SKKN Sử dụng một số trò chơi thi đua trong dạy học Ngữ văn nhằm phát huy hứng thú và tính tích cực học tập cho học sinh khối 7 Trường THCS Tân Thành

SKKN Sử dụng một số trò chơi thi đua trong dạy học Ngữ văn nhằm phát huy hứng thú và tính tích cực học tập cho học sinh khối 7 Trường THCS Tân Thành

Môn Ngữ văn là môn học rất quan trọng trong nhà trường và trong đời sống xã hội. Bởi lẽ môn Ngữ văn không chỉ là môn học chính mà còn là môn học thuộc nhóm công cụ. Học tốt môn Ngữ văn sẽ giúp học sinh học tốt các môn liên quan vì môn Ngữ văn không chỉ cung cấp kiến thức văn hóa, kiến thức xã hội mà môn Ngữ văn còn giúp phát triển tư duy ngôn ngữ mà ngôn ngữ thì môn học nào cũng cần, bởi chỉ có ngôn ngữ mới giúp học sinh diễn tả được điều mình hiểu biết. Chính vì vậy, việc học tốt môn Ngữ văn là điều hết sức cần thiết. Muốn học tốt môn Ngữ văn, trước hết, học sinh phải có hứng thú để phát huy được tính tích cực trong học tập. Đây chính là lí do thứ nhất tôi lựa chọn đề tài này.

Thứ hai là, qua thực tế giảng dạy học sinh khối 7 Trường Trung học cơ sở Tân Thành, tôi thấy một số học sinh còn chưa có hứng thú và chưa phát huy tính tích cực trong học tập. Chính vì vậy mà kết quả học tập của các em chưa cao. Tôi xét thấy mình cần phải đổi mới về cách thức truyền thụ để học sinh tiếp cận được kiến thức nhanh nhất, hiệu quả nhất.

Thứ ba, do nhu cầu xã hội và định hướng nghề nghiệp của gia đình đối với các em học sinh ngay từ nhỏ nên hiện nay phần lớn các em học sinh chú trọng học các môn khoa học tư nhiên như: Toán, Lí, Hóa mà ít quan tâm đến các môn khoa học xã hội nói chung và môn Ngữ văn nói riêng. Vì vậy, khi học các môn này, học sinh thường không mấy hứng thú và chưa tích cực học tập. Chính vì vậy, khi giảng dạy, giáo viên cần tìm ra những phương pháp nhằm kích thích hứng thú và tính tích cực học tập của học sinh.

Thứ tư, môn Ngữ văn là môn học chính, số tiết trong tuần nhiều (lớp 7: 4 tiết trên tuần), đây cũng là môn thi bắt buộc vào lớp 10. Đồng thời, môn Ngữ văn không chỉ đơn thuần cung cấp kiến thức mà còn là môn học bồi dưỡng tư tưởng tình cảm, hình thành nhân cách cho các em học sinh. Chính vì vậy việc khơi gợi hứng thú và kích thích tính tích cực học tập cho học sinh là điều hết sức cần thiết.

Tất cả những lí do trên cũng là những trăn trở của một giáo viên bộ môn Ngữ văn như tôi. Chính vì vậy, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Sử dụng một số trò chơi thi đua trong dạy học Ngữ văn nhằm phát huy hứng thú và tính tích cực học tập cho học sinh khối 7 Trường THCS Tân Thành”.

 

doc 13 trang thuychi01 57844
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Sử dụng một số trò chơi thi đua trong dạy học Ngữ văn nhằm phát huy hứng thú và tính tích cực học tập cho học sinh khối 7 Trường THCS Tân Thành", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỬ DỤNG MỘT SỐ TRÒ CHƠI THI ĐUA TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN NHẰM PHÁT HUY HỨNG THÚ VÀ TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CHO HỌC SINH KHỐI 7 TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ TÂN THÀNH.
1. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài.
Môn Ngữ văn là môn học rất quan trọng trong nhà trường và trong đời sống xã hội. Bởi lẽ môn Ngữ văn không chỉ là môn học chính mà còn là môn học thuộc nhóm công cụ. Học tốt môn Ngữ văn sẽ giúp học sinh học tốt các môn liên quan vì môn Ngữ văn không chỉ cung cấp kiến thức văn hóa, kiến thức xã hội mà môn Ngữ văn còn giúp phát triển tư duy ngôn ngữ mà ngôn ngữ thì môn học nào cũng cần, bởi chỉ có ngôn ngữ mới giúp học sinh diễn tả được điều mình hiểu biết. Chính vì vậy, việc học tốt môn Ngữ văn là điều hết sức cần thiết. Muốn học tốt môn Ngữ văn, trước hết, học sinh phải có hứng thú để phát huy được tính tích cực trong học tập. Đây chính là lí do thứ nhất tôi lựa chọn đề tài này.
Thứ hai là, qua thực tế giảng dạy học sinh khối 7 Trường Trung học cơ sở Tân Thành, tôi thấy một số học sinh còn chưa có hứng thú và chưa phát huy tính tích cực trong học tập. Chính vì vậy mà kết quả học tập của các em chưa cao. Tôi xét thấy mình cần phải đổi mới về cách thức truyền thụ để học sinh tiếp cận được kiến thức nhanh nhất, hiệu quả nhất.
Thứ ba, do nhu cầu xã hội và định hướng nghề nghiệp của gia đình đối với các em học sinh ngay từ nhỏ nên hiện nay phần lớn các em học sinh chú trọng học các môn khoa học tư nhiên như: Toán, Lí, Hóamà ít quan tâm đến các môn khoa học xã hội nói chung và môn Ngữ văn nói riêng. Vì vậy, khi học các môn này, học sinh thường không mấy hứng thú và chưa tích cực học tập. Chính vì vậy, khi giảng dạy, giáo viên cần tìm ra những phương pháp nhằm kích thích hứng thú và tính tích cực học tập của học sinh. 
Thứ tư, môn Ngữ văn là môn học chính, số tiết trong tuần nhiều (lớp 7: 4 tiết trên tuần), đây cũng là môn thi bắt buộc vào lớp 10. Đồng thời, môn Ngữ văn không chỉ đơn thuần cung cấp kiến thức mà còn là môn học bồi dưỡng tư tưởng tình cảm, hình thành nhân cách cho các em học sinh. Chính vì vậy việc khơi gợi hứng thú và kích thích tính tích cực học tập cho học sinh là điều hết sức cần thiết.
Tất cả những lí do trên cũng là những trăn trở của một giáo viên bộ môn Ngữ văn như tôi. Chính vì vậy, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Sử dụng một số trò chơi thi đua trong dạy học Ngữ văn nhằm phát huy hứng thú và tính tích cực học tập cho học sinh khối 7 Trường THCS Tân Thành”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Hiện nay một bộ phận không nhỏ học sinh trường THCS Tân Thành chưa tích cực trong giờ học Ngữ Văn dẫn đến hiệu quả học tập chưa cao. Chính vì vậy, tôi nghiên cứu đề tài này là nhằm tìm ra giải pháp giúp học sinh tích cực học tập để nâng cao kết quả bộ môn Ngữ Văn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
	Trò chơi thi đua và việc sử dụng một số trò chơi thi đua trong môn Ngữ văn như thế nào để phát huy được hứng thú và tính tích cực học tập của học sinh khối lớp 7 Trường THCS Tân Thành nói riêng và học sinh nói chung nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn Ngữ văn.
	1.4. Phương pháp nghiên cứu.
	 Phương pháp thực nghiệm việc sử dụng một số trò chơi thi đua trong dạy học Ngữ văn để đánh giá kết quả học tập của học sinh từ đó rút kinh nghiệm.
	Phương pháp so sánh, đối chiếu trong giảng dạy giữa những tiết sử dụng một số trò chơi thi đua và những tiết không sử dụng trò chơi thi đua để thấy những tiết sử dụng trò chơi thi đua, học sinh tích cực học tập hơn, hiệu quả giờ học cao hơn.
 Phương pháp khảo sát, lấy phiếu thăm dò hứng thú của học sinh từ đó tìm ra phương pháp giải quyết. 
 	Phương pháp tìm hiểu, nghiên cứu, xử lí số liệu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cở sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
	Việc nghiên cứu đề tài “Sử dụng một số trò chơi thi đua trong dạy học Ngữ văn nhằm phát huy hứng thú và tính tích cực học tập cho học sinh khối 7 Trường THCS Tân Thành” xuất phát từ vai trò của môn Ngữ văn trong đời sống xã hội và tầm quan trọng của môn Văn đối với các môn học liên quan. Nếu các em học sinh có hứng thú và tích cực trong việc học môn Ngữ văn sẽ là điều kiện tốt để các em học tốt các môn học khác và thành công trong cuộc sống, đặc biệt là trong giao tiếp ngoài xã hội.
Xuất phát từ thực tế giảng dạy, hiện nay do nhu cầu xã hội và do định hướng nghề nghiệp của gia đình đối với các em học sinh ngay từ khi còn học trung học cơ sở nên một bộ phận lớn các em học sinh chỉ chú trọng học các môn tự nhiên mà không mấy hứng thú và không tích cực học các môn khoa học xã hội. Bằng chứng là số lượng học sinh làm hồ sơ thi khối C vào các trường đại học ngày càng giảm trong các năm gần đây, còn đối với các em được lựa chọn đi thi học sinh giỏi nếu các em không được thi các môn tự nhiên thì các em mới thi môn xã hội. Đây là do nhu cầu xã hội về vấn đề giải quyết việc làm. Từ những cơ sở trên, bằng kinh nghiệm giảng dạy, sự tìm tòi học hỏi và khám phá mà tôi đã thực hiện đề tài này.
Trên đây là cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm mà tôi đang nghiên cứu.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thuận lợi.
Đối với giáo viên.
 Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tôi được trực tiếp giảng dạy học sinh khối 7 Trường THCS Tân Thành nên tôi đã nhận ra ưu, khuyết điểm trong học tập của học sinh. Bên cạnh một số em hứng thú và tích cực học tập thì còn một bộ phận không nhỏ các em học sinh còn sao nhãng và chưa tích cực trong học tập. Do đó tôi từng bước tìm ra biện pháp nhằm phát huy hứng thú và tính tích cực trong học tập của học sinh.
 Tôi được trực tiếp giảng dạy học sinh lớp 7 nên tôi có điều kiện nắm bắt tâm sinh lý từng em học sinh. Đó chính là điều kiện để tìm ra giải pháp thực hiện có hiệu quả đối với hứng thú học tập của các em học sinh. 
 Trong quá trình giảng dạy tôi luôn tiếp cận và học tập những phương pháp đổi mới để khơi gợi hứng thú và phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Hơn thế nữa tôi luôn ý thức rằng: Để đạt được kết quả tốt trong học tập trước hết học sinh cần có hứng thú và tích cực trong học tập.
 Được nhà trường phân công đúng chuyên môn, chuyên ngành nên tôi đã phát huy được những kiến thức và phương pháp học tập sẵn có. Đồng thời tôi còn được phân công giảng dạy cả phần phụ đạo và ôn thi học sinh giỏi cho học sinh khối 7 nên có điều kiện tìm hiểu thêm hứng thú của các em học sinh và tìm ra giải pháp giảng dạy có hiệu quả.
 2.2.1.2. Đối với học sinh
 Học sinh Trường THCS Tân Thành phần lớn các em đều có ý thức và tinh thần học tập tốt, có lòng ham học hỏi và tiếp cận tri thức mới.
 Một số học sinh có năng khiếu và yêu thích môn Ngữ văn nên rất hứng thú và tích cực trong học tập đặc biệt là trong việc khám phá những tri thức mới.
 Một số gia đình đã quan tâm đến việc học của con em mình, tạo điều kiện để các em được tham gia học tập đầy đủ.
 2.2.2. Khó khăn.
 2.2.2.1. Đối với giáo viên
 Do là trường vùng khó nên cơ sở vật chất còn chưa đáp ứng được nhu cầu giảng dạy, dặc biệt là chưa có phòng học chức năng, đang còn thiếu các phương tiện dạy học hiện đại như máy chiếu đa năng, băng đĩa, đàiNên mỗi lần dạy học muốn đổi mới phương pháp đều gặp không ít những khó khăn.
Do điều kiện của nhà trường còn hạn chế nên giáo viên trong trường ít được giao lưu học hỏi với các giáo viên trường khác trong huyện để nâng cao trình độ và học hỏi kinh nghiệm.
 2.2.2.2. Đối với học sinh.
 Là học sinh vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn nên việc tiếp cận tri thức còn thụ động, chưa chịu suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo trong học tập, phương pháp học tập chưa phù hợp nên hiệu quả học tập chưa cao.
 Sự khó khăn về điều kinh tế gia đình – phần lớn các em học sinh đều là con em hộ nghèo nên sự thiếu thốn về tài liệu học tập cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc học của các em. Ngoài sách giáo khoa được nhà trường cho mượn nhiều học sinh không có tài liệu gì thêm.
 Số lượng học sinh chưa tích cực và chưa có hứng thú học tập vẫn còn nhiều. Phần lớn các em học sinh này là những học sinh học lực yếu kém, rỗng kiến thức từ những lớp dưới. Một bộ phận gia đình phụ huynh làm ăn xa không quan tâm đến con cái dẫn đến các em ngại học, lười học và không mấy hứng thú học tập.
2.2.3. Kết quả của thực trạng.
 Trong quá trình giảng dạy, tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng cho thấy kết quả về sự chênh lệch giữa học sinh chưa hứng thú và chưa tích cực trong học tập với số học sinh hứng thú và tích cực trong học tập như sau:
Bảng khảo sát: Kết quả ban đầu.
 Đối tượng học sinh
Lớp
Khối
Học sinh chưa hứng thú và chưa tích cực trong học tập
Học sinh hứng thú và tích cực trong học tập
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
7A( 32)
23
71,9
9
28,1
7B( 32)
25
78,1
7
21,9
Khối 7 (64)
48
75,0
16
25,0
 Qua khảo sát thực trạng cho thấy số lượng học sinh chưa có hứng thú và chưa tích cực trong học tập chiếm tỉ lệ cao gấp ba lần số lượng học sinh có hứng thú và tích cực học tập. Chính vì vậy việc tìm ra giải pháp phát huy hứng thú và tính tích cực học tập của học sinh là hết sức cần thiết. Có như vậy học sinh mới đạt được kết quả cao trong học tập.
	2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
	 Để phát huy hứng thú và tính tích cực học tập của học sinh, từ thực tế và kinh nghiệm giảng dạy, tôi đã đưa ra một số giải pháp sau:
 2.3.1. Tổ chức các trò chơi thi đua trong dạy học Ngữ văn.
 2.3.1.1. Nguyên tắc tổ chức trò chơi thi đua
 Trò chơi thi đua là một trò chơi học tập được diễn ra theo một trình tự hoạt động phải tuân theo những nguyên tắc sau:
 Nội dung của trò chơi gắn liền với kiến thức, kĩ năng, thái độ của một môn học hoặc một bài học cụ thể. Thường được diễn ra trong thời gian, không gian nhất định của một giờ học.
 Mọi học sinh đều thu nhận được những nội dung học tập chứa đựng trong trò chơi phù hợp với trình độ và khả năng của mình. Khác với trò chơi giải trí và rèn luyện sức khỏe, trò chơi thi đua là một trò chơi trong học tập nhằm hướng tới sự thông hiểu kiến thức gắn với nội dung học tập cụ thể của môn học, bài học, lớp học. 
 	 2.3.1.2. Tác dụng của trò chơi thi đua.
 Việc tổ chức các trò chơi thi đua trong dạy học Ngữ văn nhằm tạo ra không khí sôi nổi trong giờ học nhằm kích thích hứng thú và tính tích cực học tập của học sinh, giúp học sinh tiếp thu bài một cách tích cực và tự giác. Điều đó có tác dụng làm cho những học sinh chưa mấy hứng thú trong học tập cũng bị lôi cuốn vào những trò chơi thi đua đó. Từ đó các em sẽ hứng thú và tích cực tham gia các hoạt động học tập của lớp, của nhóm, có trách nhiệm cao với đồng đội, tôn trọng kỉ luật của nhóm, đội và luật chơi, giúp đỡ đồng đội.
 Việc tổ chức các trò chơi thi đua còn tạo ra tính thi đua trong học tập giữa các học sinh trong lớp, giữa các tổ, các nhóm học sinh với nhau. Từ đó mà kích thích hứng thú và tính tích cực học tập của các em học sinh.
 Trò chơi thi đua trong học tập còn tạo ra sự hấp dẫn, không khí vui vẻ. Khi chơi học sinh sẽ được bộc lộ, được thể hiện mình một cách tự nhiên. Giúp giáo viên và học sinh thay đổi hình thức hoạt động và trạng thái tình cảm với việc học. Trò chơi thi đua trong học tập còn tạo cơ hội cho học sinh rèn luyện kĩ năng và củng cố kiến thức.
 Sau khi tiến hành trò chơi thi đua cần có sự nhận xét, đánh giá của giáo viên giảng dạy nhằm chỉ ra những ưu, nhược điểm của các em học sinh nhằm giúp các em phát huy những ưu điểm đạt được và khắc phục những nhược điểm. Đồng thời đánh giá (cho điểm) nhằm kích lệ những học sinh có tính sáng tạo và tích cực tham gia học tập. Từ đó sẽ động viên các em lần sau tham gia tích cực và hăng hái hơn. 
 Việc tổ chức trò chơi thi đua trong giờ học không nên cứng nhắc mà phải linh hoạt, sử dụng như thế nào cho phù hợp với từng tiết, từng bài, từng phần của bài học. Có như vậy mới phát huy được hiệu quả của trò chơi này. 
	 Có nhiều cách tổ chức các trò chơi thi đua khác nhau, sau đây là một số cách tổ chức các trò chơi thi đua cụ thể.
 2.3.2 . Một số trò chơi thi đua trong dạy học Ngữ văn.
 2.3.2.1. Trò chơi thi điền nhanh.
 Đối với trò chơi thi điền nhanh, giáo viên có thể tổ chức dưới hình thức hoạt động cá nhân hoặc hoạt động nhóm. Tùy thuộc vào số lượng học sinh và cách bố trí sắp xếp trong lớp để chia nhóm cho phù hợp (mỗi nhóm khoảng 6 đến 8 học sinh). Trò chơi này phù hợp với việc dạy học phần Tiếng Việt, đặc biệt là áp dụng trong phần luyện tập với các dạng bài tập điền thêm các thông tin vào chỗ dấu ba chấm.
 VD1 : Khi dạy tiết 40 bài: “Từ trái nghĩa”, Ngữ văn 7 tập I. 
Phần luyện tập có thể áp dụng trò chơi thi điền nhanh đối với bài tập 3 sách giáo khoa – trang 129: Điền các từ trái nghĩa thích hợp vào thành ngữ sau.
 VD 2: Dạy tiết 50, bài: “Thành Ngữ”. Giáo viên cũng có thể áp dụng trò chơi này ở phần luyện tập đối với bài tập 3 trang 145: Điền thêm các yếu tố để thành ngữ được trọn vẹn. Trên đây là những ví dụ minh họa cụ thể, còn rất nhiều tiết – bài có thể áp dụng trò chơi này. 
 Để thực hiện có hiệu quả trò chơi này, giáo viên cần chuẩn bị một số đồ dùng như bảng phụ hoặc phiếu học tập đủ cho các nhóm thực hiện. Đối với trò chơi này, người chiến thắng sẽ là người điền nhanh nhất và đúng nhất.
 2.3.2.2. Trò chơi: Đường lên đỉnh Phan-Xi - Păng.
 Để thực hiện trò chơi này, giáo viên chia học sinh thành các nhóm tùy thuộc vào số lượng học sinh trong lớp cho phù hợp. Các nhóm cử ra đội trưởng của nhóm mình.
 Trò chơi này cũng phù hợp với dạy các tiết Tiếng việt, có thể áp dụng ở phần luyện tập hoặc ở phần dạy lý thuyết đặc biệt là sau khi hình thành các khái niệm sau đó cho thực hành làm bài tập nhanh.
 VD 1 : Khi dạy tiết 50, bài: “Thành ngữ”, giáo viên có thể áp dụng trò chơi này ở phần luyện tập, bài tập 4: Hãy sưu tầm thêm ít nhất mười thành ngữ chưa được giới thiệu trong sách giáo khoa và giải thích nghĩa của các thành ngữ ấy.
 Ở trò chơi này, sưu tầm được một thành ngữ đúng được tính bằng một bậc thang, nhóm nào sưu tầm được nhiều thành ngữ nhóm đó sẽ lên đỉnh trước và đó là nhóm chiến thắng.
 VD 2: Khi dạy tiết 36, bài “Từ đồng nghĩa”, hoặc tiết 44, bài “Từ đồng âm” giáo viên cũng có thể áp dụng trò chơi này trong tiết học. Có thể áp dụng ngay sau khi hình thành xong khái niệm và cho học sinh lấy ví dụ về từ đồng nghĩa, hoặc từ đồng âm. Cứ lấy được một ví dụ đúng là tính một bậc thang, cứ như vậy nhóm leo lên cao sẽ là nhóm chiến thắng.
 Để thực hiện tốt trò chơi này giáo viên cũng cần chuẩn bị một hệ thống bảng phụ hoặc phiếu học tập có như vậy mới đảm bảo được thời gian trong tiết học.
 2.3.2.3. Trò chơi: Thi ghép nhanh.
 Trò chơi thi ghép nhanh là trò chơi mang tính đồng đội cao. Giáo viên chia nhóm, mỗi nhóm cử đại diện lên thi với các nhóm khác, nhóm nào ghép nhanh, ghép đúng sẽ là nhóm chiến thắng. 
 Trò chơi này phù hợp với dạy các tiết – bài ôn tập.
 VD: Khi dạy tiết 67, bài: “Ôn tập tác phẩm trữ tình”, trang 180, giáo viên có thể áp dụng trò chơi này trong bài học. Giáo viên có thể chia làm ba nhóm thảo luận, mỗi nhóm cử hai đại diện thi với nhau. Một người ghi tên tác giả một người ghép tên tác phẩm sang bên cạnh. Nhóm nào ghép được nhiều nhất, đúng nhất và nhanh nhất nhóm đó sẽ chiến thắng.
 2.3.2.4. Trò chơi: Thi sắp xếp. 
 Trò chơi thi sắp xếp là trò chơi đòi hỏi học sinh phải có trí nhớ tốt để sắp xếp các nội dung kiến thức cho đúng. Trò chơi này, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh hoạt động cá nhân hoặc hoạt động nhóm. Giáo viên có thể áp dụng trò chơi này trong các tiết bài ôn tập.
 VD: Khi dạy tiết 67, bài “ Ôn tập tác phẩm trữ tình”, giáo viên có thể áp dụng trò chơi này khi giải quyết các bài tập 2 và bài tập 3, trang 180,181. Bài tập 2: Hãy sắp xếp lại tên tác phẩm khớp với nội dung tư tưởng, tình cảm được biểu hiện. Bài tập 3 hãy sắp xếp lại để tên tác phẩm (hoặc đoạn trích) khớp với thể thơ.
 Đối với trò chơi này giáo viên cần chuẩn bị một số phiếu học tập hoặc một số bảng phụ để cho học sinh sắp xếp, học sinh nào hoặc nhóm nào sắp xếp nhanh thì sẽ chiến thắng.
 Trò chơi này còn có thể áp dụng đối với các dạng bài tập sắp xếp các tác phẩm theo từng giai đoạn lịch sử, theo thứ tự ra đời từ trước tới sau. 
 2.3.2.5. Trò chơi: Thi đối đáp.
 Trò chơi này chia ra các đội tùy thuộc vào số học sinh trong lớp để chia đội có thể chia ra 2 hoặc 4 hoặc 6 đội. Số lượng mỗi đội bằng nhau, lần lượt từng cặp đôi ra thi đấu.
 Trò chơi này có thể áp dụng đối với các bài: “Từ trái nghĩa”, tiết 40, “Từ đồng nghĩa”, tiết 36.
 VD: Yêu cầu của giáo viên là tìm các từ trái nghĩa. Đội A, mỗi người đưa ra một từ và yêu cầu một người đối diện ở đội B tìm ra từ trái nghĩa của từ đó. Người tương ứng ở đội B phải nhanh chóng nói ra từ trái nghĩa đó. Sau đó một người bên phía đội B đưa ra một từ để hỏi người đối diện ở đội A và người trong đội A phải tìm ra từ trái nghĩa với nó. Trò chơi cứ như thế cho đến khi có đội không tìm ra đáp án hoặc đáp án bị sai thì bị thua. Mỗi câu trả lời đúng sẽ được một điểm, đội nào được nhiều điểm đội đó sẽ chiến thắng . Giáo viên làm trọng tài. Đối với bài: “Từ đồng nghĩa” cũng tương tự như vậy.
 2.3.2.6. Trò chơi: Thi đọc thơ.
 Khi học các văn bản thơ để tiếp cận và hiểu đầy đủ về giá trị của văn bản bao giờ giáo viên cũng yêu cầu học sinh học thuộc các bài thơ đã học. Thế nhưng học sinh lại rất ngại học thuộc lòng. Để tạo được hứng thú một cách tự nhiên cho học sinh, giáo viên có thể tổ chức trò chơi này.
 Để tiến hành trò chơi này, giáo viên có thể chia lớp thành 2 hoặc 4 đội. Mỗi đội có số lượng thành viên bằng nhau. Các đội cử đại diện ra thi với nhau, đội 1 đọc một câu thơ đầu của bài thơ, đội 2 phải đọc câu thơ tiếp theo cứ như vậy các thành viên trong các đội thi với nhau nếu đội nào không thuộc thì đội đó sẽ bị thua. Trò chơi này có thể áp dụng khi học các văn bản thơ hoặc học bài ôn tập về thơ. 
 Trên đây là một số trò chơi thi đua trong dạy học Ngữ văn lớp 7, những trò chơi này cũng có thể áp dụng vào dạy đối với các khối 6, 8, 9. 
 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Tôi đã áp dụng sáng kiến kinh nghiệm với học sinh khối 7 nói riêng và học sinh của cả Trường THCS Tân Thành nói chung trong các bài giảng bình thường trên lớp và cả những lần thao giảng ở trường. 
	 * Đối với học sinh: Qua việc áp dụng các trò chơi thi đua trong dạy học Ngữ văn 7 nhằm phát huy hứng thú và tính tích học tập của học sinh, sau một thời gian, tôi thấy số học sinh hứng thú và tích cực học tập đã tăng lên rõ rệt, kết quả học tập cũng được nâng lên. Cụ thể số liệu khảo sát ở học sinh khối 7 Trường THCS Tân Thành cho thấy như sau: 
 Số lượng học sinh có hứng thú và tích cực trong học tập tăng cao gấp 3 lần từ 16 học sinh lên 48 học sinh. Số lượng học sinh không hứng thú và chưa tích cực học tập giảm nhiều từ 48 học sinh xuống còn 16 học sinh. Điều này cho thấy việc áp dụng trò chơi thi đua vào trong dạy học Ngữ văn 7 đã đem lại kết quả khả thi góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Tuy nhiên, vẫn còn hơn 25,0% học sinh chưa hứng thú và chưa tích cực học tập, đây là những học sinh cá biệt học lực yếu kém. Đây là bảng thống kê kết quả sau khi áp dụng trò chơi thi đua vào trong dạy học Ngữ văn 7:
 Đối tượng học sinh
Lớp
Khối
Học sinh chưa hứng thú và chưa tích cực trong học tập
Học sinh hứng thú và tích cực trong học tập
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
7A( 32)
7
21,9
25
78,1
7B( 32)
9
28,1
23
71,9
Khối 7 (64)
16
25,0
48
75,0
 Như vậy có thể thấy việc áp dụng đề tài vào thực tiễn dạy học đã đem lại hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng dạy và học. 
 Tuy nhiên những trò chơi thi đua này không thể áp dụng một cách máy móc, cứng nhắc mà cần áp dụng linh hoạt đối với từng kiểu bài cho phù hợp nếu không sẽ không đem lại hiệu quả như mong muốn. 
 * Đối với giáo viên.
 Qua việc áp dụng đề tài sáng kiến kinh nghiệm vào trong giảng dạy giúp giáo viên bộ môn Ngữ văn nói riêng và giáo viên các bộ môn khác trong tổ khoa học xã hội nói chung có thêm kinh nghiệm, phương pháp tổ chức thực hiện để nâng cao hứng thú và tính tích cực học tập cho học sinh. Đây là điều kiện cần thiết để giáo viên bồi dưỡng cho học sinh trở thành học sinh giỏi môn Ngữ văn.
 * Đối với nhà trường.	
 Chất lượng giáo dục trong nhà trường được nâng lên. Xây dựng được môi trường giáo dục thân thiện, tích cực giữa thầy và trò.

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_su_dung_mot_so_tro_choi_thi_dua_trong_day_hoc_ngu_van_n.doc