SKKN Rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh qua tiết 85, Ngữ văn 7: “Sự giàu đẹp của tiếng Việt" (Đặng Thai Mai)

SKKN Rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh qua tiết 85, Ngữ văn 7: “Sự giàu đẹp của tiếng Việt" (Đặng Thai Mai)

Đầu thế kỷ XX, nhân kỷ niệm ngày sinh Nguyễn Du, học giả Phạm Quỳnh đã sang sảng tuyên ngôn: "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn; có gì mà lo, có gì mà sợ, có điều chi nữa mà ngờ!." [2]. Lời cụ Phạm không chỉ tỏ bày sự ái mộ với cụ Nguyễn Tiên Điền, với Truyện Kiều, mà trong sâu thẳm, ta còn thấy một niềm tự hào sâu sắc lẫn nhiệt huyết lớn lao với tiếng nói dân tộc.

Gần đây, sau buổi thi môn Ngữ văn kỳ thi quốc gia 2016, một loạt tranh cãi đã diễn ra liên quan đến câu thơ trong bài Tiếng Việt của Lưu Quang Vũ. Đề thi có đoạn:

"Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói

Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ

Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa

Óng tre ngà và mềm mại như tơ"

Nhiều giáo viên, người yêu văn học và cả một số nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình,. cho rằng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nhầm lẫn trong đề thi, bởi theo nhiều người thì câu thơ chính xác phải là: "Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa". Nhưng hãy khoan bàn luận, tham gia tranh cãi về câu chữ đúng- sai của bài thơ. Nhìn nhận một cách khách quan, ta thấy dù ngả theo phương án nào thì những người đúng và cả người chưa đúng đều rất tâm huyết với một tác phẩm đã tôn vinh tiếng Việt. Suy rộng ra, đây là một việc làm tốt, có trách nhiệm của những người có tâm với tiếng nói của dân tộc. Không có tình yêu với ngôn ngữ của đất nước thì không bao giờ khi thấy đem so sánh tiếng Việt với "bùn" hay "đất cày", người ta phải suy nghĩ, khó chịu, trăn trở,. đến mức nổ ra tranh luận quyết liệt đến thế. Tranh luận để tìm ra chân lý là một điều đáng mừng, đáng quý, đáng trân trọng.

Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, tiếng Việt vẫn phát huy những thế mạnh của mình. Bao nhiêu dân tộc anh em cùng sinh sống trên dải đất hình chữ S này là có bấy nhiêu sự đa dạng về ngôn ngữ, nhưng tiếng Việt vẫn là tiếng nói chung, đảm trách vai trò ngôn ngữ chính. Không chỉ bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ, tiếng Việt còn là quốc ngữ, mang tiếng nói của người Việt đến năm châu. Người Việt tự hào về tiếng nói của mình; và người nước ngoài cũng ấn tượng sâu sắc: "Tiếng Việt tuy khó, nhưng lại du dương, hòa điệu giống như bản nhạc liên hồi" (Borri); "Những người Việt từ nhỏ đã học nói theo nhịp điệu, dù họ không phải là nhạc sư" (Marini), v.v. [8].

Tuy nhiên, việc sử dụng tiếng Việt hiện nay ở một số người, nhất là lớp trẻ, đã đang dần biến một ngôn ngữ trong sáng thành thứ tiếng "xộc xệch, nhếch nhác, ô hợp". Nói một cách hình ảnh thì đó hành vi làm "ô nhiễm tiếng Việt". Lứa tuổi học sinh THCS có thể chưa nhận thức đầy đủ về giá trị của tiếng Việt đối với đời sống, lịch sử và truyền thống dân tộc; lại càng chưa biết cách bảo vệ, giữ gìn sự trong sáng của tiếng mẹ đẻ một cách tích cực, sâu sắc; nhưng nếu chưa làm được điều ấy thì yêu cầu trước hết đó là bản thân các em đừng làm "tổn thương" tiếng Việt thân yêu.

Xuất phát từ những lý do trên, sáng kiến kinh nghiệm: "Rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh qua tiết 85, Ngữ văn 7: “Sự giàu đẹp của tiếng Việt" (Đặng Thai Mai)" được hình thành, mong góp tiếng nói nhỏ của tôi gửi đến các đồng chí, đồng nghiệp.

 

doc 22 trang thuychi01 6375
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh qua tiết 85, Ngữ văn 7: “Sự giàu đẹp của tiếng Việt" (Đặng Thai Mai)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THẠCH THÀNH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 RÈN LUYỆN KĨ NĂNG SỬ DỤNG TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH QUA TIẾT 85, NGỮ VĂN 7: “SỰ GIÀU ĐẸP CỦA TIẾNG VIỆT” (ĐẶNG THAI MAI)
Người thực hiện:
Nguyễn Lương Tâm
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác:
Trường THCS Thành Tâm,
huyện Thạch Thành, Thanh Hóa
SKKN môn:
Ngữ văn
THANH HÓA, NĂM 2017
MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
 Trang
1.1. Lý do chọn đề tài.................................................................
1
1.2. Mục đích nghiên cứu...............
2
1.3. Đồi tượng nghiên cứu.............................
2
1.4. Phương pháp nghiên cứu...........................................................
2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.........................
2
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến...
3
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp........................
6
2.3.1. Từ văn bản “Sự giàu đẹp của tiếng Việt” của Đặng Thai Mai, có thể tích hợp rèn kĩ năng sử dụng tiếng Việt ở một số tiết học trong chương trình Ngữ văn 7..................................................................
6
2.3.2. Từ "Sự giàu đẹp của tiếng Việt", từng bước hướng dẫn học sinh nắm vững đặc trưng và các giá trị của ngôn ngữ tiếng Việt vào một số văn bản và đoạn trích văn bản cụ thể............................................ 
8
2.3.3. Từ văn bản "Sự giàu đẹp của tiếng Việt", đi đến rèn luyện ý thức cho học sinh tình yêu tiếng Việt ở một số văn bản cụ thể trong chương trình Ngữ văn 7............................................................................
11
2.3.4. Từ văn bản “Sự giàu đẹp của tiếng Việt” đi đến rèn luyện cho học sinh khả năng sử dụng tiếng Việt trong văn học và trong giao tiếp hàng ngày...........................................................................................
13
2.3.5. Đổi mới kiểm tra, đánh giá sau quá trình tiếp nhận văn bản “Sự giàu đẹp của tiếng Việt” cho học sinh..............................................
15
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm........................................
16
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Đầu thế kỷ XX, nhân kỷ niệm ngày sinh Nguyễn Du, học giả Phạm Quỳnh đã sang sảng tuyên ngôn: "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn; có gì mà lo, có gì mà sợ, có điều chi nữa mà ngờ!..." [2]. Lời cụ Phạm không chỉ tỏ bày sự ái mộ với cụ Nguyễn Tiên Điền, với Truyện Kiều, mà trong sâu thẳm, ta còn thấy một niềm tự hào sâu sắc lẫn nhiệt huyết lớn lao với tiếng nói dân tộc.
Gần đây, sau buổi thi môn Ngữ văn kỳ thi quốc gia 2016, một loạt tranh cãi đã diễn ra liên quan đến câu thơ trong bài Tiếng Việt của Lưu Quang Vũ. Đề thi có đoạn:
"Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói
Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ
Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa
Óng tre ngà và mềm mại như tơ" 
Nhiều giáo viên, người yêu văn học và cả một số nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình,... cho rằng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nhầm lẫn trong đề thi, bởi theo nhiều người thì câu thơ chính xác phải là: "Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa". Nhưng hãy khoan bàn luận, tham gia tranh cãi về câu chữ đúng- sai của bài thơ. Nhìn nhận một cách khách quan, ta thấy dù ngả theo phương án nào thì những người đúng và cả người chưa đúng đều rất tâm huyết với một tác phẩm đã tôn vinh tiếng Việt. Suy rộng ra, đây là một việc làm tốt, có trách nhiệm của những người có tâm với tiếng nói của dân tộc. Không có tình yêu với ngôn ngữ của đất nước thì không bao giờ khi thấy đem so sánh tiếng Việt với "bùn" hay "đất cày", người ta phải suy nghĩ, khó chịu, trăn trở,... đến mức nổ ra tranh luận quyết liệt đến thế. Tranh luận để tìm ra chân lý là một điều đáng mừng, đáng quý, đáng trân trọng.
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, tiếng Việt vẫn phát huy những thế mạnh của mình. Bao nhiêu dân tộc anh em cùng sinh sống trên dải đất hình chữ S này là có bấy nhiêu sự đa dạng về ngôn ngữ, nhưng tiếng Việt vẫn là tiếng nói chung, đảm trách vai trò ngôn ngữ chính. Không chỉ bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ, tiếng Việt còn là quốc ngữ, mang tiếng nói của người Việt đến năm châu. Người Việt tự hào về tiếng nói của mình; và người nước ngoài cũng ấn tượng sâu sắc: "Tiếng Việt tuy khó, nhưng lại du dương, hòa điệu giống như bản nhạc liên hồi" (Borri); "Những người Việt từ nhỏ đã học nói theo nhịp điệu, dù họ không phải là nhạc sư" (Marini), v.v... [8].
Tuy nhiên, việc sử dụng tiếng Việt hiện nay ở một số người, nhất là lớp trẻ, đã đang dần biến một ngôn ngữ trong sáng thành thứ tiếng "xộc xệch, nhếch nhác, ô hợp". Nói một cách hình ảnh thì đó hành vi làm "ô nhiễm tiếng Việt". Lứa tuổi học sinh THCS có thể chưa nhận thức đầy đủ về giá trị của tiếng Việt đối với đời sống, lịch sử và truyền thống dân tộc; lại càng chưa biết cách bảo vệ, giữ gìn sự trong sáng của tiếng mẹ đẻ một cách tích cực, sâu sắc; nhưng nếu chưa làm được điều ấy thì yêu cầu trước hết đó là bản thân các em đừng làm "tổn thương" tiếng Việt thân yêu.
Xuất phát từ những lý do trên, sáng kiến kinh nghiệm: "Rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh qua tiết 85, Ngữ văn 7: “Sự giàu đẹp của tiếng Việt" (Đặng Thai Mai)" được hình thành, mong góp tiếng nói nhỏ của tôi gửi đến các đồng chí, đồng nghiệp.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Sáng kiến kinh nghiệm hướng đến những mục đích cơ bản sau:
- Làm rõ giá trị và những yếu tố có thể vận dụng vào việc rèn luyện ngôn ngữ tiếng Việt cho học sinh qua văn bản "Sự giàu đẹp của tiếng Việt".
- Thực hành vận dụng các yếu tố của văn bản "Sự giàu đẹp của tiếng Việt" vào một số bài dạy học trong chương trình Ngữ văn 7 và quá trình giao tiếp của học sinh nhằm kịp thời điều chỉnh, uốn nắn những hành vi chưa phù hợp trong sử dụng ngôn ngữ của các em. Từ đó có sự định hướng, xây dựng phương pháp thích hợp để giáo dục học sinh biết yêu quý, giữ gìn và phát huy những giá trị của tiếng Việt.
- Tiếp thu góp ý của đồng nghiệp và lắng nghe ý kiến của học sinh nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và dạy học. 
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh: Khối lớp 7 (Trường THCS Thành Tâm, huyện Thạch Thành).
- Bài dạy học: "Sự giàu đẹp của tiếng Việt" (Tiết 85, Ngữ văn 7) và một số tiết trong chương trình Ngữ văn 7.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt hiệu quả khi nghiên cứu, tôi vận dụng một số phương pháp như: 
- Phương pháp quan sát;
- Phương pháp điều tra;
- Phương pháp phân tích- tổng kết kinh nghiệm;
- Phương pháp tổng hợp;
- Phương pháp phân loại;
- Phương pháp mô hình hóa lý thuyết;
v.v
	2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Để thực hiện mục tiêu giáo dục nói chung, suốt chương trình Ngữ văn 7, những người xây dựng chương trình sách giáo khoa đã biên soạn nội dung theo hướng lồng ghép những văn bản, những bài học có tính chất rèn luyện, vận dụng ngôn ngữ như: giúp học sinh nhận biết được tác dụng của việc sử dụng từ láy, từ ghép; nhận thấy sự phong phú của tiếng Việt qua những kiến thức liên quan đến từ đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng âm, chơi chữ; rèn kĩ năng rút gọn câu, mở rộng câu; kĩ năng sử dụng từ và dấu câu; luyện năng lực chứng minh, giải thích; v.v Về phần văn bản, Từ Sự giàu đẹp của tiếng Việt trong văn bản của Đặng Thai Mai, ta có thể cảm nhận được giá trị của ngôn ngữ tiếng Việt qua các văn bản: nét đặc sắc của những những bài ca dao, câu tục ngữ; vẻ đẹp ngôn từ trong một số tác phẩm như Bài ca Côn Sơn, Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra, Sau phút chia ly, Qua Đèo Ngang, Tiếng gà trưa, Mùa xuân của tôi, Ý nghĩa văn chương, Ca Huế trên sông Hương, v.v 
Năm 1966, khi phát động "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt", Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhấn mạnh: “Tiếng Việt của chúng ta rất giàu. Tiếng Việt của chúng ta rất đẹp. Giàu bởi kinh nghiệm đấu tranh của nhân dân ta lâu đời và phong phú. Đẹp bởi tâm hồn của người Việt Nam ta rất đẹp. Hai nguồn của cái giàu, cái đẹp ấy là ở chỗ tiếng Việt là tiếng nói của nhân dân, đầy tình cảm, màu sắc và âm điệu, hồn nhiên, ngộ nghĩnh và đầy ý nghĩa; đồng thời nó là ngôn ngữ của văn học mà những nhà thơ lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du... và những nhà văn, nhà thơ ngày nay ở miền bắc và miền nam đã nâng lên đến trình độ rất cao về nghệ thuật” [2].
Đến hôm nay, nhiệm vụ quan trọng ấy vẫn còn nguyên tính thời sự. Ngày 05/11/2016, tại Hội thảo khoa học "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên các phương tiện thông tin đại chúng", Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam đã nhận xét: "Rất dễ thấy hiện tượng lạm dụng ngôn từ và cách nói từ tiếng nước ngoài. Điều đáng báo động là không có nhiều, không có đủ những phân tích, phê phán và nhắc nhở về những biểu hiện đó”. Đồng thời, đồng chí Phó Thủ tướng cũng định hướng khi nói, khi viết cần: "...trong trẻo, không có tạp chất, phải trung thành, sáng tỏ được ý muốn viết, muốn nói" [1].
Trong bài viết "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng việt – trách nhiệm không của riêng ai!", cô giáo Nguyễn Thị Thúy (Trường THPT Trần Hưng Đạo, tỉnh Vĩnh Phúc) đã khẳng định: "Có thể nói rằng ngôn ngữ của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc là một thứ tài sản vô cùng quý giá. Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện quan trọng trong các hoạt động giao tiếp của con người và xã hội mà đối với mỗi dân tộc, ngôn ngữ còn được ví như một thứ “căn cước” của nền văn hóa. Chính vì thế mà sống cách ta gần nửa thế kỷ, ông chủ bút báo Nam Phong khi diễn thuyết về Nguyễn Du và Truyện Kiều đã từng khẳng định “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; Tiếng ta còn, nước ta còn”. Chính vì lẽ đó mà giữ gìn, bảo vệ ngôn ngữ dân tộc là một việc làm cần thiết và thường trực của mỗi con người, mỗi quốc gia." [3].
v.v...
Điểm qua một số nhận xét, đánh giá, ta nhận thấy việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là vấn đề đã được quan tâm từ lâu và liên tục. Tuy nhiên, đó chỉ mới dừng ở mức độ trình bày ý kiến, quan điểm hoặc phát biểu hội nghị chứ chưa có công trình nào bàn sâu về vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt ở các nhà trường- đặc biệt là trường THCS. Vì vậy, dù có trăn trở suy nghĩ đến nhưng giáo viên và các nhà trường chưa có kinh nghiệm để giải quyết, khắc phục hiện trạng trên. Sáng kiến kinh nghiệm này nhắc đến một vấn đề cũ, nhưng cố gắng để tìm ra cách tiếp cận mới, cách xử lý phù hợp với đặc điểm tình hình sử dụng tiếng Việt hiện nay.
Không phải ngẫu nhiên mà văn bản Sự giàu đẹp của Tiếng Việt của tác giả Đặng Thai Mai được chọn đưa vào chương trình Ngữ văn 7. Đó là một quan điểm đúng và việc làm cần thiết, kịp thời. Tôi cho rằng đây là một trong những bài viết xuất sắc, thuyết phục về tiếng nói dân tộc. Văn bản hội tụ cơ bản các tiêu chí của một tác phẩm có giá trị về nội dung, nghệ thuật; đồng thời có tính tích hợp cao với các phân môn Tiếng Việt và Làm văn. Mặt khác, thông qua văn bản và liên hệ với một số văn bản khác trong chương trình, giáo viên có thể giúp học sinh thêm yêu tiếng Việt, biết trân trọng, giữ gìn, phát huy tiếng nói của dân tộc chúng ta. 
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Về phía giáo viên
Đa số giáo viên đều có ý thức, nỗ lực hoàn thiện bản thân để xứng đáng là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Trong sự cố gắng không ngừng nghỉ ấy, nhiều thầy, cô đã tự rèn cho mình cách diễn đạt chuẩn mực, ngôn ngữ trong sáng, biểu cảm, tinh tế, tác động tích cực, sâu sắc đến học trò. Cách xưng hô của nhiều thầy giáo, cô giáo cũng giúp học sinh cảm nhận được sự thân thiện, gần gũi, ấm áp, truyền cảm hứng đến sự tiếp nhận kiến thức và lay động cảm xúc, tâm hồn các em.
Tuy nhiên, do tính đặc thù về phương ngữ nên điều hạn chế dễ nhận thấy nhất đó là không ít giáo viên khi giảng bài còn sử dụng từ ngữ địa phương rất nặng. Chẳng hạn: phát âm "có" thành "quớ", "trâu" thành "châu", "cái này" thành "cái ni", "cái kia" thành "cái tê", "không biết đâu" thành "không biết mô",... Có đồng chí, quê ở vùng Nam Định, khi chuyển về dạy trên địa bàn Thanh Hóa vẫn phát âm theo thổ âm đặc trưng của vùng miền trước đây mình đã sinh sống như: "nỗi niềm" thành "lỗi liềm", "long lanh" thành "nong nanh", "nóng nực" thành "lóng lực", "chú bé liên lạc Lượm" thành "chú bé niên nạc Nượm",... Cảm giác vừa khó chịu, vừa buồn cười khi phải nghe ai đó đọc bài thơ Bánh trôi nước của nữ sĩ Hồ Xuân Hương bằng một giọng thật không thể diễn tả nổi:
 BÁNH TRÔI LƯỚC 
Thân em vừa trắng nại vừa tròn
Bảy lổi ba chìm với lước lon
Rắn lát mặc dầu tay kẻ lặn
Mà em vẫn giữ tấm nòng son [6] 
Không chỉ gây cười, cách phát âm như trên sẽ khiến cho giờ học thiếu tính tập trung, ý nghĩa tác phẩm bị lạc và toàn bộ giá trị thẩm mĩ của bài thơ bị đánh mất.
Chưa dừng lại ở sự phát âm nặng tính địa phương, ở mức đáng phê phán hơn, không ít giáo viên còn xưng hô, gọi đồng nghiệp quá suồng sã, cẩu thả: "Mày ơi!", "Mi ơi!", "Ông này", "Bà kia", thậm chí là "Con này", "Thằng kia",... Ở mức nghiêm trọng hơn, một số người đã dùng những từ ngữ nặng nề mỉa mai, miệt thị, thậm chí xúc phạm nhân cách đồng nghiệp và học sinh. Vì vậy, để giúp học sinh biết tôn trọng, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, chúng ta cần quan tâm đầu tiên đến vai trò của người dạy. Người dạy không chuẩn mực thì khó có thể có những tâm hồn học trò chuẩn mực.
2.2.2. Về phía học sinh 
Hiện nay, không chỉ trên mạng xã hội, trong giao tiếp của giới trẻ, trong sinh hoạt của một bộ phận xã hội, mà ngay cả trên một số phương tiện thông tin đại chúng, hiện tượng "tiếng ta đá tiếng Tây", lạm dụng ngôn ngữ nước ngoài hoặc dùng tiếng Việt không chuẩn xác đang làm "nghèo" đi tiếng Việt. Đây là một hiện tượng khá phổ biến, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự giàu đẹp, trong sáng của ngôn ngữ dân tộc- một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam. [3] 
Đất nước ta đa dạng về dân tộc và vùng miền nên ngôn ngữ dân tộc và từ ngữ địa phương rất phong phú. Cộng với đó, trong thời đại công nghệ thông tin, mạng internet, mạng xã hội, điện thoại di động phát triển ồ ạt,... khiến nhiều người bị ảnh hưởng tiêu cực trong cách dùng từ, lười đọc sách dẫn đến tình trạng nghèo nàn về vốn từ vựng. Không khó để tìm thấy trong một giờ học, một số học sinh nhiệt tình xung phong trả lời, nhưng diễn đạt không gãy gọn, ngập ngừng ấp úng. Các em hiểu nhưng yếu về kĩ năng trình bày, không đủ ngôn ngữ để diễn đạt điều muốn nói. Rất nhiều từ tiếng Việt hay, dư sức truyền cảm như: nóng, nóng rực, nóng ran, nồng nhiệt, ấm, ấm áp, sục sôi, sôi động, sôi nổi, nổi bật,... nhưng học sinh chỉ đủ sức diễn đạt bằng một từ: "hot"- từ tiếng Anh mà rất nhiều phương tiện truyền thông vẫn hay dùng. Không hiểu sao các em không dùng các từ tiếng Việt gợi cảm như: trẻ trung, mơn mởn, tuổi xuân, sức xuân,... để diễn tả vẻ đẹp của tuổi trẻ mà lại dùng ngôn từ xa lạ: "Xì- tin".
Có thể kể thêm ra đây một vài đoạn ngôn ngữ thiếu trong sáng (người ta hay gọi là "ngôn ngữ @") mà lứa trẻ hiện nay hay dùng như:
- Bà ấy (chỉ cô giáo) dạy hay dã man! (Cô ấy dạy hay tuyệt vời!)
- Trông anh ấy hót boy quá, men- lỳ quá! (Trông anh ấy ấn tượng quá, nam tính quá).
- Mẹ thật là ve- ry gút! Thanh kiu mẹ của con! (Mẹ thật là tốt, mẹ tốt quá! Cảm ơn mẹ của con!)
Rồi có những lời nói của lớp trẻ mà người lớn không hiểu nổi, mà nếu hiểu được thì phải bàng hoàng, giật mình:
- Con bé kia nhìn sexy thế! (Cô bé kia nhìn gợi cảm, quyến rũ thế!)
Thậm chí là những phát ngôn quá sức tục tĩu:
- Tao đếch cần biết nó là đứa nào! Đệch mợ! Tao chuẩn cmnr! (Tao đ... cần biết nó là đứa nào! Đ... m...! Tao chuẩn con mẹ nó rồi!)
Ngoài nói tục, chửi bậy, nói năng không có đầu có đũa, trả lời cộc lốc thì việc không đủ năng lực ngôn ngữ để diễn đạt một điều gì đó thực sự đang là vấn nạn lớn của học sinh trong các nhà trường. Tuổi trẻ hiếu động, năng động, thích những điều lạ, điều mới; nhưng chính những cái thích ấy đang làm nghèo đi tiếng mẹ đẻ thân thương. Khảo sát đối tượng học sinh lớp 7B trường THCS Thành Tâm, tôi thống kê được số liệu như sau:
THỐNG KÊ HÀNH VI, NĂNG LỰC SỬ DỤNG NGÔN NGỮ CỦA HỌC SINH
(Lớp: 7B; Thời gian làm khảo sát: tuần học thứ 5)
Sĩ số 
HS
Sử dụng ngôn ngữ
Kết quả
thống kê
Nguồn ảnh hưởng chủ yếu
(Bạn bè, mạng Internet, người lớn,...)
Số lượng
Tỉ lệ (%)
31
Nói tục, chửi bậy
14
45.2
Bạn bè, mạng Internet, 
người lớn,...
Nói cộc lốc
21
67.7
Bạn bè, mạng Internet, 
người lớn,...
Nói tiếng Việt xen lẫn tiếng nước ngoài không phù hợp
31
100
Bạn bè, mạng Internet, 
người lớn,...
Thực tế đang diễn ra và bảng thống kê chính là những con số biết nói, gióng lên hồi chuông báo động với người lớn, với giáo viên về trách nhiệm đối với thế hệ trẻ- những mầm non, chủ nhân tương lai của đất nước. Một việc làm dù nhỏ nào nhưng nếu có thể hạn chế được những biểu hiện tiêu cực đã nêu trên đều là cần thiết và cấp bách.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Từ văn bản “Sự giàu đẹp của tiếng Việt” của Đặng Thai Mai, có thể tích hợp rèn kĩ năng sử dụng tiếng Việt ở một số tiết học trong chương trình Ngữ văn 7
Tất cả những tiết học của cả ba phân môn Văn, Tiếng Việt và Làm văn của bộ môn Ngữ văn cuối cùng đều hướng đến việc hình thành kiến thức, kĩ năng, thái độ, năng lực liên quan đến việc học tập và rèn luyện, trau dồi khả năng sử dụng tiếng mẹ đẻ của người học. Đặc biệt, từ quá trình giảng dạy văn bản của Đặng Thai Mai, tôi nhận thấy có thể tích hợp giáo dục tình yêu và khả năng sử dụng tốt tiếng Việt của các em qua các tiết học bằng bảng thống kê dưới đây: 
TT
Tiết theo PPCT
Đơn vị
bài dạy
Khả năng tích hợp để giáo dục học sinh
sử dụng, giữ gìn, phát huy giá trị của tiếng Việt
1
4
Liên kết trong văn bản
- Biết vận dụng những hiểu biết về liên kết vào việc đọc- hiểu, tạo lập văn bản; vận dụng trong cuộc sống.
2
9, 10, 13, 14
Ca dao, dân ca
- Nhận thức sâu sắc, yêu mến một thể loại văn học truyền thống, bình dân của dân tộc Việt Nam: ca dao, dân ca.
- Học tập được cách ứng xử của tác giả dân gian trước những giá trị đạo đức tốt đẹp; những tình cảm cao quý; cách nhân dân phê phán thói hư, tật xấu, những hủ tục lạc hậu.
3
11
Từ láy
- Có ý thức rèn luyện, trau dồi vốn từ láy.
- Hiểu nghĩa và biết cách sử dụng một số từ láy quen thuộc để tạo giá trị gợi hình, gợi tiếng, biểu cảm, để nói giảm hoặc nhấn mạnh.
4
15
Đại từ
- Thấy được hệ thống đại từ trong tiếng Việt là rất phong phú.
- Biết sử dụng đại từ phù hợp với yêu cầu giao tiếp.
5
18, 23
Từ 
Hán Việt
- Có ý thức sử dụng từ Hán Việt đúng nghĩa, phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp; mở rộng vốn từ Hán Việt.
- Hiểu được rằng mượn từ ngữ tiếng nước ngoài phù hợp cũng là cách làm giàu tiếng mẹ đẻ.
6
21
Bài ca 
Côn Sơn
- Phân tích đoạn thơ chữ Hán được dịch sang tiếng Việt theo thể thơ lục bát để thấy được thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc có khả năng biểu đạt đầy đủ, sinh động tư tưởng, tình cảm.
7
35, 39, 43
Từ đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng âm
- Có ý thức lựa chọn từ đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng âm khi nói, viết; sử dụng các loại từ trên phù hợp với ngữ cảnh và đời sống.
8
45
Cảnh khuya; Rằm tháng giêng
- Phân tích để thấy được chiều sâu nội tâm của người chiến sĩ cách mạng và vẻ đẹp mới mẻ của những chất liệu cổ thi trong sáng tác của lãnh tụ Hồ Chí Minh.
9
48
Thành ngữ
- Giải thích ý nghĩa của một số thành ngữ thông dụng.
- Ý thức trau dồi vốn thành ngữ, biết cách vận dụng phù hợp.
10
54
Điệp ngữ
- Biết cách vận dụng phép điệp ngữ vào khi nói và viết.
11
55, 56
Luyện nói: Phát biểu cảm nghĩ về một tác phẩm văn học
- Luyện tập phát biểu miệng trước tập thể, bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ về tác phẩm văn học.
- Biết cách bộc lộ tình cảm về một tác phẩm văn học trước tập thể.
- Diễn đạt mạch lạc, rõ ràng những tình cảm của bản thân về một tác phẩm văn học bằng ngôn ngữ nói.
12
59
Chơi chữ
- Hiểu thế nào là phép chơi chữ và tác dụng của chơi chữ.
- Biết cách vận dụng phép chơi chữ và thực tiễn nói và viết.
13
60
Làm thơ lục bát
- Biết nhận diện, phân tích vần, luật bằng trắc, nhịp thơ lục bát.
- Tập viết được những câu, đoạn, bài thơ lục bát ngắn đúng luật, có cảm xúc.
14
61
Chuẩn mực sử dụng từ
- Hiểu các yêu cầu của việc sử dụng từ đúng chuẩn mực.
- Tự thấy được nhược điểm của bản thân trong việc sử dụng từ; sửa chữa được những

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_ren_luyen_ki_nang_su_dung_tieng_viet_cho_hoc_sinh_qua_t.doc