Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng trong dạy ca dao, tục ngữ trong chương trình Ngữ văn 7

Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng trong dạy ca dao, tục ngữ trong chương trình Ngữ văn 7

- Có thể nói vấn đề dạy học tác phẩm văn học đặc trưng thể lại cho đến nay chưa hề cũ vì dạy tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể lại là một trong những yêu cầu cần thết và quan trọng nó khẳng định được cách đi đúng hướng trong việc cải tiến, đổi mới phương pháp nội dung dạy- học ngữ văn ở trường THCS theo chương trình SGK mới hiện nay.

- Như chúng ta đã biết SGK mới hiện nay được biên soạn theo chương trình tích hợp,lấy các kiểu văn bản làm nơi gắn bó ba phân môn: Văn -Tiếng Việt -Tập làm văn. Vì thế các văn bản được lựa chọn phải vừa tiêu biểu cho các thể loại ở các thời kì lịch sử văn học vừa phải đáp ứng tốt cho việc dạy các kiểu văn bản trong Tiếng việt và tập làm văn  vì vậy SGK ngữ văn 7 hiện nay có cấu trúc theo kiểu văn bản lấy các kiểu văn bản làm trục đồng quy. Ở chương trình Ngữ Văn THCS các em được học 6 kiểu văn bản: (vòng 1 lớp 6-7; vòng 2 lớp 8-9) theo nguyên tắc đồng tâm có nâng cao. Ở lớp 7 các em học 3 kiểu văn bản: biểu cảm,clập luận và điều hành trong đó học kì 1 tập trung 1 kiểu văn bản là biểu cảm chính vì vậy mà SGK ngữ văn 7 đã đưa những tác phẩm trữ tình dân gian(cụ thể là ca dao - dân ca) nhằm minh họa cụ thể sinh động cho kiểu văn bản biểu cảm giúp các em dễ dàng tiếp nhận (đọc, hiểu, cảm thụ, bình giảng về ca dao - dân ca một thể lại trữ tình dân gian.

docx 21 trang Phúc Hảo 12/03/2024 2573
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng trong dạy ca dao, tục ngữ trong chương trình Ngữ văn 7", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BIỆN PHÁP
Nâng cao chất lượng trong dạy ca dao, tục ngữ
trong chương trình ngữ văn 7
1. Lí do chọn biện pháp:
- Có thể nói vấn đề dạy học tác phẩm văn học đặc trưng thể lại cho đến nay chưa hề cũ vì dạy tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể lại là một trong những yêu cầu cần thết và quan trọng nó khẳng định được cách đi đúng hướng trong việc cải tiến, đổi mới phương pháp nội dung dạy- học ngữ văn ở trường THCS theo chương trình SGK mới hiện nay.
- Như chúng ta đã biết SGK mới hiện nay được biên soạn theo chương trình tích hợp,lấy các kiểu văn bản làm nơi gắn bó ba phân môn: Văn -Tiếng Việt -Tập làm văn. Vì thế các văn bản được lựa chọn phải vừa tiêu biểu cho các thể loại ở các thời kì lịch sử văn học vừa phải đáp ứng tốt cho việc dạy các kiểu văn bản trong Tiếng việt và tập làm văn vì vậy SGK ngữ văn 7 hiện nay có cấu trúc theo kiểu văn bản lấy các kiểu văn bản làm trục đồng quy. Ở chương trình Ngữ Văn THCS các em được học 6 kiểu văn bản: (vòng 1 lớp 6-7; vòng 2 lớp 8-9) theo nguyên tắc đồng tâm có nâng cao. Ở lớp 7 các em học 3 kiểu văn bản: biểu cảm,clập luận và điều hành trong đó học kì 1 tập trung 1 kiểu văn bản là biểu cảm chính vì vậy mà SGK ngữ văn 7 đã đưa những tác phẩm trữ tình dân gian(cụ thể là ca dao - dân ca) nhằm minh họa cụ thể sinh động cho kiểu văn bản biểu cảm giúp các em dễ dàng tiếp nhận (đọc, hiểu, cảm thụ, bình giảng về ca dao - dân ca một thể lại trữ tình dân gian.
Kết quả khảo sát 3 lớp 7 mà tôi trực tiếp giảng dạy về việc các em có hay phát biểu trong giờ học ngữ văn hay không, kết quả thu được như sau: 
Số học sinh khảo sát
Phát biểu nhiều
Có phát biểu nhưng không nhiều
Không phát biểu
Khối 7
13/123
40/123
70/123
Tổng số
10,6%
32,5%
56,9
- Để nâng cao chất lượng dạy học môn ngữ văn nói chung và khuyến khích sự yêu thích trong học phần ca dao, tục ngữ tôi đã áp dụng những biện pháp sau
2. Nội dung biện pháp
 Thực trạng:
* Về phía học sinh
- Chưa thực sự yêu thích ca dao dân ca.
- Còn nhầm, chưa phân biệt được ca dao - dân ca.
- Cứ thấy thể thơ 6/8 là xếp vào ca dao ( cả tục ngữ).
- Chưa có kĩ năng phân tích ca dao, một loại thơ dân gian với những đặc trưng riêng về thi pháp.
* Về phía giáo viên
Chưa nghiên cứu kĩ đặc trưng thể loại của ca dao - dân ca. Phương pháp dạy ca dao – tục ngữ còn chung chung cũng giống như phương pháp giảng dạy thơ trữ tình.
 	2.1 Những điều giáo viên cần nắm vững khi giảng dạy Ca dao, dân ca – Tục ngữ
a. Ca dao dân ca là thể loại trữ tình dân gian, kết hợp lời và nhạc, diễn tả đời sống nội tâm của con người.
b. Đặc điểm
- Nghệ thuật của ca dao trước hết là nghệ thuật vận dụng ngôn ngữ dân tộc.
+ Anh đến tìm em thì em đã có chồng 
Em yêu anh rứa có mặn nồng chi mô ? 
- Ca dao thường có kết cấu ngắn gọn 
- Dấu ấn của lối đối đáp in khá đậm trong ca dao.
+ Người về em chẳng cho về 
Em nắm vạt áo, em đề câu thơ 
- Ca dao sử dụng đậm đặc các công thức truyền thống: rủ nhau, thân em, đêm đêm, chiều chiều...
Rủ nhau xuống bể mò cua 
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng 
Em ơi chua ngọt đã từng 
Rừng xanh nước bạc ta đừng quên nhau
- Phép so sánh thường được sử dụng trong ca dao 
Thân em như ớt chín cây
Càng tươi ngoài vỏ, càng cay trong lòng.
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than.
* Các loại ca dao và dân ca chủ yếu
(1) Ca dao trẻ em
(2) Ca dao lao động
(3) Ca dao nghi lễ phong tục
(4) Ca dao ru con
(5) Ca dao trữ tình
(6) Ca dao trào phúng
b. Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian gồm những câu nói ngắn gọn, có vầ điệu, có hình ảnh dễ nhớ dễ truyền, có chức năng đúc kết kinh nghiệm tri thức lâu đời của nhân dân về thiên nhiên và lao động sản xuất, về con người và xã hội.
*/ Đặc điểm của tục ngữ.
- Tục ngữ mang tính cô đọng súc tích thể hiện ở chỗ lượng từ rất ít nhưng diễn đạt một vấn đề lớn có thể là một tư tưởng, một kiến thức, một hiện thực.
+ Đốm đầu thì nuôi, đốm đuôi thì thịt
=> kinh nghiệm trong việc chọn chó.
+ Gà đen chân trắng, mẹ mắng cũng mua
Gà trắng chân chì, mua chi giống ấy.
+ Nhai kĩ no lâu, cày sâu tốt lúa.
- Tục ngữ có tính nhiều nghĩa nhờ có đặc điểm này mà người ta sử dụng tục ngữ trong những hoàn cảnh khác nhau.
+ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây 
* Nghĩa đen: Khi ăn quả thì phải nhớ người trồng cây.
* Nghĩa bóng: Khi ta hưởng thành quả thì ta phải nhớ đến người đã cho mình thành quả đó 
- Các hình ảnh, các từ ngữ trong câu tục ngữ thường đối xứng với nhau.
+ Quýt làm, cam chịu.
+ Tre già, măng mọc.
+ Đi một ngày đàng, học một sàng khôn
Trong nhà trường THCS - THPT chủ yếu học sinh được học phần lời ca (tức là ca dao) nên đề tài này tôi chủ yếu đề cập đến ca dao-tục ngữ
I. Về Ca dao
1.1: Xác định khoảng thời gian ra đời của câu tục ngữ.
vd: Con dại cái mang 
=> câu tục ngữ ra đời rất xa xưa người phụ nữ có vai trò quan trọng trong gia đình ( chế độ mẫu hệ ) 
Câu 1 ( sgk Ngữ văn lớp 7 ): kết nối tri thức
- Khi trò chuyện với người khác, em đã từng dùng tục ngữ. Ví dụ: “Ráng mỡ gà có nhà thì giữ
- Sử dụng thành ngữ trên khi quan sát trên bầu trời: Khi trên trời xuất hiện ráng có sắc vàng màu mỡ gà thì trời sắp có bão: Đây là kinh nghiệm dự báo bão. Cần chủ động phòng chống bão, giữ gìn nhà cửa, hoa màu
1.2: Liên hệ câu tục ngữ được giảng với những dị bản của nó.
- Liên hệ với những câu tục ngữ trong cùng một bài học.
vd: Học ăn, học nói, học gói, học mở
Với câu: Học thầy không tày học bạn
- Liên hệ câu tục ngữ với những dị bản nằm ngoài bài . Đây là cách liên hệ có ý nghĩa tích cực.
vd: Một mặt người bằng mười mặt của
Với câu: Người sống đống vàng 
Ý nghĩa của công việc này: Đây là một biện pháp mở rộng phương hướng phân tích tục ngữ làm cho bài dạy thêm phong phú. Việc làm này cũng phù hợp với thuộc tính của văn học dân gian ( tính dị bản )
Khi đối chiếu các dị bản khác nhau thì giúp học sinh nhận thức hơn nội dung của câu tục ngữ. Câu 7 (trang 13 sgk Ngữ văn lớp 7):
- Câu 11 và 12 trong bài đặt cạnh nhau cũng là một cặp có vẻ mâu thuẫn, loại trừ nhau: Nếu câu này đúng thì cấu kia sai, và ngược lại. Tuy nhiên, thực tế, hai câu này vẫn được dân gian sử dụng và chúng vẫn song song tồn tại. Sở dĩ như vậy là vì các câu tục ngữ luôn gắn với những hoàn cảnh sống khác nhau. Nhờ đó, mỗi câu mới thể hiện những bài học riêng và được vận dụng có hiệu quả trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. 
+ Một câu khẳng định: Trong học tập, người thầy đóng vai trò rất quan trọng. Thầy giỏi, có phương pháp dạy học tốt thì trò sẽ mau tiến bộ. Thực tế giáo dục đã chứng minh điều này. 
1.3. Phân tích nội dung của câu tục ngữ là tập trung phân tích nghĩa đen và nghĩa bóng của từng đơn vị . 
VD: Người ta là hoa đất 
- Nghĩa đen: Người là hoa của đất 
Nghĩa bóng: câu tục ngữ đề cao con người, coi con người là vốn quý nhất, là tinh hoa của đất trời, không có một giá trị vật chất nào khác so sánh được. 
Nghĩa đen : là nghĩa thứ nhất, nghĩa trực tiếp, loại nghĩa này rất dễ phát hiện, dễ nắm bắt đối với những loại tục ngữ, có nghĩa bóng thì nghĩa đen là nghĩa cơ sở để hiểu được nghĩa bóng. 
Đối với các loại tục ngữ nói về kinh nghiệm sản xuất thì thường chỉ có một loại nghĩa, đó là nghĩa đen mà không có nghĩa bóng .Vì vậy khi phân tích các loại tục ngữ này chúng ta cần chú ý hiện tượng cá biệt đó. 
Đối với các loại tục ngữ có nghĩa bóng thì việc nắm nghĩa đen là rất quan trọng, bởi vì có hiểu nghĩa đen thì mới hiểu nghĩa bóng được. 
Câu 8 (trang 13 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 2):
“Làm ruộng ba năm không bằng chăn tằm một lứa”
Theo thời gian, cuộc sống xã hội của con người luôn thay đổi, nhưng cũng có những yếu tố hết sức bền vững. Sở dĩ, con người thời hiện đại với thiết chế xã hội, tâm lí, kinh tế, điều kiện sống hoàn toàn khác ngày xưa, nhưng vẫn dùng tục ngữ về đời sống xã hội phù hợp trong nhiều hoàn cảnh giao tiếp là nhờ những yếu tố bền vững đó. Ví dụ, thời nào thì con người vẫn quý hơn mọi thứ trên đời, cho nên cầu: Người sống hơn đống vàng chưa bao giờ sai; hoặc tinh thần đoàn kết vẫn là chuyện cần thiết muôn thuở của con người, vậy câu: Một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm lại nên hòn núi cao vẫn còn nguyên giá trị.
VD: Tre già măng mọc
Nghĩa đen: Cây tre già đi thì có cây măng mọc lên 
Nghĩa bóng: Thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước 
1.4. Phân tích nghệ thuật của câu tục ngữ. 
Phân tích các từ ngữ, hình ảnh của câu tục ngữ.Để cho câu tục ngữ dễ hiểu, dễ nhớ cho nên người ta thường dùng các từ ngữ thuần Việt , rất ít khi sử dụng từ ngữ Hán Việt . Đại bộ phận tục ngữ đều sử dụng nhiều hình ảnh quen thuộc với đời sống của nhà nông
- Phân tích cấu tứ, kết cấu của tục ngữ đây cũng là một yếu tố nghệ thuật mà làm cho tục ngữ dễ nhớ, dễ thuộc. 
Câu 4 ( sgk Ngữ văn lớp 7 Tập ):
- Tính cân đối có khi giữa hai hoặc hơn hai vế trong một dòng, có khi giữa hai dòng của một câu tục ngữ. 
- Tính cấn đối thể hiện ở: số tiếng bằng nhau, từ loại của từ ở từng vị trí giống nhau, thanh điệu đối chọi nhau (bằng - trắc), hình ảnh tương đồng hoặc tương phản nhau,... Ví dụ:
* Sự cân đối giữa hai vế trong một dòng: 
+ Nắng chóng trưa, mưa chóng tối. 
+ Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa. 
+ Đói cho sạch, rách cho thơm.
+ Mây kéo xuống biển thì nắng chang chang, mây kéo lên ngàn thì mưa như trút. 
* Sự cân đối giữa bốn về trong một dòng: Nhất nước, nhà phân, tam cẩn, tứ giống. * Sự cân đối giữa hai dòng của một câu tục ngữ: 
+ Đêm tháng Năm chưa nắm đã sáng
Ngày tháng Mười chưa cười đã tối. 
+ Tục ngữ cấu tứ bằng những suy luận đơn giản . 
VD: Gà què ăn quẩn cối xay ,Cà cuống chết đến đít vẫn còn cay 
+ Từ suy luận này mà suy ra phán đoán khác. 
VD; Đường đi hay tối, nói dối hay cùng 
Một lượt tát, một bát cơm 
+ Suy luận đối lập trong cấu tạo của tục ngữ, có hai vế và hai vế này thường đối lập nhau về nghĩa 
VD: Của một đồng, công một nén 
+ Phân tích tục ngữ là phân tích các biện pháp tu từ: ẩn dụ, so sánh, nhân hóa ...mỗi đơn vị tục ngữ như vậy sử dụng một biện pháp nghệ thuật riêng . 
Một mặt người bằng mười mắt của 
Đói cho sạch, rách cho thơm 
=> So sánh, đối lập 
Gái thương chồng đương đồng buổi chợ 
Trai thương vợ nắng quái chiều hôm 
=> So sánh mức độ nồng nàn, dồi dào tình cảm của người phụ nữ. 
Về thời gian: Muốn đánh giá tình cảm của người phụ nữ thì đánh giá khi đang còn trẻ, tình cảm của người chồng thì phải đánh giá khi về già . 
Về sự việc: Người phụ nữ khi đi chợ thường nhớ tới người chồng và con cái ở nhà, người đàn ông nhớ vợ khi mặt trời tắt. 
II. Về Ca dao
2.1. Tìm hiểu hoàn cảnh, địa bàn ra đời của bài ca dao. 
Để thực hiện bước này chúng ta phải dựa vào từ ngữ, hình ảnh, địa danh có ở trong bài 
Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát 
Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng cũng bát ngát mênh mông 
Thân em như chẽn lúa đòng đòng 
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai 
=>Địa bàn ra đời ở miền Trung 
2.2. Xác định bài ca dao thuộc thể loại nào. 
VD: Đường vô xứ Huế quanh quanh 
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ 
Ai vô xứ Huế thì vô 
=> Bài ca dao kết hợp thể loại tự sự và trữ tình
2.3. Xác định nhân vật trữ tình của bài ca dao. 
Nhân vật trữ tình là người trực tiếp bày tỏ tình cảm .Việc xác định nhân vật trữ tình phải căn cứ cụ thể vào bài ca dao để xác định một cách đúng đắn. 
VD; Chiều chiều ra đứng ngõ sau 
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều 
=> nỗi lòng nhớ mẹ, nhớ quê nhà của người con. 
Phần lớn các bài ca dao giữa tác giả và nhân vật trữ tình đồng nhất với nhau, đó là tiếng nói chung, tiếng nói trực tiếp của người lao động. 
Ở một số bài ca dao sự phân biệt này tương đối rạch ròi, nhân vật trữ tình được xác định một cách cụ thể hơn. 
Nhân vật trữ tình trong ca dao thường mang tính phiếm chỉ như trong truyền thuyết và cổ tích, tính phiếm chỉ thể hiện hai mức độ . 
- Mức độ rộng: ở mức độ này thì nhân vật trữ tình không xuất hiện như một cá nhân cụ thể, họ là bất cứ ai và bài ca dao trở thành tiếng nói chung của mọi người. 
Rủ nhau xem cảnh kiếm hồ 
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn 
- Mức độ hẹp: có nhiều bài ca dao nhân vật trữ tình thể hiện như một cá nhân. Tất nhiên không phải là một cá nhân như ở văn học viết, họ đã đại diện cho một loại người nào đó trong xã hội. 
VD: Thân em như tấm lụa đào 
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 
Thân em như hạt mưa rào 
Hạt vào đài các, hạt vào vườn hoa 
Thân em như hạt mưa sa 
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày 
Thân em như miếng cau khô 
Người thanh chuộng mỏng người thô tham dày 
Thân em như giếng nước giữa đàng 
Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân 
=>Số phận trôi nổi, không may mắn, chịu nhiều định kiến trong xã hội phong kiến và bị đối xử không công bằng. 
2.4. Xác định đối tượng trữ tình. 
Đối tượng trữ tình là đối tượng tiếp nhận tình cảm . Đây là một Lọai nhân vật hết sức phức tạp, muôn màu, muôn vẻ.
Muốn xác định đối tượng trữ tình thì cần bám sát vào thể loại ca dao, mỗi thể loại như vậy đối tượng trữ tình biểu hiện rất khác nhau. 
- Trong ca dao đối đáp thì nhân vật trữ tình và đối tượng trữ tình 
- Luôn luôn chuyển đổi cho nhau hết sức linh hoạt khi thì chủthể khi thì đối tượng. 
VD: Anh đến tìm hoa, hoa đến thì thì hoa phải nở 
Anh đến bến đò, đò đầy đò phải qua sông 
Đến duyên em, em phải lấy chồng 
Em yêu anh rứa, hỏi có mặn nồng thì tùy em 
- Trong hát ru muốn xác định đúng đối tượng trữ tình thì phải căn cứ vào hoàn cảnh sử dụng, mỗi bài có một cách xác định khác nhau. 
3. Kết quả
 	Kết quả đạt được sau khi kết thúc học kì 1 năm 2022 – 2023:
- Qua thực hiện và vận dụng những biện pháp “Nâng cao chất lượng trong dạy ca dao, tục ngữ trong chương trình ngữ văn 7 ” vừa nghiên cứu vừa rút kinh nghiệm với đối tượng nghiên cứu là học sinh ba lớp 7A, 7B, 7C từ đầu năm học đến nay. Tôi nhận thấy các em đã có hứng thú và tích cực hơn trong việc học tập bộ môn.
- Kết quả khảo sát đầu học kì 2 cho thấy sự hứng thú, tích cực của học sinh trong tiết học ngữ văn là rất hiệu quả ,cụ thể như sau :
Số học sinh khảo sát
Phát biểu nhiều
Có phát biểu nhưng không nhiều
Không phát biểu
Khối 7
65/123
38/123
20/123
Tổng số
52,8%
30,9%
16,3%
- Tỉ lệ học sinh có hứng thú học tập môn Ngữ Văn 7 tăng lên; số học sinh có biểu hiện chán nản, mệt mỏi trong học tập bộ môn giảm rõ rệt.
- Sự tích cực trong việc học tập bộ môn tăng, thể hiện ở kết quả điều tra sau:
+ Tỉ lệ số học sinh thường xuyên chú ý nghe giảng; hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài và ghi chép bài đầy đủ tăng lên.
+ Tỉ lệ số học sinh thường xuyên học bài cũ; làm bài tập về nhà; đọc bài trước ở nhà; chuẩn bị đồ dùng học tập đầy đủ cho bài học mới tăng lên.
+ Trước khi áp dụng biện pháp thì rất ít học sinh giơ tay để lên bảng trình bày và trả lời câu hỏi. Nhưng sau khi thực hiện biên pháp thì rất nhiều em học sinh ở các lớp đã mạnh dạn lên bảng trình bày các bài tập.
4. Đánh giá chung :
Như vậy, đối với việc thực hiện biện pháp“ Nâng cao chất lượng trong dạy học ca dao-tục ngữ môn Ngữ Văn 7 ở trường PTDTBT THCS Sủng Trái’’”. Đây là biện pháp được nhiều giáo viên bộ môn cũng rất quan tâm, mặc dù thời gian thực hiện biện pháp và rút ra kết luận còn hạn chế, phạm vi đối tượng nghiên cứu nhỏ ở học sinh khối lớp 7 (A,B,C) với 123 học sinh việc tạo môi trường học tập gây được hứng thú cho học sinh sẽ tạo cho việc học tập của học sinh tích cực hơn, kết quả học tập của học sinh cao hơn. Để đạt được kết quả tốt thì cần phối hợp nhiều biện pháp, vận dụng nhiều cách thức tổ chức các hoạt động dạy và học mang tính sư phạm.
5. Phương hướng nhiệm vụ trong năm học tiếp theo
- Cần thường xuyên tìm hiểu các phương pháp dạy học mới, tích cực và tích hợp liên môn. Tổ chức các hoạt động lấy học sinh làm trung tâm để các em có sự trao đổi, tương tác trong quá trình học tập.
- Với bản thân mỗi giáo viên việc tự học, tự bồi dưỡng, tự nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp, trao đổi về phương pháp dạy học, nêu cao tinh thần trách nhiệm, hăng say trong giảng dạy là điều không thể thiếu để nâng cao dần chất lượng mỗi giờ dạy và kết quả giảng dạy môn Ngữ Văn 7. 
- Bản thân tôi tin tưởng rằng, nếu vận dụng những biện pháp thích hợp sẽ mang lại kết quả khả quan trong việc học tập và giảng dạy môn Ngữ Văn 7 nói riêng và bộ môn Ngữ Văn nói chung ở Trường PTDT BT- THCS Sủng Trái.
- Tôi xin chân thành cảm ơn
 Sủng Trái, ngày 12 tháng 02 năm 2023
Xác nhận của hiệu trưởng
 Người viết
 Âu Đình Hữu
 Âu Đình Hữu

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_chat_luong_trong_day_ca_dao_t.docx