ qua nhau thai. Qua các hoạt động tìm hiểu và kiến thức rút ra được ở phần này giúp các em ý thức được: Sức khoẻ của thai, sự phát triển của thai tuỳ thuộc vào sức khoẻ của mẹ. Do đó trong thời kì mang thai cũng như sau này cho con bú người mẹ cần bồi dưỡng đủ chất và đủ lượng để đảm bảo dinh dưỡng cho thai phát triển tốt; không dùng các chất gây nghiện như: Thuốc lá, rượu, biacó ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của thai. Khi tiến hành các hoạt động tìm hiểu, giải thích về hiện tượng kinh nguyệt; tìm hiểu ý nghĩa của việc tránh thai; tìm hiểu những nguy cơ khi có thai ở tuổi vị thành niên; tìm hiểu các nguyên tắc cần tuân thủ để có thể tránh thai. Tôi dùng kĩ thuật “Hỏi chuyên gia”. - Để tận dụng được thời gian, trong tiết học trước tôi đã chọn nhóm “chuyên gia” gồm 8 học sinh, chia thành 4 nhóm giao cho mỗi nhóm nghiên cứu tìm hiểu kĩ một nội dung ở nhà. - GV hỗ trợ các chuyên gia trong việc tìm hiểu nội dung bằng cách đặt ra một hệ thống câu hỏi liên quan để các chuyên gia nghiên cứu trả lời, gợi ý trả lời khi cần thiết; hỗ trợ tìm kiếm đồ dùng trực quan như: các loại thuốc tránh thai, dụng cụ tránh thai, hướng dẫn sử dụng, ưu nhược điểm của các phương tiện. Trước khi phỏng vấn cho các chuyên gia cùng nội dung thảo luận nhóm với nhau (Trong 1 phút). Bắt đầu phỏng vấn Gv mời cả nhóm chuyên gia ngồi phía trên lớp học, quay mặt về phía người phỏng vấn. - Tiến hành phỏng vấn “chuyên gia” (Trong khoảng 20 phút): Để buổi tư vấn đi dúng quỹ đ
Tài liệu đính kèm:
- skkn_su_dung_phuong_phap_va_ki_thuat_day_hoc_tich_cuc_de_gia.doc
- BÌA-MỤC LỤC....doc